63
entire trip, so we were spared the oppressive heat and arrived at the monastery
feeling fresh.
Vào khoảng ba giờ rưỡi trưa, chúng tôi đã đi đến tu viện của Đại Trưởng
Lão Webu, nằm ẩn khuất trong khu rừng Ingyinbin, ở tại thị trấn Khin U. Bầu trời
đã u ám trong suốt chuyến đi, vì vậy chúng tôi đã bị ảnh hưởng cái nóng ngột ngạt
và đã đến tại tu viện cảm giác được mát mẻ.
We immediately informed U Sumana (the Sayadaw’s nephew who was the
monk in charge of the refectory) of our arrival and the reason for our visit. He
went to report to Webu Sayadaw. Sayagyi and I were lodged in a new building
donated by the rice mill owners U Ba Tu and Daw Hymin. That evening at about
seven o’clock, the Pauk Taw Sayadaw U Sàsana ordained Sayagyi and me as
Sàmaneras (Novices), and at about eight o’clock, we went to pay respects to Webu
Sayadaw. We requested that the Sayadaw be our preceptor and that he accept us
as his disciples. The Sayadaw asked Sayagyi the day of the week he was born
(*)
and whether he remembered the name he had been given at his ordination as a
Sàmanera when he was a boy. Saygayi replied that he was born on a Monday and
that the Shway – gon – taing Sayadaw had given him the name U Kusala when he
ordained as a novice.
[
(*)
: Names are given to novices and monks depending on the day of the week the
candidate was born. Different letters of the alphabet are assigned to each day of
the week and the name given must begin with one of the letters corresponding to
the day of birth.]
Ngay lập tức chúng ta đã báo tin cho Sư Sumana (cháu trai của Đại Trưởng
Lão là một vị tu sĩ phụ trách về trai đường) về việc đến của chúng tôi và lý do cho
chuyến viếng thăm của chúng tôi. Sư đã đi trình báo đến Đại Trưởng Lão Webu.
Giáo Thọ và Tôi đã được cấp chỗ ở tạm trong một tòa nhà mới xây đã được cúng
dường bởi các chủ nhà máy xay lúa là Ông Ba Tu và Bà Hymin. Vào khoảng bảy
giờ tối ngày hôm đó, Đại Trưởng Lão Pauk Taw U Sàsana đã xuất gia cho Giáo
Thọ và Tôi như là các vị
Sa Di (những tập sự), và vào khoảng tám giờ, chúng tôi
đã đi đến bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại Trưởng Lão Webu. Chúng tôi đã thỉnh cầu
Đại Trưởng Lão làm Thầy Tế Độ cho chúng tôi và như thế Ngài chấp thuận chúng
tôi như là những môn đệ của Ngài. Đại Trưởng Lão đã vấn hỏi Giáo Thọ về ngày
nào ở trong tuần mà ông đã được sanh ra
(*)
và ông ta có còn nhớ hay không cái
tên gọi mà ông đã được trao truyền vào lễ xuất gia là một vị
Sa Di của mình khi
64
ông ta còn là một cậu bé. Giáo Thọ đã trả lời rằng ông ta đã sanh vào ngày Thứ
Hai và như thế là ngày Sư Tử, Đại Trưởng Lão đã trao cho ông ta cái tên gọi là Sư
Kusala khi ông ta đã xuất gia làm một vị tập sự.
[
(*)
: Những tên gọi được trao truyền đến các tập sự và các vị tu sĩ tùy thuộc vào
ngày ở trong tuần mà giới tử đã được sinh ra. Những mẫu tự khác biệt nhau của
bảng chữ cái đã được quy định vào mỗi ngày ở trong tuần và tên gọi phải được bắt
đầu với một trong các mẫu tự tương ứng của ngày sinh.]
“This is a name well suited to you, great lay disciple,” the Sayadaw said,
“You will take this name as a monk, also.”
As I could not remember my monk’s name from my former ordination, the
Sayadaw pondered for a while and then said, “As you were born on Saturday, I’ll
give you the name Ashin Tejinda.”
“Đây là tên gọi rất phù hợp với con, nầy đại đệ tử cư sĩ,” Đại Trưởng Lão đã
nói, “Con cũng sẽ dùng cái tên gọi nầy khi là một vị tu sĩ.”
Vì Tôi không thể nhớ đến cái tên gọi tu sĩ từ nơi lễ sự xuất gia trước đây của
tôi, Đại Trưởng Lão đã suy nghĩ một lúc và rồi đã nói, “Vì con đã sinh ra vào ngày
Thứ Bảy, Sư sẽ trao cho con tên gọi là Đại Đức Tejinda.”
On Friday, June 18, 1965, a group of lay disciples assembled in the
Dhamma Hall after nine o’clock to pay respects to the Sayadaw. After giving a
discourse, Webu Sayadaw had the ordination ceremony prepared. As on the last
occasion when I had ordained, the men from the village that offered alms to the
monastery put the future monks (yahan laung) under a palanquin and carried them
on their shoulders around the boundaries of the monastery. In the procession
behind the men came the women, carrying palm leaves and flowers. Drums and
other musical instruments were played. After this, Sayagyi had alms food offered
to over fifty monks and novices.
Vào Thứ Sáu, ngày 18 Tháng Sáu năm 1965, một nhóm những vị cư sĩ đã
tập hợp lại sau chín giờ ở trong Giảng Đường để bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại
Trưởng Lão. Sau khi đã ban bố một thời Pháp Thoại, Đại Trưởng Lão Webu đã có
lễ xuất gia được chuẩn bị sẵn. Vì đây là cơ hội cuối cùng khi Tôi đã được xuất gia,
những nam nhân từ ở thôn làng mà đã để bát cúng dường đến tu viện, đặt những vị
tu sĩ tương lai
(yahan laung) vào trong một cái kiệu và đã khiêng họ ở trên những
đôi vai của mình vòng quanh những ranh giới của tu viện. Trong đoàn diễu hành,
65
đàng sau những người nam là đến các người nữ, đang cầm lấy những lá cây cọ và
những bông hoa. Những cái trống và các nhạc cụ khác đã được tấu hợp. Sau sự
việc nầy, Giáo Thọ đã để bát cúng dường vật thực đến hơn năm mươi vị tu sĩ và
các tập sự.
At about one o’clock, Sayagyi and I (both still sàmaneras) had to go to the
Chia sẻ với bạn bè của bạn: