2 NGHIÊN CỨU TỪ NGUYÊN HỌC TIẾNG VIỆT
Tuyệt đại đa số những từ ngữ “bác học” trong tiếng Việt đều có nguồn gốc Hán - Việt, do
đó nhà nghiên cứu từ nguyên học mảng từ vựng này nhất thiết phải có kiến thức về từ
Hán - Việt.
(1)
Chẳng hạn như trong Dictionnaire étymologique de la langue française (Oscar BLOCH & W. von
WARTBURG, Nxb PUF, Paris 1960) :
BANC, vers 1080 (Roland). Empr. du germ. *banqui, (...)
[BANC (ghế dài), khoảng năm 1080 (trường ca Roland). Vay mượn từ tiếng germanique *banqui (...)]. Dấu
hoa thị * đặt trước một từ dùng để chỉ rằng nguồn gốc đó chỉ là giả định mà thôi.
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2005:3 176-182
Trường Đại học Cần Thơ
177
Bên cạnh lớp từ ấy, tiếng Việt còn có những từ ngữ được sử dụng trong đời sống hàng
ngày, thường xuất hiện dưới dạng khẩu ngữ hơn là trong các văn bản viết, nhất là từ vựng
của các phương ngữ. Vì thế, nguồn gốc của chúng ít được các nhà nghiên cứu quan tâm
đến, nhất là việc xác định năm xuất hiện của chúng gần như là không thể vì văn bản viết
không thể nào ghi chép lại được tất cả vốn từ được lưu hành trong toàn thể một cộng
đồng ngôn ngữ, kể cả trong thời đại phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại
chúng bằng chữ viết như ngày nay.
Để nghiên cứu nguồn gốc của những từ ấy, nhà nghiên cứu phải có vốn từ vựng phong
phú của những ngôn ngữ đã và đang tiếp xúc với tiếng Việt : đó là các ngôn ngữ của các
dân tộc anh em sống trên lãnh thổ Việt Nam, các phương ngữ Trung Hoa là tiếng mẹ đẻ
của các cộng đồng di dân đến từ Trung Quốc trong những thế kỷ trước (tiếng “Tiều”
[Triều Châu], tiếng “Quảng” [Quảng Đông, Quảng Tây]...), cũng như tiếng Pháp, tiếng
Anh là hai ngoại ngữ quan trọng nhất mà người Việt đã làm quen trong giai đoạn lịch sử
cận đại và hiện đại. Trong bối cảnh tiếp xúc với nhiều ngôn ngữ như thế, việc vay mượn
từ ngữ từ nhiều nguồn gốc khác nhau là điều không thể tránh khỏi. Do đó, việc nghiên
cứu từ nguyên của một bộ phận từ vựng tiếng Việt hiện đại đòi hỏi phải có kiến thức về
nhiều thứ tiếng khác nhau. Nhưng yêu cầu cao như thế thường vượt quá khả năng của một
nhà nghiên cứu, do đó, ta thấy các công trình trong lãnh vực này thường chỉ tập trung vào
một nguồn gốc nào đó của tiếng Việt : về từ gốc Hán có Tầm nguyên Từ điển của Bửu
Kế, Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt của Lê Đình Khẩn, về từ gốc Pháp có Từ điển các
từ tiếng Việt gốc Pháp của Nguyễn Quảng Tuân & Nguyễn Đức Dân. Một số nhà nghiên
cứu khác có tham vọng lớn hơn, muốn truy nguyên càng nhiều càng tốt kho tàng từ vựng
tiếng Việt, và họ ít nhiều đều vấp phải nhược điểm là võ đoán, gán ghép tùy tiện, do chỉ
dựa vào suy luận phiến diện, thiếu cơ sở khoa học.
Khó khăn của việc truy nguyên nguồn gốc của một từ nằm ở chỗ chẳng những nhà nghiên
cứu phải tìm ra những từ có khả năng là từ gốc của từ ấy, mà còn phải chứng minh được
mối quan hệ của từ đang được nghiên cứu với một từ được giả định là nguồn gốc của từ
đó. Thật là phi lý khi cho rằng xà lan có nguồn gốc từ tiếng Khơ-me mà không giải thích
được tại sao tiếng Việt lại đi vay mượn từ ấy của tiếng Khơ-me, là ngôn ngữ của một
nước có nền khoa học kỹ thuật còn non kém, không đủ khả năng để chế tạo ra vật mang
tên xà lan để cho tiếng Việt vay mượn từ những năm đầu của thế kỷ trước. Có trường hợp
nhiều nhà nghiên cứu không thống nhất ý kiến với nhau về nguồn gốc của một số từ nào
đó, nghĩa là chúng được gán cho nhiều từ gốc khác nhau, như trường hợp từ (áo) bà ba.
Nhưng cũng có những trường hợp, nhà nghiên cứu không thể tìm ra lai lịch của chúng, và
thường chỉ dừng lại ở giả thuyết cho rằng đó là từ Việt cổ. Vì thế, việc xác định được lai
lịch của một từ không dễ dàng chút nào, và nhà nghiên cứu cần phải vận dụng nhiều dữ
liệu đôi khi không thuộc lãnh vực ngôn ngữ học, như lịch sử, văn hóa, kinh tế, như
Charles Brucker đã nhìn nhận : “Cần phải lưu ý đến tầm quan trọng của những mối quan
hệ văn hóa-xã hội của lịch sử từ ngữ ; chúng cấu thành một khía cạnh cơ bản trong việc
nghiên cứu từ nguyên học; và lịch sử từ ngữ không thể tách rời khỏi lịch sử văn hóa và
văn minh” (1988 : 39).
Việc xác định nguồn gốc của một từ trong vốn từ vựng tiếng Việt đã khó, thế mà việc xác
định năm tháng xuất hiện của một từ lại càng khó khăn gấp bội, do việc những văn bản
viết được lưu giữ đến ngày nay còn quá ít, và nhất là tiếng Việt đã thay đổi rất nhiều khi
chuyển việc sử dụng chữ viêt từ chữ Hán và chữ Nôm sang chữ quốc ngữ làm phương
tiện lưu giữ lời nói trên giấy. Chính vì thế mà ta thấy trong số những tự điển từ nguyên
hoặc những từ điển có chú thích từ nguyên hiện có trên thị trường, không có tác giả nào
cung cấp cho người đọc thông tin về thời gian xuất hiện của các mục từ (Nguyễn Lân,
1998) . Vì vậy, có lẽ ngay từ bây giờ, các nhà làm từ điển nên chú ý đến yếu tố thời gian
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2005:3 176-182
Trường Đại học Cần Thơ
178
xuất hiện, nhất là đối với những từ mới, để cho thế hệ mai sau còn có thể tìm thấy những
cứ liệu đáng tin cậy do người cùng thời ghi nhận.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |