Quy trình kỹ thuật canh tác cây cà phê chè



tải về 251.44 Kb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích251.44 Kb.
#35585
1   2

(Căn cứ định lượng phân bón trên, tùy theo từng giống cà phê và mật độ trồng để tính toán điều chỉnh lượng phân cho phù hợp với từng mật độ trồng trên một đơn vị diện tích).

Ở thời kỳ kinh doanh hàng năm bón thêm 10-15kg ZnSO4 và 10-15kg H3BO3, trộn đều với đạm, kali bón hoặc phun trực tiếp lên lá với nồng độ 0,5%.

- Thời điểm bón: Tùy theo điều kiện thời tiết của từng vùng mà các đợt bón có thể vào các tháng khác nhau giữa các vùng. Mỗi năm có thể bón 4 lần như sau:

Loại phân

Tỷ lệ bón (%)

Tháng 2-3

Tháng 4-5

Tháng 6-7

Tháng 9-10

Đạm

20

30

30

20

Lân

100

-

-

-

Kali

20

30

30

20

Ngoài lượng phân theo định mức trên, để đảm bảo cho vườn cây bền vững, năng xấut cao ổn định thì 2-3 năm có thể bón vôi 1 lần với lượng 500-1.000kg/ha, bón vãi đều trong phạm vi tán, bón vào đầu mùa mưa.

- Cách bón: Nếu vườn cà phê có địa hình bằng phẵng thì bón vòng theo tán cây. Nếu cà phê trồng trên đất dốc thì bón phân theo một nửa bộ tán phía trên dốc theo dạng hình bán nguyệt.

Đối với cà phê còn nhỏ bón cách gốc 10cm thành dãi rộng 20cm ra phía ngoài mép tán.

Khi cây đã lớn bón cách gốc 20cm và bón thành dải rộng 30cm ra phía ngoài mép tán.

Khi cây vào thời kỳ kinh doanh, bón cách gốc 30cm theo dãi rộng 50cm ra phía ngoài mép tán.

Trong vùng bón phân cào sâu 5-7cm để rải phân sau đó lấp đất lại cùng với tàn dư thực vật có trên vườn. Phân chuồng và các loại phân hữu cơ bón theo rãnh vào đầu hay giữa mùa mưa, rãnh đào một phía dọc theo mép tán, rộng 15-20cm, sâu 20-25cm, dài 60-80cm đưa phân xuống rãnh, lấp đất. Các năm sau đào rãnh về phía khác; không trộn phân đạm hoặc phân có chứa đạm với vôi, không bón vào những ngày nắng gắt nhiệt độ > 300C, những lúc mưa rét nhiệt độ < 150C, không bón khi cà phê nở hoa.

- Xử lý vỏ cà phê làm phân bón:

Nguyên liệu: 1.000kg vỏ quả cà phê; Phân chuồng 200kg; Phân lân nung chảy 50kg; Phân urê 10kg; Vôi bột 15kg; Đường cát 2kg; Men sinh học 2kg.

Cách làm như sau: Để phân hủy vỏ cà phê tươi ta đắp thành đống rộng 1,2m, cao 1-1,2m, dài 5-10m, các đống cách nhau 1,2m.

Để làm thành từng đống, trước hết làm thành từng lớp vỏ dày khoảng 20cm, sau đó rãi 1 lớp phân lân hoặc vôi, nếu có thể thêm 1 ít phân chuồng. Cứ làm thành từng lớp cho đến khi đạt độ cao 1,2m. Sau 25-30 ngày đảo một lần, không nén chặt để cung cấp thêm ôxy cho vi sinh vật phân hủy.

Sử dụng vỏ cà phê đã được phân hủy: Bón lót cho trồng mới cà phê, bón cho vườn cà phê kinh doanh, bón cho các cây trồng khác thay phân chuồng.

3.9. Tưới nước: Sau trồng phải chú ý tủ gốc giữ ẩm. Khi cây thiếu nước, cần tưới nước vào mùa khô tưới 3-4 đợt. Mỗi đợt cách nhau 20-25 ngày. Lượng nước tưới tuỳ thuộc vào tuổi cây. Năm trồng mới và 2 năm tiếp theo tưới 200-300m3/ha/1lần tưới.

Các năm kinh doanh cần 400-500m3/ha/1lần tưới: Riêng đợt tưới cho cây cà phê kinh doanh vào thời điểm mầm hoa đã phát triển đầy đủ cần tưới 600m3/ ha/đợt đầu.

3.10. Tạo hình:

- Tạo hình cơ bản: Đối với cà phê trồng mật độ dầy > 4.500 cây/ha chỉ để 1 thân cây. Mật độ < 4.000 cây/ha có thể để 2 thân/gốc. Chọn những chồi vượt mọc từ thân, cách gốc 30-50cm để tạo thân mới, cắt bỏ các chồi vượt khác kịp thời, thường xuyên. Việc tạo hình cơ bản là tạo ra thân cây cà phê có những cành cấp I để tạo ra bộ khung của cây cà phê, có 2 cách:

Không bấm ngọn để cây cà phê phát triển tự do theo chiều cao.

Có bấm ngọn: Tuỳ theo độ phì nhiêu của đất, giống, trình độ thâm canh, ngắt bỏ ngọn cà phê ở độ cao thích hợp. Các giống thấp cây, tán bé, khả năng phát triển chiều cao hạn chế như Catimor, Caturra, Catuai thì hảm ngọn 1 lần ở độ cao 1,8m; các giống cao cây như Burbon, Typyca, Mundonovo hảm ngọn 1 lần ở độ cao 1,4m, sau 2-3 năm các cành cơ bản páht sinh cành thứ cấp, các cành thứ cấp bị già cổi thì chọn 1 chồi vượt to khỏa gần đỉnh tán để nuôi tầng thứ 2 và hảm ngọn ở độ cao 1,8m.

Tạo hình nuôi quả: Trên cành cấp I cần tạo thêm các cành thứ cấp để các cành này mang quả trong thời kỳ kinh doanh.

Chú ý cắt bỏ những cành tăm, cành vòi voi, cành xà gần mặt đất, cành yếu ớt có sâu bệnh. Sau vụ thu hoạch cắt bỏ những cành cấp I yếu ớt không đủ sức páht sinh cành thứ cấp, sinh trưởng kém. Với cành cấp 1 có đoạn gốc tốt, đoạn non yếu ớt, rụng hết là, có biểu hiện khô cành thì củng cắt bỏ. Tỉa bớt cành thứ cấp nếu quá dày. Thông thường trên 1 cành cấp I chỉ để lại tối đa 4-5 cành thứ cấp trên cùng một đốt.

3.11. Chăm sóc vườn cà phê cưa đốn:

Vườn cà phê già cổi không còn khả năng cho năng xuất cao, không có hiệu quả kinh tế thì tiến hành cưa đốn phục hồi, chuyển sang chu kỳ kinh doanh 2.

Thời vụ đốn từ tháng 3 - 4 sau thu hoạch hoặt đầu mùa mưa.

Kỹ thuật cưa đốn: Cưa thân, để lại đoạn gốc cách mặt đất 20-25cm, bề mặt cắt phải phẳng và vát 1 một góc không hướng về phía tây, sau đó chuyển toàn bộ thân ra khỏi vườn. Rong tỉa cành cây che bóng để cho ánh sáng lọt vào khoảng 60-70%.

- Chăm sóc:

+ Bón 5-10 kg phân chuồng và 0,2-0,3kg phân lân/gốc. Rãi đều 500-1.000kg vối/ha, cuốc xới toàn bộ đất giữa hai hàng gốc cà phê để trộn vôi vào đất và làm tơi xốp đất.

+ Sau khi cưa 1-2 tháng, giữ lại 4-5 chồi khỏe phân bố đều trên thân gốc. Khi các chồi cao 20-30cm chọn giữ lại 2 chồi để tạo thân, thường xuyên loại bỏ tất cả các chồi vượt phát sinh.

+ Đầu mùa mưa tiến hành bón phân hóa học theo định lượng và phương pháp bón như đã trình bày ở phần trên.

+ Tiến hành gieo xen cây phân xanh họ đậu và cây đậu đỗ vào giữa hai hàng cà phê, thân lá ép xanh.

+ Chiều cao hảm ngọn ở chu kỳ này là 1,6-1,8m và tiến hành tỉa cành, tạo tán như chu kỳ đầu.

IV. PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH HẠI:

A. Sâu hại:

1. Mọt đục cành (Xyleborus morstatti)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Trứng màu trắng, kích thước rộng 0,3mm và dài 0,5mm; Sâu non đẫy sức dài khoảng 2mm màu trắng kem, đầu màu nâu nhạt, không có chân; Nhộng màu trắng kem, dài gân như con trưởng thành; trưởng thành cơ thể có chiều dài gấp đôi chiều rộng. Con cái màu nâu sẫm đến đen hoàn toàn, dài 1.4-1.9mm. Con đực nhỏ không có cánh dài 0.8-1.1mm. Giai đọan trứng kéo dài 3-5 ngày, thường sau 4 ngày nở khoảng 80% trứng. Con cái đục vào cành bằng một lỗ nhỏ(1mm) ở mặt dưới của cành, xâm nhập vào giữa cành, đào một hầm ngầm và đẻ trứng ở đó. Mỗi ổ khoảng 30-50 trứng. Sâu non phát triển ở thành vách của hầm ngầm. Mọt phát triển mạnh vào các tháng 3-6 hàng năm, chủ yếu phá hại trên cây cà phê trong thời kỳ kiến thiết cơ bản (2-3 năm) trước khi bước vào thời kỳ kinh doanh. Vòng đời của mọt đục cành: 30-35 ngày gồm trứng 5-6 ngày, sâu non 12-15 ngày, nhộng 7-8 ngày, trưởng thành 16-19 ngày. Cành bị hại khá rõ rệt, lá có màu nâu sẫm và bị héo rũ nhanh chóng, rồi chết khô trên cây. Bẻ cành xuống, chẻ đôi thấy một đoạn cành đã bị mọt đục rỗng ở giữa.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp canh tác: Trồng cây che bóng. Nên cắt bỏ phần bị mọt hại và phải đốt tiêu hủy (chú ý phải cắt bỏ đồng loạt)



+ Biện pháp hóa học: Sử dụng luân phiên các loại thuốc sau để phòng trừ: Diazinon (Diaphos 50EC); Chlorpyrifos Ethyl (Anboom 48EC, Pyritox 200EC); Abamectin (Tungatin 3.6EC); Buprofezin 10% + Chlorpyrifos Ethyl 40% (Penalty gold 50EC); Chlorpyrifos Ethyl 50% + Cypermethrin 5% (Tungcydan 55EC); Alpha-cypermethrin 2% + Chlorpyrifos Ethyl 38% (Careman 40EC); Abamectin 50 g/l + Matrine 5 g/l (Amara 55EC); Alpha-cypermethrin + Chlorpyrifos Ethyl +Imidacloprid (Spaceloft 595EC); Alpha-cypermethrin + Chlorpyrifos Ethyl + Indoxacarb (Vitashield gold 600EC)

2. Sâu đục thân (Xylotrechus Quadripes)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Trứng màu ngà, sâu non trắng ngà luôn nằm thẳng, không có chân, toàn thân gồm nhiều đốt, răng cứng khỏe; trưởng thành thuộc họ xén tóc dài 17-18mm, ngang 5-7mm. Râu đầu thẳng và có nhiều đốt. Cánh cứng màu đen có các khoang đen hình chữ nhân xen kẽ các vạch vàng xám cũng hình chữ nhân. Lưng ngực màu vàng xám; nhộng trần màu vàng. Gây hại làm lá non biến dạng, mép lá hơi xoăn, phiến lá không phẳng phiu, chuyển từ xanh bóng sang xanh đậm màu xỉn; trên thân, có các vết lằn vòng quanh dưới vỏ cây. Trên cây đã bị sâu xâm nhập và đã vũ hóa bay đi, phát hiện các lỗ nhỏ tròn. Trên các vết lằn, do nhựa bị tắt nghẽn không nuôi cây, toàn bộ cành lá phía trên đều bị vàng úa, cằn cỗi, trong khi các cành phía dưới vẫn xanh tốt. Cây dễ bị gãy gục ở đoạn sâu đục. Trưởng thành đẻ trứng vào vết nứt của vỏ thân rải rác hoặc thành từng cụm. Sau khi nơ, sâu non đục vào gỗ, rồi đục ngoằn nghèo quanh vòng cây, tiện ngang các mạch gỗ. Sâu đục tới đâu, đùn phân và mạt cưa bịt kín đến đó. Khi sắp chuyển thành nhộng, sâu đục ra phía gần vỏ, cho tới khi vỏ sắp thủng thì dừng lại. Sâu lột nhộng ở gần vỏ. Sâu đục thân phát triển quanh năm nhưng có 2 đợt chính vào tháng 4, 5 và 10, 11. Trưởng thành ưa đẻ trứng vào những cây ít cành, thưa lá. Chúng hoạt động mạnh khi nhiệt độ cao, ánh sáng nhiều. Vòng đời của sâu đục thân: Trứng 15-32 ngày, sâu non 60-120 ngày, nhộng 30-35 ngày, trưởng thành 25-30 ngày

- Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp canh tác: Trồng cây che bóng làm giảm cường độ ánh sáng. Tạo hình sửa cành, tạo cho cây có một hình thù cân đối, thân cây được che phủ từ trên xuống dưới. Đối với cây bị hại nặng cần cưa cắt đoạn thân có sâu đem đốt tiêu hủy.

+ Biện pháp hóa học: Sử dụng một trong các loại thuốc: Diazinon (Diazol 10GR, Diazan 50EC); Chlorpyrifos Ethyl+Cypermethrin (Tungcydan 55EC)


3. Sâu đục quả (Prophantis smaragdina)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Trưởng thành là loài ngài rất nhỏ, màu nâu vàng sải cánh dài 14 mm ; trứng hình vảy, sâu non màu đỏ tím đẫy sức dài 14mm; nhộng màu nâu. Ngài đẻ trứng từng quả ở gần quả xanh. Sâu non gặm thịt quả, phá hoại từ quả này sang quả khác. Quả bị hại có màu vàng úa, sau bị thối. Giữa những quả bị hại thường có phân sâu lẫn với tơ quyện vào nhau. Sâu non phát triển khoảng 2 tuần rồi xuống đất hóa nhộng ở những lá rụng trên mặt đất. Vòng đời của sâu đục trái: trứng: 7 ngày, sâu non: 13-15 ngày, trưởng thành: 15-20 ngày, nhộng: 6 ngày(mùa hè), 20-30 ngày (mùa rét).

- Biện pháp phòng trừ: Có thể dùng một trong các loại thuốc sau: Diazinon (Diaphos 50EC) ; Chlorpyrifos Methyl (Sieusao 40EC) ; Alpha–cypermethrin (Anphatox 25EW, Antaphos 100EC) ; Beta -Cyfluthrin (Bulldock 025); Chlorpyrifos Ethyl + Cypermethrin (Subside 505EC)

4. Rệp sáp (Pseudococcus mercaptor, Pseudicocus spp)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Rệp trưởng thành có hình bầu dục trên mình có nhiều sợi sáp dài trắng xốp. Trưởng thành đực mình thon dài, có cánh không có sáp, mắt to đen, râu và chân có nhiều lông ngắn, trứng bầu dục dính với nhau thành ổ tròn, bên ngoài có lông tơ bao phủ, rệp non mới nở màu hồng. Chưa có sáp bên mình, chân khá phát triển. Vòng đời của rệp sáp: trứng 3-5 ngày, rệp non 6-7 ngày, trưởng thành 20-30 ngày. Cà phê thường bị 2 loại rệp sáp gây hại: hại chùm quả, lá và hại rễ.

+ Loài rệp hại lá, quả: bắt đầu đẻ trứng vào mùa mưa ở các kẽ lá, nụ hoặc chùm quả non. Rệp non sau khi nở, nhanh chóng tìm nơi sinh sống cố định. Mùa mưa sinh sản rất nhiều làm quả rụng.

+ Rệp sáp hại rễ thì sinh sống ở quanh rễ, dưới đất, tạo ra một lớp bọc không thấm nước ở quanh trục rễ. Những cây bị hại lá vàng, héo và chết.

- Biện pháp phòng trừ: Sử dụng các loại thuốc sau: Chlorpyrifos Ethyl (Lorsban 30EC, Mapy 48 EC, Maxfos 50 EC); Diazinon (Diazan 10GR); Dimethoate (Bini 58 40 EC, Dimenat 20EC); Acephate (Monster 40 EC); Abamectin (Reasgant 1.8EC, Tungatin 3.6 EC); Cypermethrin (SecSaigon 50EC); Alpha-cypermethrin (FM-Tox 25EC, Motox 2.5EC); Cypermethrin + Dimethoate (Nitox 30 EC); Cypermethrin + Profenofos (Polytrin P 440 EC); Dimethoate + Etofenprox (Difentox 20EC); Chlorpyrifos Ethyl + Permethrin (Tasodant 6G, Sago - Super 20EC); Fenitrothion + Trichlorfon (Ofatox 400WP); Chlorpyrifos Ethyl + Cypermethrin (Serpal super 585EC, Rầy USA 560EC); Buprofezin + Chlorpyrifos Ethyl (Penalty gold 50EC)

5. Mọt đục quả (Stephanoderes hampei Ferr.)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Mọt trưởng thành là bọ cánh cứng nhỏ, nâu hoặc đen, dài từ 2.5mm đến 4mm. Con cái to hơn con đực và có cánh màng. Mọt thường đục 1 lỗ tròn nhỏ cạnh núm hay giữa núm quả để chui vào trong nhân, đục phôi nhũ tạo thành các rãnh nhỏ để đẻ trứng. Sâu non ăn phôi nhũ hạt. Thường mọt chỉ phá hoại một nhân nhưng khi số lượng mọt tăng thì phá hại luôn nhân còn lại, thường thấy ở những quả cuối vụ thu hoạch và giữa 2 vụ thu hoạch.



Vòng đời của mọt đục quả biến thiên từ 45-54 ngày. Mọt tập trung phá hại trong các quả chín, nhất là các quả khô trên cây và rụng dưới đất. Số lượng con trưởng thành trung bình trong một quả trong các tháng đầu vụ là 0.9 - 2.1 con. Số lượng con trưởng thành trung bình trong quả chín là 10.0 - 92.0 con. Số lượng mọt trưởng thành trên quả khô tăng từ tháng hai đến tháng tư sau đó giảm khi có quả chín. Đối với quả non thì hầu hết mọt đục vào rồi bỏ đi, càng về sau nhân càng cứng thì tỷ lệ quả có mọt càng cao đến tháng 10 (khoảng 8 tháng tuổi ) là lúc hoàn toàn thích hợp cho mọt. Mọt xuất hiện trên cả ba giống cà phê: chè, vối, mít ngoài ra còn gặp mọt trên một số cây như: Cốt khí, muồng hoa vàng, đậu ma, keo dậu.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp canh tác: Vệ sinh đồng ruộng sau khi thu hoạch bằng cách tận thu tất cả các quả khô và chín còn sót lại ở trên cây và dưới đất. Bảo quản ở ẩm độ từ 12.5% - 13.9% thì tất cả mọt trưởng thành đều chết. Do đó nên bảo quản ở ẩm độ hạt dưới 13%.

+ Biện pháp hóa học : Coù theå phun moät trong caùc loaïi thuoác nhö Diazinon (Danasu 50EC), Deltamethrin(Decis 2.5 EC).

6. Rệp muội, rệp vảy nâu, rệp vảy xanh

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại :

+ Rệp muội: có 2 loại đen và xanh giống nhau về hình dáng. Trưởng thành có cánh hoặc không có cánh. Rệp đẻ thẳng con. Rệp non và trưởng thành giống nhau về hình dáng, bụng phình to, cuối thân có 2 ống tiết dịch. Hại nhiều loại cây trồng như chè, cà phê, cam quýt…, rệp bám vào các ngọn lá non để hút dịch làm cho lá non cong queo, phát triển không bình thường. Rệp muội phát triển quanh năm nhưng nhiều nhất là khi cà phê ra búp non.

+ Rệp vảy nâu: Trưởng thành cái không có cánh và được bọc bằng vỏ nâu, phồng lên hình bán cầu dài 2-3mm. Trưởng thành đực có cánh dài 1,2mm, màu xanh vàng nhạt. Trứng nhỏ được đẻ thành ổ ở dưới vỏ của con cái, khi nở rệp chưa có vỏ màu vàng nhạt hình bầu dục, rệp bám vào cành lá hút dịch cây làm cho cành lá kém phát triển. Rệp thường gây hại vào mùa khô.

+ Rệp vảy xanh: Trưởng thành cái không có cánh mình dẹt, vỏ mềm và màu xanh. Rệp non màu vàng xanh. Rệp vảy xanh cũng dính bám vào lá và cành non để hút dịch cây, làm lá biến vàng.

- Biện pháp phòng trừ: Sử dụng các thuốc sau: Acephate (Lancer 50SP); Benfuracarb (Oncol 20EC); Chlorpyrifos Ethyl (Pyritox 480EC); Fenobucarb (Nibas 50EC); Alpha-Cypermethrin (Fastac 5EC); Imidacloprid (Confidor 100SL); Alpha - cypermethrin + Profenofos (Profast 210EC)

7.Ve sầu:

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Tại Lâm Đồng hiện có 2 loài ve sầu xuất hiện trên cà phê:

+ Loài nhỏ: Được định danh là loài Purana guttularis Walker, thuộc họ Cicadidae, bộ cánh đều Homoptera.

+ Loài lớn: (có 3 loài) + 1 loài được định danh có tên khoa học là Pomponia sp, thuộc họ Cicadidae, bộ cánh đều Homoptera.

+ 2 loài chưa định danh được. Hầu hết các loài ve sầu có vòng đời kéo dài từ 2 – 5 năm, cá biệt một số loài có vòng đời từ 13 đến 17 năm. Các loài ve sầu trên chưa xác định chính xác được vòng đời .

Con cái dùng máng đẻ trứng cứa vào cành nhỏ đã bị khô để đẻ trứng (đường kính 0.5-1cm), ngoài ra ve sầu còn đẻ trứng dưới lớp vỏ của thân cây, hoặc tại các cành đã hóa gỗ. Trứng được đẻ rải rác hoặc từng ổ khoảng 10-20 ổ trứng. Mỗi con cái có thể đẻ từ 400-600 trứng tương đương khoảng 40-50 ổ trứng. Thời gian phát dục của trứng từ 4-14 tuần tuỳ thuộc loài và điều kiện ngoại cảnh. Trứng sau khi nở ra ấu trùng tuổi 1 sẽ rơi xuống đất, ấu trùng đào hang sâu dưới đất từ 15-40cm để bắt đầu pha ấu trùng kéo dài 2-17 năm. Ấu trùng chích hút hệ thống rễ của cây để sống. Nhộng ve sầu hút nhựa từ rễ cây và có đôi chân trước rất khỏe để có thể khoét ngạch di chuyển từ rễ này tới rễ khác. Sau 5 lần lột xác, chúng đạt kích thước tối đa và đào một đường hầm chui lên khỏi mặt đất để vũ hóa. Sau khi lên mặt đất chúng bám vào cây, làm nứt da cũ dọc lưng và lột xác lần cuối để thành ve sầu trưởng thành. Ấu trùng đến kỳ vũ hoá bò lên khỏi mặt đất vào ban đêm, chúng leo lên cành, lá cây để chuẩn bị lột xác lần cuối thành con trưởng thành. Loài 13-17 năm thường vũ hoá đồng loạt, trùng hợp trong vài ngày (thường vào giữa tháng 5 đầu tháng 6). Loài 2-7 năm thường vũ hoá từ tháng 4-9 hàng năm. Ve sầu trưởng thành chỉ sống từ 2-4 tuần. Cả con đực và con cái đều không ăn uống trong giai đoạn này, vai trò duy nhất của chúng là thực hiện chức năng sinh sản để duy trì nòi giống, mà năng lượng dùng để thực hiện chức năng này đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ nhiều tháng khi còn ở dưới mặt đất. Ve sầu đực kêu thành các bài hát để quyến rũ bạn tình. Ve sầu cái không kêu. Sau khi bắt cặp và đẻ trứng chúng hoàn tất vòng đời.

Vườn cà phê bị ve sầu gây hại: Cây cằn cọc lá úa vàng, các cành dinh dưỡng phát triển kém, chồi ngọn và lá ra ít, nếu bị hại nhẹ thì cây còn xanh, lá cà phê mo lại lên phía trên, nếu bị nặng thì rụng lá, rụng trái xanh bất thường, quả non phát triển chậm ngay cả sau khi bón phân đầu mùa mưa. Các rễ tơ ở độ sâu 0 -15cm phát triển chậm, một số rễ bị đen, thối từ đầu rễ vào do một số loài nấm, tuyến trùng tấn công vào vị trí rễ bị ấu trùng ve sầu gây hại. Trên thân, cành và lá cà phê phát hiện rất nhiều xác ấu trùng đã vũ hóa.

- Nguyên nhân sự bùng phát của ve sầu: Do mất cân bằng hệ sinh thái đồng ruộng. Sự giảm sút các loài thiên địch bắt mồi, ong, kiến ăn mồi, nhện, bọ rùa, đuôi kìm …nên ve sầu bùng phát mạnh và do một số nấm, tuyến trùng kí sinh rễ cây cà phê sau khi ấu trùng ve sầu gây hại bộ rễ, chúng tấn công vào vị trí bị hại của rễ.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp canh tác: Tạo tán, tỉa cành thông thoáng để hạn chế trưởng thành đẻ trứng; thu gom toàn bộ những cành khô, vỏ thân cây đã khô mục nơi trưởng thành để trứng đem đốt để làm giảm mật độ trứng ve trên đồng ruộng; hàng năm sau khi thu hoạch xong cần cào bồn tạo môi trường sống bất lợi cho ấu trùng ve sầu tuổi nhỏ (tuổi 1-2); dùng tăm xe máy, chọc xuống các lỗ để giết ấu trùng; dùng màng nilon phủ dưới đất xung quanh gốc cây không cho ấu trùng ve sầu sau khi nở chui xuống đất. Hoặc dùng nilon quây quanh gốc cà phê vào thời kỳ ve sầu vũ hóa mạnh từ tháng 5-9 để thu bắt trưởng thành, bón phân cân đối hợp lý. Thực hiện đúng quy trình canh tác cà phê bền vững

+ Biện pháp sinh học: Vào thời điểm ve sầu vũ hóa rộ tháng 5-9 sử dụng bẫy đèn để thu hút trưởng thành vào bẫy tiêu diệt. Theo kết quả theo dõi trong năm 2008 thì thời gian ve sầu vào đèn nhiều nhất từ 6h30 -7h tối. Chú ý loại bóng đèn sử dụng trong bẫy phải là loại bóng cao áp từ 400-500W. Khi sử dụng biện pháp này nên sử dụng vải mùng làm tấm lưới chắn để ve sầu dễ mắc bẫy, mặt khác đặt bẫy tại các khu vực xa khu dân cư, ít ánh sáng đèn thì khả năng thu hút cao hơn.

Bảo vệ các loài thiên địch có khả năng hạn chế sự gây hại của một số loại côn trùng hại cà phê như: kiến, nhện, ong, bọ rùa đỏ, bọ mắt vàng… bằng cách dùng các loại thuốc có tính xua đuổi kiến vào thời kỳ rệp phát triển mạnh, không nên sử dụng thuốc có độ độc cao để tiêu diệt kiến.

Dùng các chế phẩm sinh học như: Nấm Metarhizium anisopliae để phòng trừ ấu trùng: sử dụng chế phẩm Metament 90DP với liều lượng: 600gr thuốc + 3 -5lít nước/gốc tuỳ theo tuổi cây cà phê. Hoặc chế phẩm Bemetent với thành phần là 3 chủng nấm (Beauveria bassiana, Metarhizium anisopliae và Entomophthora sp) liều lượng sử dụng 5g/lít nước, tưới 2 lít/gốc.

Kiến vàng, rắn, chim, các loài ong bắp cày là những loài thiên địch của ve sầu. Kiến ăn thịt ve sầu con vừa nở hoặc vừa lột xác sau khi chui lên mặt đất. Hạn chế tối đa việc dùng thuốc hoá học tiêu huỷ trắng thảm thực vật (cỏ dại) nhằm duy trì hệ sinh vật đất và giữ phong phú hệ rễ thực vật, tạo nhiều nguồn thức ăn cho ấu trùng.

+ Biện pháp hoá học: Đối với ấu trùng ve sầu cần thường xuyên kiểm tra bộ rễ cà phê, khi phát hiện có ấu trùng tuổi nhỏ xuất hiện thì tiến hành xử lý.

Khi sử dụng thuốc phòng trừ ve sầu nên tiến hành ở giai đoạn ấu trùng ve sầu mới nở, cần phải cào kỹ lớp lá khô, cỏ, lớp đất mặt ở trên để lộ miệng lỗ ấu trùng, sau đó xử lý bằng cách rải đều các loại thuốc dạng hạt, tiến hành lấp đất và tưới nước. Luân phiên sử dụng một trong các loại thuốc sau: Diazinon (Cazinon 10 H); Fipronil (Regent 0.3GR, Suphu 10GR); Chlorpyrifos Methyl (Sago – Super 3 G); Chlorpyrifos Ethyl + Permethrin (Tasodant 6G)

B. Bệnh hại:

1. Bệnh rỉ sắt (Hemileia vastatrix )

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh gây hại trên lá, lúc đầu vết bệnh là những đốm tròn nhỏ màu vàng, sau vết bệnh lớn dần và có lớp phấn màu vàng da cam rất sáng ở dưới mặt lá. Bệnh nặng làm lá vàng và rụng, cây sinh trưởng còi cọc. Bệnh do nấm Hemileia vastatri gây hại, bào tử phát tán và lây lan mạnh nhờ gió, côn trùng và công nhân chăm sóc. Bào tử có thể chịu đựng được nhiều tháng trong điều kiện bất lợi cho nảy mầm. Bào tử nảy mầm nhanh ở nhiệt độ 240C sau 2-4 giờ và phát triển nhanh ở độ ẩm 80-90%. Thời gian ủ bệnh là 6-12 giờ. Các giống cà phê ở Việt Nam đều nhiễm bệnh gỉ sắt. Arabica nhiễm nặng nhất, tiếp đến là Exelsa và Robusta.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp canh tác: Bón phân đầy đủ và cân đối, tạo hình thông thoáng, tỉa cành hợp lý giúp cây sinh trưởng tốt. Dùng giống kháng bệnh như: S.73, Catimor F6. Hạn chế sử dụng các giống mẫn cảm với bệnh gỉ sắt như Caturra, Typica, Mundo Novo...

+ Biện pháp hóa học: Có thể dùng các loại thuốc sau phun kỹ lên hai mặt lá như: Hexaconazole (Anvil 5SC, Annongvin 50 SC,); Propiconazole (Tilt 250 EC, Bumper 250 EC); Diniconazole (Nicozol 25 SC); Chlorothalonil (Forwanil 50SC); Mancozeb (Penncozeb 80 WP, Dithane F-448 43SC); Carbendazim (Daphavil 50 SC, Arin 25SC); Triadimefon (Bayleton 250 EC, Encoleton 25 WP); Difenoconazole + Propiconazole (Tilt Super 300EC, Tinitaly surper 300.5EC); Isoprothiolane + Propiconazole (Tung super 300EC); Carbendazim + Tricyclazole + Validamycin (Carzole 20 WP)

2. Bệnh khô cành qủa (Anthracnose)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Do nấm Colletotrichum gloesporioides gây nên trong điều kiện cây bị suy yếu do thiếu dinh dưỡng, bệnh gây hại ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng của cây, nhưng bệnh phát triển mạnh lúc cà phê ra hoa, kết quả. Mưa nhiều vào buổi chiều tối làm phát tán bào tử và làm bào tử xâm nhiễm vào quả. Bệnh gây hại trên lá, quả, cành và thân cà phê; trên lá bệnh xâm nhập vào đầu lá hay phiến lá, triệu chứng ban đầu là những vết loang lổ màu nâu có nhiều vòng đồng tâm, sau đó lan rộng ra chuyển sang màu nâu sẫm hay nâu đen. Các vết bệnh xuất hiện nhiều liên kết với nhau thành từng mảng lớn làm cho lá bị khô rụng; trên cành và thân: Bệnh tấn công lên cành ở các giai đọan cành đang hóa gỗ và xâm nhập vào đầu cành mang quả qua vết nứt của lá. Trên cành có những vết nâu lõm xuống làm vỏ biến màu nâu đen và khô dần. Bệnh nặng, nấm xâm nhập cả cành lớn và lan cả thân làm rụng lá và cành trơ trụi khô đen. Mô thân bị nhiễm cũng hóa đen; trên quả nấm tấn công vào giai đọan quả thành thục 6-7 tháng. Vết bệnh là những đốm nâu lõm vào phần vỏ quả có kích thước và hình thù khác nhau. Bệnh xuất hiện bắt đầu từ nơi đính vào cuống hay tại điểm tiếp xúc giữa hai quả, những nơi mà nước có thể đọng lại. Bệnh nặng làm lá, cành, quả khô đen và rụng làm cành trơ trụi.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp canh tác: Bón phân đầy đủ cung cấp dinh dưỡng cho cây, dùng cây che bóng. Cắt và gom những đoạn cành bị bệnh đốt tiêu hủy.

+ Biện pháp hóa học: Dùng luân phiên một trong các loại thuốc sau: Propineb (Antracol 70WP, Newtracon 70 WP); Copper Hydrocide (Kocide 53.8DF); Mancozeb (Manozeb 80WP); Carbendazim (Carban 50SC, Binhnavil 50SC); Hexaconazole (Tungvil 5SC); Validamycin (Tung vali 3SL); Hexaconazole + Tricyclazole (Forvilnew 250SC).

3. Bệnh đốm mắt cua (Cercospra offeicola)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh do nấm Cercospora coffeicola gây ra trong điều kiện cây bị suy yếu do thiếu dinh dưỡng. Gây hại trên lá, quả, cành. Cây bị bệnh nặng thường cằn cỗi, chậm phát triển, lá vàng và rụng, quả vàng và chín ép. Vết bệnh trên lá và quả thường có hình tròn, trong có nhiều vòng đồng tâm, chính giữa màu xám có các chấm đen nhỏ, xung quanh nâu đỏ, ngoài cùng vàng. Trên cành, vết bệnh chạy dọc theo chiều dài cành. Quả bị nấm gây hại nặng có thể bị thối đen từng phần hoặc toàn bộ. Bệnh xuất hiện phổ biến trong vườn ươm và thời gian kiến thiết cơ bản. Bệnh phát triển quanh năm đặc biệt là trên các vườn chăm sóc kém, thiếu phân bón hoặc trồng trên đất xấu.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp canh tác: Có thể trồng cây che bóng, bón phân đầy đủ và hợp lý để cây có đủ sức kháng bệnh.

+ Biện pháp hóa học: Sử dụng thuốc Hexaconazole (Dibazole 10 SC)

4. Bệnh nấm hồng (Corticium salmonicolor)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh gây hại trên quả và cành. Đầu tiên trên quả hay cành xuất hiện những chấm rất nhỏ màu trắng giống như bụi phấn. Những chấm này nhiều lên tạo thành một lớp phấn mỏng sau này có màu hồng đó là bào tử của nấm. Nếu xuất hiện ở cành thì thường nằm ở mặt dưới cành, nếu ở quả thường từ cuống quả. Vết bệnh phát triển chạy dọc theo cành và lan dần cả quả làm cành bị chết khô, quả thì héo và rụng non. Đây là bệnh gây hại nặng trên cà phê chè, cà phê vối cũng bị rải rác. Cây cà phê kiến thiết cơ bản có thể chết nếu bị bệnh nặng. Trên cà phê vối kinh doanh bệnh thường gây hại có tính cách cục bộ từng cây, làm chết từng cành, nếu nặng có thể chết cả 1/2 tán cây. Cho đến nay chưa thấy có hiện tượng chết cả cây cà phê vối kinh doanh do nấm hồng.

Bệnh thích hợp với điều kiện ẩm độ cao nhưng lại nhiều ánh sáng. Do đó trong vườn cây, bệnh thường xuất hiện ở tầng giữa và tầng trên, ít thấy ở tầng dưới. Bệnh phát triển rất nhanh trên cây, tốc độ làm chết cành rất nhanh. Nhưng lây lan từ cây này sang cây khác thì chậm. Thời gian phát triển của bệnh cũng không kéo dài. Bệnh thường phát sinh từ tháng 6,7, phát triển mạnh từ tháng 7 đến tháng 9, cao điểm vào tháng 9. Sự phát sinh phát triển của bệnh chịu ảnh hưởng nhiều bởi ẩm độ không khí. Năm nào mưa nhiều, ẩm độ không khí cao thì bệnh nặng hơn. Các vườn cà phê rậm rạp, tạo hình không thông thoáng, vườn cây ẩm thấp thưòng bị bệnh nặng hơn.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp canh tác: Tạo hình thông thoáng cho vườn cây, thường xuyên kiểm tra vườn cây nhất là những năm có mưa nhiều để phát hiện bệnh sớm. Sau đó cắt, đốt các cành bệnh. Trên cà phê vối nếu cắt bỏ cành bệnh kịp thời có thể phòng trừ bệnh nấm hồng mà không cần phải dùng thuốc hóa học.



+ Biện pháp hóa học: Sử dụng các loại thuốc sau: Validamycin (Validacin 3L, Valivithaco 3L, Vali 5DD); Copperhydroxide (Champion 77WP); Hexaconazole (Annongvin 200SC, Tungvil 5SC, Anvil 5SC, Saizole 5SC); Carbendazim (Arin 25SC); Carbendazim + Hexaconazole (Vilusa 5.5SC); Carbendazim + Tricyclazole + Validamycin (Carzole 20 WP)

5. Bệnh lở cổ rễ:

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh do nấm Rhizoctonia sp + Fusarium Oxysporum + Pythium gây ra trong điều kiện mùa mưa, chủ yếu trên cà phê 2 năm tuổi. Bệnh gây hại cả trong vườn ươm. Cây sinh trưởng chậm, lá vàng rất dễ nhầm với vàng lá do kém chăm sóc và thiếu dinh dưỡng. Một phần cổ rễ (phần thân tiếp giáp với rễ cọc, cách mặt đất khoảng 20-30cm) bị khuyết dần vào trong, sau đó vết khuyết sâu hơn, cây vàng dần và chết.

- Biện pháp phòng trừ: Đất trồng cà phê phải có tầng canh tác dày, thoát nước tốt, nước ngầm thấp. Cây con phải đủ tiêu chuẩn trồng, sạch sâu bệnh. Trồng cây chắn gió. Tránh tạo vết thương phần gốc cây qua việc làm cỏ và đánh chồi sát gốc. Đối với những cây bị hại nặng cần nhổ bỏ và đốt tiêu hủy. Sau đó xử lý hố như đối với bệnh thối rễ cọc trước khi trồng lại. Đối với cây bị hại nhẹ, luân phiên sử dụng các loại thuốc sau Dẫn xuất Salicylic Acid (Sông Lam 333 50EC); Trichoderma viride (Biobus 1.00WP); Validamicin (Valijapane 3SL).

6. Bệnh thối cổ rễ:

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh chủ yếu do nấm Fusarium sp, thường xuất hiện vào giữa mùa mưa trên cà phê 2 năm tuổi. Nấm bệnh tồn tại trong đất xâm nhập vào cây qua vết thương. Cây sinh trưởng chậm, gốc bị long, phần cổ rễ thối đen, nhỏ lại so với thân, gỗ bên trong bị khô, bệnh phát triển và lây lan rất nhanh làm lá héo vàng và cây bị chết.

- Biện pháp phòng trừ: Như đối với bệnh lở cổ rễ.

7. Thối rễ cọc:

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Chủ yếu là do tuyến trùng gây hại rễ tạo điều kiện thuận lợi cho một số nấm bệnh xâm nhập vào gây hại. Đầu mùa khô khi dứt mưa cây có biểu hiện vàng lá do rễ cọc bị thối và đứt ngang, rễ tơ gần mặt đất phát triển mạnh. Cây bị nặng rễ tơ cũng bị thối. Do không có rễ cọc, các cây bị bệnh dễ bị nghiêng khi có gió to và rất dễ nhổ lên bằng tay.

- Biệp pháp phòng trừ: Nhổ bỏ các cây bị thối rễ, đào và phơi hố trong mùa khô sau đó xử lý hố như trên trước khi trồng lại.

Xử lý hố trước khi trồng bằng cách bón vôi (1kg/hố), phòng trừ tuyến trùng Ethoprophos (Vimoca 20ND) trước khi trồng 15 ngày. Sử dụng hoạt chất Chaetomium cupreum (Ketomium 1.5 x 106 cfu/g bột) để hạn chế bệnh thối rễ.

8. Thối rễ tơ:

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh do nấm Rhizoctonia Bataticola + Fusarium Oxysporum gây hại. Cây bị bệnh phát triển chậm, lá vàng dần, rễ tơ bị thối đen từ chóp rễ vào. Cây bị nặng rễ lớn cũng bị thối đen từ lớp vỏ ngoài vào làm cho cây bị kiệt sức vì không hấp thu được dinh dưỡng và chết. Bệnh gây hại trên cà phê kinh doanh và cả trên cà phê kiến thiết cơ bản. Cây thường có biểu hiện vàng từ tháng 9 trở đi và đến mùa khô thì giảm, nếu nhẹ thì sau khi tươí nước xong cây lại xanh nhưng đến năm sau cây lại bị lại.

- Biện pháp phòng trừ: Bón phân đầy đủ và cân đối, tăng cường bón phân hữu cơ và các chế phẩm sinh học cải tạo đất. Hạn chế xới xáo, làm bồn trong những vườn cây đã bị bệnh để tránh gây vết thương cho rễ. Không tưới nước tràn từ vườn bị bệnh sang vườn không bị bệnh. Cần điều chỉnh hệ thống thoát nước cho hợp lý. Đối với cây bị hại nhẹ có thể dùng thuốc trừ tuyến trùng tưới quanh gốc cách nhau 10-15 ngày/ 1 lần. Đối với cây bị hại nặng cần đào và đốt tiêu hủy những cây bị bệnh, sau đó xử lý hố như đối với bệnh thối rễ cọc.

9. Bệnh nhũn cổ rễ:

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh do các loài nấm Fomes noxius + Fusarium sp + Rhizoctonia gây nên. bệnh thường xuất hiện trong mùa mưa trên cà phê kinh doanh. Cây bị hại nhẹ: cây còi cọc, sinh trưởng, phát triển kém, vỏ cổ rễ bong ra, cổ rễ mềm xốp hơn các cây bình thường; cây bị hại nặng: cổ rễ nhũn, phần rễ bên trong khô, toàn bộ hệ thống bên trong đen và khô cây trơ cành trụi lá làm cây chết.

- Biện pháp phòng trừ:

Bón phân đầy đủ, cân đối và hợp lý. Cần bón phân hữu cơ hoai mục và các chế phẩm cải tạo đất. Thường xuyên theo dõi cây trồng để phát hiện sâu bệnh và có biện pháp phòng trừ kịp thời. Đào đốt những cây bị bệnh , xử lý hố bằng các loại thuốc như đối với bệnh thối rễ cọc, rễ tơ.

10. Tuyến trùng hại rễ (Pratylenchus coffeae Meloidogyne spp.)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại:

Nguyên nhân chủ yếu của bệnh là do tuyến trùng Pratylenchus coffeae kết hợp với nhiều loại nấm, chủ yếu là Fusarium solani,, Fusarium oxysporum, trong một số trường hợp còn có sự phối hợp với rệp sáp. Các ký sinh này có sẵn trong đất và rễ của các vườn cà phê già cỗi và chỉ làm suy yếu các vườn này nhưng lại dễ dàng gây chết cho cà phê kiến thiết cơ bản khi trồng lại. Tuyến trùng gây hại trên tất cả các loại tuổi cà phê, cả trong giai đoạn vườn ươm. Cà phê chè thường bị hại nặng hơn cà phê vối. Trên đồng ruộng, triệu chứng đầu tiên thường là 1 mảng hay 1vùng cây sinh trưởng kém trong khi các cây chung quanh sinh trưởng tốt. Triệu chứng thể hiện rõ nhất là cây sinh trưởng kém, thiếu dinh dưỡng (vàng lá), héo khi thời tiết nóng hay khô, giảm năng suất và chất lượng. Ở cây cà phê giai đoạn kiến thiết cơ bản, bệnh xuất hiện chủ yếu trên các vườn trồng lại trên đất các vườn cà phê già cỗi và các vườn kinh doanh đã bị tuyến trùng gây hại. Cây có triệu chứng vàng lá rất rõ vào đầu mùa khô, sau khi dứt mưa và chưa tưới nước do rễ cọc bị thối và đứt ngang. Bộ rễ tơ gần mặt đất phát triển mạnh, ở cây nặng rễ tơ cũng bị thối. Trong mùa mưa nếu được chăm sóc tốt cây vẫn xanh nhờ hệ thống rễ tơ gần mặt đất nhưng do không có rễ cọc nên các cây bệnh dễ bị nghiêng khi có gió to. Cây bị bệnh rất dễ nhổ lên bằng tay.

Trên cà phê kinh doanh, cây bị bệnh chậm phát triển (mặc dầu đã được chăm sóc, bón phân đầy đủ), lá vàng dần, rất dễ nhầm với triệu chứng vàng lá do cây chăm sóc kém và thiếu dinh dưỡng, cành khô, rễ tơ bị thối đen từ chóp rễ vào. ở cây nặng, rễ lớn cũng bị thối từ lớp vỏ ngoài vào, rễ bị mục, dần dần cây không hấp thu được dinh dưỡng và chết. Cây thường có biểu hiện vàng lá từ tháng 8, 9 trở đi và đến mùa khô thì giảm. Nếu bị bệnh nhẹ, sau khi tưới nước cây sẽ xanh lại nhưng đến mùa mưa năm sau sẽ vàng lại.

Đối với các vườn cà phê kinh doanh, bệnh thường xuất hiện ở những vườn cho năng suất cao trong một thời gian dài nhưng không được bổ sung phân hữu cơ cũng như bón phân hóa học không cân đối khiến cây kiệt sức và giảm sức đề kháng. Tuyến trùng gây hại cây chủ yếu sống trong đất. Trứng của tuyến trùng có thể tồn tại rất lâu trong đất và trên các tàn dư thực vật khi không có cây ký chủ hay khi gặp điều kiện không thuận lợi.

Tỷ lệ cây chết ở các vườn không được rà và thu gom rễ cẩn thận sau khi thanh lý có thể lên đến 70 - 80 %. Ẩm độ đất cao tạo điều kiện thuận lợi cho tuyến trùng phát triển, tuy nhiên đất quá ẩm hay quá khô cũng làm chết tuyến trùng. Đa số tuyến trùng chết ở nhiệt độ 50-550C. Tuyến trùng có thể di chuyển theo nước nên biện pháp tưới tràn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh lây lan nhanh. Việc xới xáo, vét bồn trong các vườn đã bị bệnh cũng tạo điều kiện cho bệnh lây lan và phát triển vì tạo vết thương cho rễ.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Trong vườn ươm: Không sử dụng đất có nguồn tuyến trùng để ươm cây. Phải thay đổi vị trí của vườn ươm nếu phát hiện có tuyến trùng.

+ Đối với cà phê kiến thiết cơ bản trồng lại: Trong quá trình khai hoang phải rà rễ nhiều lần, nhặt sạch các rễ cũ còn sót lại. Sau đó phải tiến hành các biện pháp cải tạo đất, luân canh bằng các cây lương thực ngắn ngày hoặc cây phân xanh đậu đỗ ít nhất trong 2 - 3 năm. Xử lý hố trước khi trồng bằng cách đốt hố, bón vôi (1 kg/hố) kết hợp với bón lót phân chuồng, rải thuốc tuyến trùng như Mocap 10G (50g/gốc), Vimoca 20ND (0,3%, 2lít dung dịch/gốc), Oncol 20EC (0,3%, 2lít dung dịch/gốc).

+ Đối với cà phê kinh doanh: Bảo đảm qui trình kỹ thuật như cây trồng xen, cây che bóng, đai rừng chắn gió để tạo cho vườn cây có năng suất ổn định, Bón phân đầy đủ, cân đối, đồng thời tăng cường việc bón phân hữu cơ và các chế phẩm sinh học cải tạo đất nhất là đối với các vườn cây đã cho năng suất cao trong nhiều năm, hạn chế xới xáo, làm bồn trong những vườn cây đã bị bệnh để tránh sự lây lan bệnh qua việc làm tổn thươg bộ rễ; không tưới lây từ vườn bệnh sang vườn không bệnh.

Hóa học không thể được xem là biện pháp chính trong việc phòng trừ tuyến trùng vì vừa đắt tiền mà hiệu quả lại không cao. Hơn nữa đa số các thuốc trị tuyến trùng đều là những thuốc rất độc cho con người. Do đó việc sử dụng thuốc hóa học để phòng trừ tuyến trùng rất hạn chế. Khi cây mới bị bệnh có thể dùng thuốc Ethoprophos (Vimoca 20ND), Benfuracarb (Oncol 5G-20EC-25WP), Cytokinin (Geno 2005 2SL, Sincocin 0.56SL; Paecilomyces (Palila 500 WP). Tưới kỹ quanh gốc cây.

11. Bệnh vàng lá rụng trái cà phê:

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại:

+ Vàng lá rụng trái do bón phân không đầy đủ hoặc không kịp thời: Do bón phân không kịp thời, lượng phân bón ít so với nhu cầu của cây, dẫn đến tình trạng cây thiếu dinh dưỡng, cây cằn cỗi, lá vàng hàng loạt. Trường hợp này trái cà phê chỉ rụng ở những cây kém phát triển, trái nhỏ, rụng ở các chùm trái gần gốc trước, đầu cành sau, kèm theo rụng lá nhiều.

+ Vàng lá rụng trái do bón phân không cân đối: Do bón phân hoá học NPK thiếu cân đối như bón nhiều đạm, ít kali dẫn đến tình trạng cây phát triển mạnh cành vượt, lá non vẫn xanh, lá mỏng lá già vàng từ chóp lá trở xuống, rìa lá trở vào, lá già vàng trước từ cành dưới lên cành trên, vàng từ trong cành ra ngoài. Cây có thể rụng trái hàng loạt khi gặp mưa lớn, trái nhỏ, rụng nhiều, trái gần gốc rụng trước.

+ Do thiếu trung, vi lượng: Vườn cà phê được bón đầy đủ các nguyên tố NPK nhưng lại có hiện tượng lá bị vàng ở các vùng khác nhau trên phiến lá, lá có thể nhỏ hơn bình thường, chồi non chậm phát triển hoặc phát triển bất thường, trái nhỏ hoặc ít trái… do nguyên nhân thiếu trung, vi lượng.

Thiếu kẽm lá thường nhỏ hơn, gân lá xanh sẫm nổi lên rõ rệt trên nền phiến lá chuyển từ xanh nhạt đến vàng nhạt, đốt ngọn ngắn lại phát triển thành chùm, rìa lá cong lên.

Thiếu sắt thường xuất hiện trên các lá non. Lá có màu vàng nhưng gân lá còn xanh gần giống như bệnh thiếu kẽm.

Thiếu Bo thường xảy ra ở các chồi ngọn của thân chính và cành ngang chuyển vàng hoặc chết dẫn đến cành phát triển thành chùm như hình quạt. Lá nhỏ hơn bình thường và biến dạng cong mép, lá màu xanh ôliu hay xanh vàng ở nửa cuối của phiến lá, lá mỏng, cuống trái yếu.

Thiếu canxi, lá non thường bị vàng từ rìa lá vào giữa phiến lá, chỉ còn một vùng lá có màu xanh tối dọc theo hai bên gân chính, trái dễ bị rụng.

Thiếu Ma-giê lá bắt đầu vàng từ gân chính của lá rồi lan rộng gần ra phái rìa lá ở vùng giữa của các gân phụ của lá.

Thiếu Man-gan có biểu hiện màu vàng hơi nhạt ở cặp lá trưởng thành cuối cùng, sau đó chuyển sang màu vàng chanh sáng có những đốm trắng.

Thiếu lưu huỳnh phần lớn lá có màu vàng hơi nhạt, sau đó chuyển sang màu vàng sáng.

+ Do cây già cỗi: Cây có dấu hiệu sinh trưởng phát triển chậm lại: ít cành dinh dưỡng và chồi vượt, trái nhỏ dần, rễ tơ kém phát triển, cây cằn cỗi mặc dù được bón phân đầy đủ, lá vàng hàng loạt.

Bệnh khô cành, khô quả, bệnh nấm hồng, bệnh vàng lá do tuyến trùng, do nấm, ấu trùng ve sầu, mọt đục cành, mọt đục quả, rệp sáp cũng là các nguyên nhân gây ra hiện tượng vàng lá rụng trái cà phê hàng loạt.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp canh tác: Cắt tỉa các chồi vượt, cành trong tán, cành tăm, cành thừa để tập trung dinh dưỡng nuôi trái, tỉa những cành khô, già cỗi, cành bị sâu bệnh tạo cho vườn cây thông thoáng, cây sinh trưởng, phát triển tốt, tăng sức chống chịu sâu bệnh, hạn chế sự lây lan của các loại bệnh gây rụng trái.Thường xuyên thu gom các cành, lá, hoa quả bị bệnh phơi khô đem đốt để ngăn ngừa sự phát tán nguồn bệnh.

+ Bón phân cân đối, hợp lý: Vườn cà phê đang ở giai đoạn nuôi trái mà có hiện tượng rụng trái là do bón phân không đầy đủ và thiếu cân đối (bón nhiều đạm và ít kali) thì phải bổ sung ngay lượng phân NPK bón gốc quy định ở giai đoạn nuôi trái (từ 700-1000kg NPK (16-16-8)/ha tùy theo mức độ phát triển của trái trên vườn), đồng thời kết hợp sử dụng các loại phân bón lá.

Để hạn chế rụng trái do thiếu dinh dưỡng, đảm bảo năng suất, chất lượng cà phê hàng năm. Nông dân nên thực hiện quy trình bón phân đối với cà phê kinh doanh (giai đoạn từ 4 năm tuổi trở lên)

Trong trường hợp cà phê có triệu chứng thiếu các yếu tố vi lượng, có thể cung cấp vi lượng cho cà phê bằng cách phun qua lá các hợp chất chứa các nguyên tố cần thiết như Zn, Bo…

+ Biện pháp hóa học: Đối với bệnh vàng lá rụng trái do sâu bệnh hại gây ra, sử dụng các loại thuốc đã được khuyến cáo cụ thể cho từng đối tượng đã được hướng dẫn ở phần trên.

12.Thối nứt thân (Fusarium spp.)

- Đặc điểm và triệu chứng gây hại:

Bệnh do nấm Fusarium spp. gây ra. Đây là loài nấm gây bệnh tắc mạch dẫn và gây chết rất nhanh, bệnh thường xảy ra ở những vườn cây không thông thoáng, ẩm thấp hay những năm mưa nhiều, ẩm độ không khí cao.Bệnh xuất hiện trên vườn kiến thiết cơ bản lẫn kinh doanh, thường xuất hiện trên đoạn thân đã hóa gỗ. Bệnh làm nứt và thối đen lớp vỏ ngoài của thân cây, nếu bị nặng thì lớp gỗ phía trong bị khô dẫn đến hiện tượng tắc mạch, cây thiếu nước nên héo và khô từ đầu ngọn xuống. Vết bệnh có thể xuất hiện ở bất cứ vị trí nào của thân cây nhưng thường ở đoạn giữa và gần gốc cây. Bệnh phát triển và lây lan nhanh.

- Biện pháp phòng trừ: Cần phát hiện bệnh sớm khi thân cây vừa bị nứt hoặc có vết thối đen nhỏ. Dùng dao cạo sạch phần vỏ thân bị bệnh, sau đó xử lý thuốc BVTV theo hướng dẫn. Nếu cây đã bị khô ngọn cần cưa ngang và đốt bỏ phần bệnh, quét thuốc lên trên mặt thân bị cưa và nuôi chồi mới.



V. CHẾ BIẾN VÀ BẢO QUẢN:

1. Chế biến: Có 2 phương pháp chế biến chính:

- Chế biến khô: Đem phơi nguyên cả quả sau thu hoạch. Nhược điểm: quả lâu khô, dễ bị mốc, chất lượng hương vị của cà phê tách bị giảm. Đối với cà phê chè cần hạn chế phương pháp này.

- Chế biến ướt: Là phương pháp chế biến chính đối với cà phê chè, phương pháp này tạo ra sản phẩm cà phê có chất lượng cao hơn hẳn so với chế biến khô. Cách làm: Quả chín thu hái ngày nào đem xát tươi ngay ngày đó bằng máy thủ công. Sau đó dùng nước đãi hết vỏ quả, gạn hết nước rồi để ủ lên men. Chú ý: Không dùng đồ chứa bằng kim loại. Muốn biết quá trình lên men đã xong chưa, dùng móng tay cào thử nếu thấy nhám và khe hạt hoàn toàn sạch nhớt là quá trình lên men đã xong, vớt ra, rửa sạch, đem phơi.

2. Phơi: Phơi là công đoạn có ảnh hưởng lớn đến chất lượng cà phê.

- Cách phơi: Phơi cà phê quả mới thu hái (chế biến khô) hoặc quả cà phê thóc ướt (chế biến ướt) trên sân xi măng, sân gạch hoặc trên một tấm liếp, không phơi cà phê trên nền đất. Lớp cà phê phơi cần rải mỏng cho chóng khô, đảo thường xuyên ít nhất một gờ một lần. Khi cắn hạt, nếu không vỡ, coi như cà phê đã khô hoàn toàn và có thể đưa vào cất giữ.



3. Bảo quản: Cà phê phơi (hoặc sấy) khô đựng trong bao tải sạch, thùng gỗ, bồ hoặc trong kho thoáng khí, không để bị ẩm. Tuỳ theo yêu cầu của người mua cà phê, có thể tiêu thụ sản phẩm ở dạng quả khô, cà phê thóc, hoặc xay xát thành cà phê nhân để bán.





tải về 251.44 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương