Tinh hoa và SỰ phát triển của ĐẠo phật buddhism- its Essence and Development



tải về 1.45 Mb.
trang30/38
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.45 Mb.
#37968
1   ...   26   27   28   29   30   31   32   33   ...   38

NHỮNG MỤC TIÊU CỦA TÍN ĐỒ


Vậy những tín đồ mong đợi gì ở chư Phật và chư Bồ Tát ? Trong Phật giáo Tin tưởng những đấng cứu thế có bốn nhiệm vụ chính: 

1. Chư vị khuyến hạnh những tín đồ, giúp họ xa lìa tham, sân, si, bảo vệ họ chống lại những ma quỉ và người có thể quấy nhiễu những sự tụ tập tâm linh. 

2. Ngoài ra, chư vị ban cho những lợi lộc vật chất.  Chư Phật là chư Bồ Tát vì lòng từ bi vô lượng, dĩ nhiên, và một cách nào đó, chắc chắn sẽ quan tâm đến những lời cầu xin của tín đồ mình, bảo vệ số phận trần gian của họ, ngăn ngừa những tai ương.  Quan Thế Âm chẳng hạn, bảo vệ những thương xa khỏi trộm cướp, thủy thủ khỏi đám thuyền, những kẻ tội phạm khỏi bị hành hình.  Nhờ ngài những thiếu phụ có những đứa con họ mong ước.  Người ta chỉ cần nghĩ tới ngài Quan Thế Âm, lửa sẽ tắt, gươm giáo sẽ gẫy vụn, quân thù sẽ trở nên nhân ái, xiềng xích sẽ tan biến, những lời nguyền rủa sẽ trở về nơi phát xuất, ác thú tìm đường trốn tránh, rắn rết mất nọc độc.  Khía cạnh này của đạo Phật Giáo Tín Tưởng mâu thuẫn luận lý với chủ trương đề cao nhu cầu xuất thế tràn ngập trong giáo lý pháp thuật, Phật giáo hứa hẹn xua đuổi những đau đớn thể chất, như một giáo lý tâm linh, nó nhắm tẩy  trừ khỏi tâm tư thái độ sai lầm đối với những đau đớn này.  Như chúng ta đã nói trước đây rằng cái gì mâu thuẫn trong tư tưởng rất có thể cộng-hữu trong cuộc đời.

 3. Chư Phật và chư Bồ Tát trở thành một đối tượng của ước vọng yêu thương.  Ngày nay danh từ yêu rất đỗi hàm hồ, và đựng vô vàn ý nghĩa sai khác.  Trong khung giáo lý này, yêu, theo nghĩa Bhakti, chỉ một liên hệ cá nhân với một người mà không những người ta quí mến hay tôn sùng, nhưng người ta còn muốn nhìn ngắm người mà người ta muốn gần bên, người ta không để rời xa, người mà người ta muốn tồn tại.  Quan điểm chính thống mà những “Hiền nhân” đã tạo ra về Đức Phật khiến cho ngài hoàn toàn không thể thích hợp như một đối tượng của thứ tình yêu như thế này.  Người ta nói rằng ngài đã nhập diệt, và sau Niết Bàn, ngài không còn đi đâu nữa.  Ngài thực sự đã mất đối với thế giới, hoàn toàn cô lập với nó.  Chỉ có Chính Pháp của ngài, một thực thể vô ngã, còn tồn tại.  Ngay từ khởi đầu, lý thuyết này đã chứng tỏ hoàn toàn không thỏa mãn về phương diện cảm tính với những người mà tôn giáo có nghĩa là tình yêu.  Ànanda, trong số những môn đệ đầu tiên của Đức Phật, đại biểu chính của tinh thần Bhakti, một người yêu kính Đức Phật như là một người không thể chịu mất ngài.  Ànanda tạo ra một tà thuyết cho rằng, sau khi  nhập Niết Bàn, Đức Phật lên thẳng Thiên giới của Phạm Thiên (Brahma), giống hệt như khi ra đời ngài giáng sinh từ Cung Trời Đâu Suất (Tushita). 

Với thời gian, khuynh hướng Bhakti bành trướng ở Ấn độ.  Phật giáo không tránh khỏi điều đó.  Dần dần tín đồ ao ước“sống trước sự hiện diện của Đức Phật” hay “nhìn thấy Như Lai”.  Bất kể sự phản đối của truyền thống, họ ao ước tin rằng đức Thế Tôn không thực sự diệt độ, nhưng có mặt ở đâu đó, trong cuộc đời.  Trí tuệ và lòng sùng tín chống đối nhau công khai.  Trí tuệ chủ yếu chấm dứt mọi hỗ trợ.  Lòng sùng tín sẽ khốn khổ nếu không có một nhân vật thường trực để nâng đỡ.  Đại chúng bộ đến cứu nguy những nhu cầu sùng tín của cư sĩ bằng cách tán trợ lòng tin tưởng rằng Đức Phật, như một siêu thế nhân (xem ch. V) không hoàn toàn mất đi, nhưng tồn tại sau Niết Bàn trong một vài hình thức khác.  Đại Thừa phát triển rộng rãi ý tưởng này, và chất đầy vũ trụ cho đến tận những giới hạn cùng cực của không gian bằng chư Phật và chư Bồ-tát, sinh động và do đó người ta có thể kính yêu và quí trọng. 

4. Cuối cùng, Chư Phật và chư Bồ-tát cung cấp những điều kiện thuận lợi để đạt giác ngộ trong một kiếp sau.  Về phương diện này, Đại Thừa chỉ tiếp tục con đường của những bậc tiền bối.  Đa số tín đồ rõ ràng không mong đợi đạt được mục đích tối thượng Niết-Bàn ngay trong cuộc sống hiện tiền.  Ngược lại, họ chỉ có thể hy vọng đạt tới một bình diện của vũ trụ đễ đạt giác ngộ viên mãn hơn trong thế giới loài người.  Tái sinh vào cõi thiên đối với họ là một phần thưởng trực tiếp của một cuộc sống thánh thiện, và của sự qui y Tam Bảo.  Ở đó, giữa chư Thiên, người đức hạnh có thể “cuối cùng tịch diệt” (parinibhayati),“không trở lại thế gian này”.  Tất cả những điều Đại thừa làm là thay thế thiên giới của những thần linh Ấn-độ giáo cổ điển bằng thiên giới của chư Phật và chư Bồ-tát, và tăng những cơ hội giúp người căn cơ trung đẳng bằng cách tạo ra nhiều thiên giới mà hắn có thể tái sinh vào.  Ngay trong lòng Tiểu Thừa, cõi cực Lạc của Di Lặc càng ngày càng trở nên Đại chúng hóa như một nơi của sự tái sinh tương lai, Di Lặc, Phật vị lai, hiện tại ngự trì và thuyết pháp tại Cung Trời Đâu Suất, nơi cư ngụ Tự Tại Thiên,là nơi thường trú của Phật vị lai trong thế gian này trong kiếp áp chót của ngài.  Những kẻ sùng tín khao khát sau khi chết được lên cõi cực lạc của Di Lặc và ở đó với ngài cho đến cuộc sống cuối cùng của ngài trên thế gian. 

Khi ngắm nhìn bầu trời sao sáng mênh mang, Đại Thừa nhận thấy những cõi cực lạc này ở khắp nơi.  Cũng như đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã xuất hiện trong thế giới hệ của chúng ta, cũng vậy thập phương thế giới khác cũng có những Đức Phật của thế giới đó.  Đại Thừa không phải là tông phái độc nhất chủ trương chư Phật có trong thập phương thế giới: Đại chúng bộ và Kinh Lượng bộ trước đó đã chủ trương như vậy.  Tính cách độc đáo của Đại Thừa là đã phát triển ý niệm về Phật Độ (budha-kshetra) hay Phật-Quốc, và phân biệt giữa uế độ và thanh tịnh độ. 

Mỗi một Đức Phật có một Phật Độ ảnh hưởng giới hạn trong đó, “bằng một giọng sâu thẳm, hùng tráng, tuyệt vời”,ngài thuyết pháp cho chúng sinh và độ họ đạt Giác Ngộ.  Một Phật Độ là một thứ nước Chúa, một vũ trụ huyền bí, trong đó có Đức Phật và chúng sinh mà ngài cai quản và hóa độ.  Theo Buddhaghosa, Đức Phật có một liên lạc song trùng với vũ trụ: 1. bằng chính biến tri ngài biết toàn thể vũ trụ là một tri thức trường của ngài; 2. bằng oai nghi ngài gieo rắc quyền năng và ảnh hưởng trong thập phương thế giới.  Mối liên lạc thứ nhất được khai triển trong cựu điển Tiểu Thừa.  Ý niệm thứ hai – ý niệm về một ảnh hưởng pháp thuật, giới hạn trong không gian của Đức Phật, về oai nghi của ngài đối với một cõi đặc biệt (khác biệt với sự siêu việt tối thượng của ngài) - gần như hoàn toàn không có trong cựu điển Tiểu Thừa, và được Buddhaghosa vay mượn của Đại Thừa. 

Nhưng chưa hết.  Nhiều Phật Độ tương tự với thập phương thế giới tự nhiên và uế trược của chúng sinh thuộc lục thú (xem ch.I, phần 6).  Đối lại với những Phật Độ khác, những Phật Độ Vô Lượng Quang Phật chẳng hạn, là cõi “Tịnh Độ”.  Một vài vị Phật tạo ra những cảnh giới khhông tự nhiên, nhưng lý tưởng hoặc siêu việt, theo nghĩa này chúng ở ngoài “tam giới” của lục giới, sắc giới và vô sắc giới; không có nữ giới địa ngục ngã quỉ và súc sinh; chỉ có chư Bồ Tát trí tuệ viên mãn là thiên hay nhân,“thân, khẩu, ý thanh tịnh”, đến được bằng một cuộc hóa thân.  Ở đây người ta thấy Phật thân chói lòa, người ta được nghe ngài thuyết pháp, trải qua những cuộc thanh lọc càng ngày càng cao cho đến khi tất cả đều đạt tới Phật tính.  Cõi “Cực lạc” này thường được mô tả với nhiều hình ảnh cảm giác.  Cảnh giới sáng lạn, làm bằng ngọc bích, không có lẫn sỏi đá, không có lỗ thủng và vực sâu, rãnh và cống nước.  Cảnh giới đó bình đẳng, đáng yêu, trầm lặng, đẹp mắt, có những cây châu báu nối kết với một bàn cờ kẻ bằng chỉ vàng, trên phù hoa, v.v… “Chúng sinh sinh ra trong cõi này sẽ không thọ mạng yểu tử, sẽ giầu có phong phú, sẽ tinh tấn làm thiện pháp, tin tưởng và chân thành, ngôn ngữ hòa nhã.  Gia đình và họ hàng của họ sẽ không bị phân ly.  Họ sẽ khéo léo hòa giải nhau, luôn luôn nói hay cho người.  Họ sẽ không bao giờ tham hay sân hận, nhưng luôn luôn nghiêm trì giới luật.” 

Đó là một tôn giáo bình dân không hơn không kém.  Tuy nhiên đặc điểm của Phật giáo là hết sức cố gắng để liên hợp những khái niệm bình dân này vào trong những ý tưởng căn bản của Tân Phái Trí Tuệ.  Chắc chắn người ta sẽ đi ngược lại tinh thần của học thuyết về không tính phổ quát nếu người ta coi những cõi cực lạc này như một thứ thực tại sơ khai, hiện hữu trong không gian.  Quả thực, đó chính là những sản phẩm của tâm trí chư Bồ Tát.  Kinh Hoa Nghiêm có câu: 



Những Phật Quốc vô lượng như vi trần, do một hảo ý trong tâm Bồ Tát từ bi phóng ra; 

Vị Bồ Tát này, thực hiện công đức trong vô lượng kiếp đã dẫn dắt chúng sinh tới chân lý. 

Tất cả Phật Quốc do tâm tưởng phóng ra và có những hình sắc vô định; 

Khi thanh tịnh, khi uế trược, chúng nằm trong vòng chuyển hóa của khổ đau hay an lạc”. 

Phật quốc là kết quả của lòng từ bi của  Bồ Tát, không nhằm cô lập những kẻ tạo ác pháp, nhưng cảm hóa họ“Ratnamegha” (Bảo Vân) soi sáng cho chúng ta về phương diện này: “Nếu Bồ Tát thấy chúng sinh chấp thủ tham và sân, Bồ Tát không được nói: Hãy tránh xa những kẻ sân si này!”, và cảm thấy suy nhược vì lý do này, và bỏ rơi họ.  Bồ Tát phát nguyện tạo một cõi Tịnh độ trong đó không ai nhắc nghe nhắc đến tên những người này.  Nhưng nếu Bồ Tát không độ cho tất cả chúng sinh, cõi tịnh độ của ngài sẽ không thanh tịnh và công việc của ngài sẽ không thành tựu”. 

Ngày nay ít người trong chúng ta tin rằng người ta có thể tạo ra một thế giới chỉ vì ý muốn đơn thuần.  Khả năng sáng tạo của những hành vi đạo đức thích đáng hiển nhiên đối với Phật tử bao nhiêu lại lạ lùng đối với chúng ta bấy nhiêu.  Môi trường trong đó chúng sinh phải sống thường được chỉ định bởi nghiệp (Karma) của họ, nhất là những gì liên quan đến tính chất khổ hoặc lạc của môi trường đó.  Chẳng hạn những địa ngục khác nhau do nghiệp của những chúng sinh tái sinh vào đó tạo ra.  Nếu có những sa mạc không nước trong thế gian là bởi chúng ta thiếu công đức.  Phàm phu giới (bahajana-loka), thực ra không là gì khác hơn một thứ phản ảnh của công nghiệp con người.  Một cảnh giới chỉ tồn tại chừng nào còn có những nghiệp lực bắt họ thấy nó.  Trong tinh thần đó bây giờ ta chủ trương rằng công đức của một Bồ Tát đủ để tạo ra cõi Tịnh độ, không phải cho riêng mình ngài mà còn cho những chúng sinh khác mà ngài hồi hướng đến. 

Là một tôn giáo bình dân, Phật giáo Tính tâm dạy có vô vàn Phật độ.  Là một nhánh của Phật giáo Trí-tuệ, nó biết rằng phức tỉnh này chỉ đúng một cách tạm thời.  Cuối cùng mọi Phật độ là một Phật độ và một Phật độ là tất cả Phật độ.  Cuối cùng, Phật độ tự nhiên và lý tưởng đồng nhất và là một.  Đức Phật chính đẳng chính giác, và thế gian này cốt yếu là thế gian lý tưởng, và nếu người ta muốn nhìn nhận nó như vậy.  Duy Ma Cật (Vimalakirti) nói: “Ở đây ngay ở trong phòng này, tất cả mọi thiên cung tráng lệ và mọi Tịnh Độ của Chư Phật đều hiện lộ”.  Thế gian này của chúng ta có vẻ hoàn toàn bất tịnh, đầy rẫy đủ loại khổ đau và buồn thảm, xấu xa và đầy kinh hoàng.  Nhưng đối với những người có một đức tin vững chắc chính thế gian này sẽ hiện ra với tất cả tính chất của một cõi Tịnh Độ, “làm bằng ngọc bích, tạo thành một bình nguyên bằng phẳng tạo thành một bàn cờ tám ô, với những sợi chỉ vàng, rực rỡ với những cây châu báu”.  Lại chính Duy Ma Cật đưa ra tính cách mâu thuẫn của giáo lý này khi ngài nói: “Chúng sinh, vì tội lỗi, không thể nhìn thấy tính chất thanh tịnh của Phật Độ này của chúng ta.  Quả thực cõi Tinh Độ của chúng ta bao giờ cũng thanh tịnh.  Những bất tịnh ở trong chính tâm trí của các ông.  Này Sàriputra (Xá Lợi Phất), tôi xin nói với ông Bồ Tát, thanh tịnh trong tâm quả quyết, coi tất cả các pháp và bất toàn với trí tuệ một Đức Phật và vì thế Tịnh Độ Phật này thanh tịnh và không ô nhiễm đối với ngài.  Thế gian của chúng ta bao giờ cũng thanh tịnh như thế.  Và tuy vậy, để tế độ những chúng sinh căn cơ cùn nhụt mà thế gian này mới bị coi như xấu xa bất tịnh.” 

---o0o---


Каталог: downloads -> sach -> quoc-te
quoc-te -> LƯỢc sử thời gian (a brief History of Time) Tác Giả:-Steven Hawking
quoc-te -> ĐƯỜng mây qua xứ tuyếT
quoc-te -> Tâm Lý Và Triết Học Phật Giáo Áp Dụng Trong Đời Sống Hằng Ngày Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life"
quoc-te -> Những Chuyện Luân Hồi Hiện Đại tt. Thích Tâm Quang Dịch o0o Nguồn
quoc-te -> ÐẠi thừa và SỰ liên hệ VỚi tiểu thừa nguyên tác: Nalinaksha Dutt ht. Minh Châu Dịch, Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh 1999
quoc-te -> Chuyển sang ebook
quoc-te -> LƯỢc sử thời gian (a brief History of Time) Tác Giả:-Steven Hawking
quoc-te -> SẮc tưỚng và thật tưỚng vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo Prof. Guy Newland, Ph. D
quoc-te -> Con đƯỜng đẾn tĩnh lặng -tuệ Giác Hằng Ngày

tải về 1.45 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   26   27   28   29   30   31   32   33   ...   38




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương