SÁch giáo lý CỦa giáo hội công giáo sách giáo lý CỦa giáo hộI



tải về 4.7 Mb.
trang45/68
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.7 Mb.
#11671
1   ...   41   42   43   44   45   46   47   48   ...   68

2034.

"Đức Giáo Hoàng và các giám mục là những thầy dạy đích thực, nghĩa là có uy quyền của Đức Ki-tô, rao giảng cho dân được trao phó cho các ngài, những điều phải tin và phải áp dụng vào đời sống" ( x. LG 25 ). Huấn Quyền thông thường của Đức Giáo Hoàng và các giám mục cùng hiệp thông với người, dạy dỗ cho các tín hữu chân lý phải tin, đức mến phải thực hành, chân phúc phải hy vọng.


2035

Đặc sủng bất khả ngộ bảo đảm mức độ tham dự cao nhất vào quyền bính của Đức Ki-tô. Ơn "bất khả ngộ" có phạm vi rộng lớn như kho tàng mặc khải của Thiên Chúa ( x. LG 25 ); liên hệ tới mọi yếu tố của giáo lý, gồm cả luân lý, vì thiếu những yếu tố này, các chân lý cứu độ của đức tin sẽ không được bảo toàn, trình bày hay tuân giữ ( x. CDF, décl. "Mysterium Ecclesiae" 3 ).


2036 1960

Huấn Quyền còn liên hệ đến các giới luật đặc biệt của luật tự nhiên, vì tuân giữ các giới luật ấy, theo Đấng Sáng Tạo đòi hỏi, là điều cần thiết để được cứu rỗi. Khi nhắc lại các quy định của luật tự nhiên, huấn quyền thực thi một phần chính yếu của chức năng ngôn sứ là loan báo cho mọi người chân lý về con người và nhắc nhở họ phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa (x. DH 14) .



2037 2041.

Được Thiên Chúa ủy thác, Hội Thánh dạy cho các tín hữu Luật Thiên Chúa như con đường sự sống và chân lý. Do đó, các tín hữu có )quyền ( x. CIC can, 213 ) được giáo huấn về các giới luật cứu độ của Thiên Chúa; những giới luật này có sức thanh luyện óc phán đoán và cùng với ân sủng, chữa lành lý trí bị tổn thương của con người. Họ có nghĩa vụ tuân giữ các hiến chế và sắc lệnh do quyền bính hợp pháp của Hội Thánh ban bố. Cả khi những điều này mang tính cách kỷ luật, các tín hữu vẫn phải vâng phục với tình yêu.



2038 2442.

Khi giảng dạy và áp dụng luân lý Ki-tô giáo, Hội Thánh cần đến sự tận tâm của các mục tử, kiến thức của các nhà thần học và đóng góp của mọi Ki-tô hữu và mọi người thiện chí. Đức tin và việc thực hành Tin Mừng đem lại cho mỗi người kinh nghiệm sống "trong Đức Ki-tô"; kinh nghiệm này soi sáng và giúp họ đánh giá những thực tại thần linh và nhân loại theo Thánh Thần Thiên Chúa ( x.1Cr 2,10-15 ). Như vậy, Chúa Thánh Thần có thể dùng những kẻ thấp hèn nhất, để soi sáng các người thông thái và những người giữ chức vị cao trọng nhất.


2039 1783.

Các thừa tác vụ phải được thi hành với tinh thần phục vụ huynh đệ và tận tụy đối với Hội Thánh nhân danh Chúa ( x.Rm 12,8.11 ). Đồng thời khi đưa ra phán đoán luân lý về các hành vi riêng của mình, thừa tác viên phải tránh việc khép kín trong nhãn giới cá nhân. Họ cần hết sức lưu ý đến lợ)i ích của mọi người, như được trình bày trong luật luân lý, tự nhiên và mặc khải và dĩ nhiên, trong luật Giáo Hội và giáo huấn có thẩm quyền của huấn quyền về các vấn đề luân lý. Không nên đối nghịch lương tâm cá nhân và lý trí với luật luân lý hay với Huấn Quyền.


2040 167.

Như thế, một tinh thần hiếu thảo đích thực đối với Hội Thánh sẽ được triển nở trong các Ki-tô hữu. Đây là sự triển nở bình thường của ân sủng bí tích Thánh Tẩy đã tái sinh chúng ta trong lòng Hội Thánh và làm cho chúng ta trở nên chi thể của Thân Thể Đức Ki-tô. Như người mẹ hiền từ, Hội Thánh thông truyền cho chúng ta lòng thương xót của Thiên Chúa; lòng thương xót này chiến thắng mọi tội lỗi chúng ta, và tác động đặc biệt trong bí tích Hòa Giải. Hằng ngày qua phụng vụ, như người mẹ ân cần, Hội Thánh đem đến cho chúng ta lương thực là Lời Chúa và Thánh Thể.


II. CÁC ĐIỀU RĂN HỘI THÁNH
2041.

Các điều răn Hội Thánh nhằm nâng đỡ một đời sống luân lý gắn liền với đời sống phụng vụ và được đời sống này nuôi dưỡng. Tính cách bó buộc của các luật thiết định do các mục tử ban hành này có mục đích bảo đảm cho các tín hữu mức cần thiết phải có trong tinh thần cầu nguyện, trong cố gắng sống hợp với luân lý, trong sự gia tăng lòng mến Chúa yêu người.


2042 1389 2180.

Điều răn thứ nhất: “Xem lễ ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc”, các tin hữu buộc phải tham dự thánh lễ và không làm những công việc nô dịch đòi các tín hữu thánh hóa ngày mừng Chúa Phục Sinh, cũng như những lễ phụng vụ chính để tôn kính các mầu nhiệm của Chúa, của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Diễm Phúc, của các thánh, trước hết bằng việc tham dự cử hành Bí Tích Thánh Thể, là bí tích qui tụ cộng đoàn, và tránh tất cả những công việc tự bản chất ngăn trở việc thánh hóa những ngày ấy ( x. CIC, 1246-1248; CCEO 880, 3; 881 ).


1457

Điều răn thứ hai : “Mọi tín hữu buộc phải xưng tội trong một năm ít là một lần” bảo đảm việc chuẩn bị rước Thánh Thể bằng việc chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa Giải, nối tiếp công việc hoán cải và tha thứ của bí tích Thánh Tẩy ( x. CIC, 989, CCEO, 719 )


1389

Điều răn thứ ba : “Mọi tín hữu buộc phải rước Mình Thánh Chúa ít là một lần trong mùa Phục Sinh” bảo đảm mức tối thiểu trong việc rước Mình Máu Chúa Giê-su. Điều răn này phải được chu toàn vào mùa Phục Sinh, vì lễ Phục Sinh là nguồn gốc và là trung tâm của phụng vụ Ki-tô giáo ( x. CIC, 920, CCEO, 708-881 ).


2043 2177.

Điều răn thứ tư : “Vào những ngày sám hối do Hội Thánh ấn định, các tín hữu buộc phải kiêng thịt và giữ chay” bảo đảm thời gian tu luyện và sám hối để chuẩn bị tâm hồn mừng các ngày lễ phụng vụ. Chay tịnh và hãm mình góp phần giúp chúng ta làm chủ được các bản năng và đạt tới tự do nội tâm ( x. CIC, 1246, CCEO, 881,1,4; 880,3 ) ).


1387 1438.

Điều răn thứ năm: “Các tín hữu buộc phải đóng góp cho các nhu cầu của Hội Thánh” dạy các tín hữu có bổn phận chu cấp cho những nhu cầu vật chất của Hội Thánh, tùy theo khả năng mỗi người ( x. CIC, 222; CCEO 25 ). Trong cước chú, các Hội Đồng Giám Mục có thể ấn định những điều luật khác nữa của Hội Thánh cho phần lãnh thổ của mình ( x. CIC, 455 ).


III. ĐỜI SỐNG LUÂN LÝ VÀ BẰNG CHỨNG TRUYỀN GIÁO
2044 852, 905.

Các tín hữu sống trung thành với Tin Mừng là một điều kiện chính yếu để Hội Thánh loan báo Tin Mừng và thi hành sứ mạng trong thế giới. Sứ điệp cứu độ phải được chứng thực bằng đời sống các Ki-tô hữu, để có thể biểu lộ trước mặt mọi người sức mạnh của chân lý và ánh sáng. "Chứng từ của đời sống Ki-tô hữu và các việc lành được làm với tinh thần siên nhiên, có sức lôi kéo người ta đến với đức tin và với Thiên Chúa" ( x. AA. 6 ).


2045 828.

Vì là chi thể của Thân Thể mà Đức Ki-tô là Đầu ( x. Eph 1,22 ), các Ki-tô hữu góp phần vào việc xây dựng Hội Thánh nhờ kiên định trong xác tín của mình và trong đời sống luân lý. Hội Thánh lớn lên, kiên vững và phát triển nhờ sự thánh thiện của các tín hữu ( x. LG 39 ), "cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô" (Eph 4,13).


2046 671, 2819.

Nhờ sống theo Đức Ki-tô, các Ki-tô hữu góp phần làm cho Nước Chúa mau đến, "Vương quốc đầy tràn sự thật, công lý và bình an mau đến" ( x. MR. ). Dù vậy, họ không xao lãng các trách vụ trần thế, nhưng trung thành với Thầy mình, họ chu toàn các nghĩa vụ đó cách ngay thẳng, nhẫn nại và yêu thương.



TÓM LƯỢC
2047.

Đời sống luân lý là một việc thờ phượng thiêng liêng. Đời sống Ki-tô hữu được nuôi dưỡng nhờ phụng vụ và các bí tích.
2048.

Các điều răn Hội Thánh nhằm vào đời sống Ki-tô giáo và luân lý; đời sống này gắn liền với phụng vụ và được phụng vụ nuôi dưỡng.
2049.

Huấn Quyền của các mục tử Hội Thánh về vấn đề luân lý thường được thực thi trong huấn giáo và thuyết giảng, dựa trên Thập Giới, vì Thập Giới trình bày những nguyên tắc của đời sống luân lý có giá trị cho tất cả mọi người.
2050.

Đức Giáo Hoàng và các giám mục là những thầy dạy đích thực rao giảng cho dân Chúa những điều phải tin và phải áp dụng vào đời sống. Các ngài cũng có bổn phận lên tiếng về các vấn đề luân lý trong lãnh vực của luật tự nhiên và của lý trí.
2051.

Ơn bất khả ngộ của Huấn Quyền liên hệ tới mọi yếu tố của giáo lý, gồm cả luân lý, vì thiếu những yếu tố này, các chân lý cứu độ của đức tin sẽ không được bảo toàn, trình bày hay tuân giữ.

MƯỜI ĐIỀU RĂN

Xh 20,2-17
2. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập, khỏi cảnh nô lệ.

3. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.

4. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất, hoặc ở trong nước, để mà thờ.

5. Ngươi không đuợc phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ : vì Ta, Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tuông. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông.


6. Còn đối với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.
7. Ngươi không được kêu tên Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi mà làm điều bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ kêu tên Người mà làm điều bất xứng.
8. Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh.
9. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi.
10. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó ngươi không được làm công việcnào,cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia xúc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi.
11. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghĩ ngày thứ bảy. Bởi vậyĐức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh.
12. Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.

13. Ngươi không được giết người.

14. Ngươi không được ngoại tình.

15. Ngươi không được trộm cắp.

16. Ngươi không được làm chứng gian hại người
17. Ngươi không được ham muốn nhà người ta.

- Ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa hay bất cứ vật gì của người ta


Đệ nhị luật 5, 6-21
6. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập, khỏi cảnh nô lệ.
7. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
11. Ngươi không được dùng tên Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi mà làm điều bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng tên Người mà làm điều bất xứng.
12. Ngươi hãy giữù ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi
16. Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi, để được sống lâu và để được hạnh phúc trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi
17. Ngươi không được giết người 18. Ngươi không được ngoại tình. 19. Ngươi không được trộm cắp
20. Ngươi không được làm chứng dối hại người
21. Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được ước ao nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa hay bất cứ vật gì của người ta
MƯỜI ĐIỀU RĂN
Thứ nhất : Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
Thứ hai : Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ.
Thứ ba : Giữ ngày Chúa nhật

Thứ bốn : Thảo kính cha mẹ


Thứ năm : Chớ giết người
Thứ sáu : Chớ làm sự dâm dục
Thứ bảy : Chớ lấy của người
Thứ tám : Chớ làm chứng dối
Thứ chín : Chớ muốn vợ chồng người
Thứ mười : Chớ tham của người


ĐOẠN THỨ HAI
MƯỜI ĐIỀU RĂN
"Thưa Thầy, tôi phải làm gì...?"
2052 1858.

"Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời ?" Để trả lời cho người thanh niên, Đức Giê-su nêu lên sự cần thiết phải nhận biết Thiên Chúa như "Đấng tốt lành duy nhất", như sự thiện tuyệt hảo và như nguồn mạch của mọi điều thiện. Đoạn Đức Giê-su tuyên bố : "Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn". Rồi Người liệt kê các điều răn về yêu người : "Ngươi không được giết người, ngươi không được ngoại tình, ngươi không được trộm cắp, ngươi không được làm chứng gian, ngươi phải thảo kính cha mẹ". Sau hết, Đức Giê-su tóm tắt các điều răn kể trên cách tích cực rằng : "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình" ( Mt 19,16-19).


2053 1968 1973.

Đức Giê-su còn thêm : "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy về bán tài sản của anh mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi" (Mt 19,21). Câu trả lời này không hủy bỏ câu trả lời trước. Muốn đi theo Đức Giê-su, phải tuân giữ các điều răn. Luật cũ không bị bãi bỏ ( x. Mt 5,17 ), nhưng chúng ta được mời gọi tìm thấy sự viên mãn của lề luật nơi con người của Thầy mình, Đấng chu toàn tuyệt hảo lề luật. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, lời Đức Giê-su mời gọi anh thanh niên giàu có đi theo Người với lòng vâng phục của người môn đệ và tuân giữ các điều răn, còn được kết hợp với lời mời sống nghèo khó và khiết tịnh ( x. Mt 19,6-12; 21.23-29 ). Các lời khuyên Phúc Âm không thể tách khỏi các điều răn.


2054 581.

Đức Giê-su vẫn tôn trọng mười điều răn, nhưng cho thấy sức mạnh của Thánh Thần đang tác động nơi các điều răn ấy. Người đã rao giảng sự "công chính vượt trên sự công chính của các kinh sư và Pha- ri-sêu" (Mt 5,20), cũng như của dân ngoại ( x.Mt 5,46-47 ). Người cho thấy tất cả những đòi hỏi của các điều răn. "Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng : Chớ giết người... còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : Ai giận anh em mình thì cũng đáng bị đưa ra tòa rồi" ( Mt 5,21-22).


2055 129.

Khi được hỏi : "Điều răn nào là điều răn trọng nhất ?" ( Mt 22,36), Đức Giê-su đáp : "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi; đó là điều răn trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy"( Mt 22, 37-40) ( x.Đnl 6,5; Lv 19,18 ). Thập Giới phải được giải thích dưới ánh sáng của điều răn mến Chúa-yêu người, vì yêu thương là chu toàn lề luật:


"Các điều răn như : "Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn...", cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn lề luật vậy" (Rm 13, 9-10).
Thập Giới trong Thánh Kinh.
2056 700 62.

Từ Hi lạp "Dekalogos" trong Thánh Kinh có nghĩa là "Mười Lời", chúng ta quen gọi là Thập Giới (x.Xh 34,28; Đnl 4,13; 10,4). Thập Giới được Thiên Chúa mặc khải cho dân Người trên núi thánh. Mười lời này "tự ngón tay Người" đã viết (Xh 31,18; Đnl 5,22), khác với các điều luật khác do Mô-sê viết ( x. Đnl 31,9-24 ). Thập Giới là Lời Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt và được lưu truyền đến chúng ta trong sách Xuất Hành ( x. Xh 20,1-17 ) và sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5,6-22). Từ thời Cựu Ước, các Sách Thánh luôn quy chiếu về "Thập Giới" ( x. ví dụ Hs 4,2; Cn 7,9; Ed 18,5-9 ), nhưng ý nghĩa của chúng chỉ được mặc khải trọn vẹn trong thời Tân Ước, nơi Đức Giê-su.


2057 2084 2170.

Trước hết, Thập Giới phải được hiểu trong bối cảnh của cuộc Xuất Hành, biến cố giải phóng vĩ đại của Thiên Chúa ở trung tâm của giao ước cũ. Dù được viết dưới hình thức tiêu cực, cấm đoán hay dưới hình thức tích cực (như "hãy tôn kính cha mẹ"), "Thập Giới" đưa ra những điều kiện của một đời sống được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thập Giới là một con đường sống :


"Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống, được thêm đông đúc" ( Đnl 30,16).
Chúng ta thấy rõ sức mạnh giải thoát của Thập Giới, thí dụ điều răn nghỉ ngày hưu lễ, áp dụng cho cả người ngoại kiều và nô lệ :
"Ngươi hãy nhớ, ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai Cập và Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó"( Đnl 5,15).
2058 1962.

"Thập Giới" tóm tắt và công bố Luật của Thiên Chúa: "Những lời ấy Đức Chúa đã lớn tiếng phán với toàn thể đại hội anh em, trên núi từ trong đám lửa, giữa mây đen mù mịt. Người không thêm gì cả và viết những lời ấy trên hai bia đá rồi ban cho tôi" ( x. Đnl 5,22 ). Vì thế, hai bia đá này được gọi là "Bia Chứng Ước" (Xh 25,16), vì ghi khắc các điều khoản của giao ước đã ký kết giữa Thiên Chúa và dân Người. Các "Bia Chứng Ước" ( x. Xh 31,18; 32,15; 34,29 )phải được đặt vào "Hòm Bia Chứng Ước" (Xh 25,16; 40,1-2).


2059 707 2823.

"Thập Giới" được Thiên Chúa công bố trong một cuộc thần hiện ("Đức Chúa đã phán với anh em, mặt đối mặt, trên núi, từ trong đám lửa": Đnl 5,4). Qua Thập Giới, Thiên Chúa mặc khải về chính bản thân Người và về vinh quang của Người. Khi ban các điều răn, Thiên Chúa ban tặng chính mình và bày tỏ thánh ý Người. Khi cho con người biết thánh ý, Thiên Chúa mặc khải chính mình cho Dân Thánh.


2060 62.

Việc ban tặng các điều răn và lề luật là thành phần của giao ước do Thiên Chúa ký kết với những kẻ thuộc về Người. Theo sách Xuất Hành, "Thập Giới" được mặc khải giữa lúc đề nghị ( x. Xh 19 ) lập giao ước và lúc ký kết giao ước ( x. Xh 24 ), sau khi dân chúng đã cam kết "thi hành và tuân theo tất cả những gì Đức Chúa đã phán"(Xh 24,7). Thập Giới được truyền đạt trong tương quan với Giao Ước. ("Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã thiết lập một giao ước với chúng ta tại núi Kho-rép": Đnl 5,2).


2061.

Các điều răn chỉ có ý nghĩa trọn vẹn trong Giao Ước. Theo Sách Thánh, đời sống luân lý của con người chỉ đầy đủ ý nghĩa trong và nhờ giao ước. Điều thứ nhất của "Thập Giới" nhắc lại sáng kiến tình yêu Thiên Chúa dành cho dân Người :


2086.

"Khi phạm tội, con người bị đuổi khỏi địa đàng tự do và sa vào kiếp nô lệ trần thế. Vì thế, câu đầu tiên của Thập Giới, lời nói đầu tiên của các điều răn đã là nói về sự tự do: “Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ”(Xh 20,2; Đnl 5,6) (Origênê, Hom, in Ex 8,1).


2062 142 2002.

Như thế, các điều răn chỉ giữ vai trò thứ yếu, vì là những hệ luận của việc con người thuộc về Thiên Chúa như giao ước qui định. Đời sống luân lý là sự đáp trả sáng kiến yêu thương của Thiên Chúa, là sự nhận biết, tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Như thế, chúng ta cộng tác vào kế hoạch của Thiên Chúa đang thực hiện trong lịch sử.


2063 878.

Giao Ước và cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người còn được xác nhận qua sự kiện : trong các điều răn, Thiên Chúa luôn nói ở ngôi thứ nhất ("Ta là Đức Chúa") và nói với con người ở ngôi thứ hai ("ngươi"). Tất cả các điều răn đều dùng đại từ nhân xưng ở )số ít để chỉ định người nghe. Khi bày tỏ thánh ý cho toàn dân, Thiên Chúa cũng bày tỏ thánh ý cho riêng từng người :


“Chúa ra lệnh phải yêu mến Thiên Chúa và dạy giữ công bình đối với người thân cận, để con người khỏi bất chính và bất xứng trước mặt Thiên Chúa. Cho nên, nhờ Thập Giới, Thiên Chúa chuẩn bị con người trở thành bạn hữu của Người và một lòng một dạ với tha nhân...Thập Giới vẫn giữ nguyên giá trị đối với chúng ta (những ki-tô hữu), vì khi Chúa đến, Thập Giới chẳng những không bị hủy bỏ, mà còn được trọn nghĩa và triển nở” ( T. I-rê-nê, chống lạc giáo 4,16, 3-4).
Thập Giới trong Truyền Thống Hội Thánh
2064.

Trung thành với Thánh Kinh và theo gương Đức Giê-su, truyền thống của Hội Thánh nhìn nhận Mười Điều Răn có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu.




2065.

Từ thời thánh Âu-tinh, Mười Điều Răn đã có một vị trí quan trọng trong huấn giáo cho dự tòng và tín hữu. Vào thế kỷ XV, Mười Điều Răn thường được diễn tả bằng những công thức theo văn vần, dễ nhớ và tích cực, vẫn còn thông dụng ở nhiều nơi tới ngày nay. Các sách giáo lý của Hội Thánh thường trình bày luân lý Ki-tô giáo theo thứ tự của "Mười điều Răn".


2066.

Việc phân chia và đánh số các điều răn có thay đổi theo dòng lịch sử. Quyển Giáo Lý này theo cách phân chia của thánh Âu-tinh đã trở thành truyền thống trong Hội Thánh Công Giáo. Các giáo phái Lu-ther cũng theo cách phân chia này. Các giáo phụ Hi- lạp phân chia hơi khác; cách chia này còn gặp thấy trong Giáo Hội Chính thống và các cộng đoàn Cải Cách.


2067 1853.

Mười Điều Răn nêu ra các đòi hỏi của tình mến Chúa yêu người. Ba điều răn đầu đề cập đến tình yêu đối với Thiên Chúa, và bảy điều sau, đến tình yêu đối với tha nhân.


"Như Chúa đã đúc kết tất cả lề luật và các tiên tri vào trong hai giới răn yêu mến...; Mười Điều Răn cũng được chia thành hai bảng. Ba điều khắc trên một bảng, và bảy điều trên bảng kia" ( T.Âu-tinh bài giảng 33,2,3 ).
2068 1993 888.

Công Đồng Tren-tô dạy rằng : các Ki-tô hữu buộc phải giữ Mười Điều Răn, và người đã được công chính hóa cũng có bổn phận phải tuân giữ các điều răn ấy ( x. DS 1569-1570 ). Công Đồng Va-ti-can II cũng khẳng định : "Các giám mục vì là người kế nhiệm các tông đồ, nhận từ nơi Chúa...sứ mạng dạy dỗ muôn dân và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo, để mọi người được rỗi nhờ lãnh nhận đức tin, phép rửa và việc chu toàn các điều răn" ( x. LG 24 ).


Tính thống nhất của Thập Giới
2069 2534.

Thập Giới hợp thành một thể thống nhất. Mỗi "lời" (điều răn) qui chiếu về từng lời và tất cả các lời khác, các lời tương thuộc lẫn nhau. Hai Bảng Luật soi sáng cho nhau, hợp thành một khối thuần nhất. Vi phạm một điều răn là phạm tới tất cả các điều răn khác ( x. Gcb 2,10-11 ). Không thể tôn trọng người khác mà không chúc tụng Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo họ. Không thể tôn thờ Thiên Chúa mà không yêu thương tất cả mọi người là thụ tạo của Thiên Chúa. Mười điều răn thống nhất đời sống đối thần với đời sống xã hội của con người.


Thập Giới và luật tự nhiên
2070 1955.

Thập Giới là một phần mặc khải của Thiên Chúa; đồng thời dạy chúng ta biết nhân tính đích thực của con người. Thập Giới làm sáng tỏ những bổn phận thiết yếu; do đó gián tiếp cho thấy những quyền cơ bản gắn liền với bản tính của nhân vị. Mười Điều Răn là một cách trình bày "luật tự nhiên" đặc sắc.


"Từ nguyên thủy, Thiên Chúa đã ghi sâu trong lòng con người các giới luật tự nhiên. Sau đó người chỉ cần nhắc lại các điều luật ấy cho họ. Đó chính là Thập Giới (T. I-rê-nê chống lạc giáo 4,15,1).
2071 1960.

Thập Giới là mặc khải của Thiên Chúa, dù với lý trí con người có thể tự biết được nhưng để hiểu biết đầy đủ và chắc chắn về các đòi hỏi của luật tự nhiên, loài người tội lỗi cần đến mặc khải nầy :


Trong tình trạng tội lỗi, ánh sáng lý trí bị lu mờ và ý chí bị sai lệch, con người cần đến một trình bày đầy đủ về các điều răn của Thập Giới.

1777.

Chúng ta biết được các điều răn nhờ mặc khải được rao giảng trong Hội Thánh và nhờ tiếng nói của lương tâm.

Mọi người phải tuân giữ Thập Giới
2072 1858 1958.

Thập Giới nêu lên những bổn phận cơ bản của con người đối với Thiên Chúa và với tha nhân, nên tự bản chất là những nghĩa vụ quan trọng. Thập Giới bất biến và có giá trị cho mọi thời và mọi nơi. Không ai có thể chuẩn miễn Mười Điều Răn được Thiên Chúa ghi khắc trong tâm khảm con người.


2073.

Trách nhiệm tuân giữ Mười Điều Răn còn buộc ta giữ những nghĩa vụ theo chất thể tự nó là nhẹ. Chẳng hạn điều răn thứ năm ngăn cấm nhục mạ kẻ khác bằng lời nói; điều này có thể trở thành một tội nặng tùy hoàn cảnh và ý định của người nói.


"Không có Thầy, anh em không làm gì được"
2074 2732 521.

Đức Giê-su nói : "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai luôn kết hợp với Thầy và Thầy luôn kết hợp với người ấy, người ấy sinh hoa kết quả dồi dào, vì không có Thầy, anh em không làm được gì" (Ga 15,5). Hoa quả ở đây là sự thánh thiện của một đời sống phong phú, nhờ kết hợp với Đức Ki-tô. Khi chúng ta tin vào Đức Giê-su Ki-tô, thông hiệp vào các mầu nhiệm của Người và giữ các điều răn của Người, Đấng Cứu Thế sẽ đích thân đến trong chúng ta để yêu thương Cha của Người và các anh em của Người cũng là Cha và anh em chúng ta. Nhờ Thánh Thần, chính Đức Giê-su trở thành qui luật nội tâm sống động cho mọi hoạt động của chúng ta. "Đây là điều răn của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12).


TÓM LƯỢC

tải về 4.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   41   42   43   44   45   46   47   48   ...   68




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương