QUỐc hội của nhân dâN, do nhân dâN, VÌ nhân dân lời giới thiệU


* Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản sau đây



tải về 358.56 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích358.56 Kb.
#13692
1   2   3   4

* Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản sau đây:

1. Tham gia các phiên họp toàn thể của Quốc hội, các cuộc họp của Tổ đại biểu Quốc hội, của Đoàn đại biểu Quốc hội; thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.

2. Trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội, dự án pháp lệnh ra trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.

3. Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

4. Kiến nghị với Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn.

5. Liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan Nhà nước hữu quan. Ngoài ra, đại biểu Quốc hội coàn có các nhiệm vụ, quyền hạn khác được quy định cụ thể trong Luật tổ chức Quốc hội.



* Ý nghĩa chính trị của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII:

Đó là ngày hội lớn để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình, trực tiếp lựa chọn những đại biểu xứng đáng, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình tại cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Quốc hội có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rất quan trọng trong hệ thống chính trị. Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được đánh giá bởi chất lượng của đại biểu Quôc hội. Do đó, việc lựa chọn để bầu ra những đại biểu xứng đáng sẽ có ý nghĩa lớn đối với việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Từ đó góp phần quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

* Bầu cử là quyền và nghĩa vụ của công dân:

Bầu cử là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp, pháp luật quy định, bảo đảm cho mọi công dân có đủ điều kiện thực hiện lựa chọn người người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.

Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân tổ chức ra Nhà nước bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nước. Do đó, bầu cử vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Vì, thông qua bầu cử, nhân dân trực tiếp bỏ phiếu tín nhiệm bầu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ cảu mình, để thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước; thông qua bầu cử mà nhân dân góp phần tham gia việc thiết lập ra bộ máy nhà nước để tiến hành các hoạt động quản lý xã hội.

* Nguyên tắc "phổ thông đầu phiếu":

Trong bầu cử có nội dung bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật.

Yêu cầu của nguyên tắc này là Nhà nước phải đảm bảo để bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong bầu cử.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:

Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày bầu cử;

Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập công khai, có sự tham gia của các đại diện các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân;

Thời gian bỏ phiếu được quy định thống nhất trong cả nước từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối( trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội);

Mọi công dân cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi vào danh sách cử tri;

Danh sách cử tri được niêm yết công khai chậm nhất là ba mươi ngày, trước ngày bầu cử;

Danh sách những người vừa ứng cử cũng được lập và niêm yết công khai chậm nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử để cử tri tìm hiểu và lựa chọn;

Phải có quá nửa số cử tri ghi tên trong danh sách của đơn vị đi bỏ phiếu thì cuộc bầu cử mới có giá trị; việc kiểm phiếu phải được tiến hành công khai có sự chứng kiến của đại diện cử tri, đại diện người ứng cử và đại diện các cơ quan thông tin báo chí.

* Nguyên tắc "bình đẳng trong bầu cử":

Là nguyên tắc nhằm đảm bảo để cho mọi công dân đều có cơ hội ngang nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định của pháp luật về quyền bầu cử và ứng cử của công dân:

Mỗi cử tri chỉ đc ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi cư trú:

Mỗi người chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử;

Mỗi cử tri được bỏ phiếu một phiếu bầu.

Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng, miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ lệ đại biểu thích đáng trong Quốc hội.

* Nguyên tắc "bầu cử trực tiếp":

Có nghĩa là công dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu, công dân trực tiếp bầu ra đại biểu của mình chứ không qua một cấp đại diện cử tri nào. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp đòi hỏi cử tri không đựoc nhờ người bầu hộ, bầu thay hoặc bằng cách gửi thư. Cử tri tự bỏ phiếu bầu vào hòm phiếu. Trường hợp cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải đảm bảo phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.

Trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và bầu.

* Nguyên tắc "bỏ phiếu kín":

Để đảm bảo khánh quan trong việc lựa chọn của cử tri, việc bầu cử Quốc hội được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín. Theo nguyên tắc này, cử tri bầu ai đều được đảm bảo bí mật. Khi cử tri viết phiếu bầu không ai được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết phiếu bầu trong phòng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.



* Quyền bầu cử:

Là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền đi bầu cử, người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam, và người mất năng lực hành vi dân xự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri để đi bầu cử.

Tuy nhiên, Luật bầu cử Quốc hội cũng quy định người bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật, người người mất năng lực hành vi dân sự nếu đến trước thời điểm bỏ phiếu 24 giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả tự do hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì có quền được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri. Ngược lại, người có tên trong danh sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị toà án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt tù, bị bắt giam hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, thì uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xoá tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.

* Quyền ứng cử:

Là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ hai mươi tuổi trở lên có quyền ứng cử. Để được bầu làm đại biểu Quốc hội, người ứng cử còn phải bảo đảm những tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội. Cử tri căn cứ vào các tiêu chuẩn này để lực chọn bầu các đại biểu Quốc hội.



* Cách tính tuổi để ghi vào danh sách cử tri:

Tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử và ứng cử của công dân được tính từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong Giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu Quốc hội đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định. Trường hợp không có giấy khai sinh thì căn cứ vào sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng minh nhân dân để tính tuổi thực hiện quyền bầu cử, ứng cử.

Mỗi tuổi tròn được tính từ ngày, tháng, năm sinh( dương lịch) của năm trước đến ngày, tháng năm sinh( dương lịch) của năm sau.

Trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm sinh thì lấy ngày 01 của tháng sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử. Trường hợp không xác định được ngày sinh và tháng sinh thì lấy ngày 01 tháng01 của năm sinh làm căn cứ xác định quyền bầu cử và ứng cử.



* Danh sách cử tri:

Là cơ sở pháp lý để cư tri nhận thẻ cử tri, thực hiện quyền bầu cử của mình. Vì vậy, pháp luật quy định rất chặt chẽ về việc lập danh sách cử tri.

Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cư tri ở một nơi mình thường trú hoặc cư trú. Quy định như vậy nhằm đảm bảo để tất cả các cử tri đều được quyền bầu cử. Mặt khác, nhằm đảm bảo sự bình đẳng trong bầu cử. Không ai có thể đi bỏ phiếu ở nhiều nơi.

Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ ngghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đủ mười tám tuổi trở lên, đang cư trú tại nơi mình có hộ khẩu thường trú và không thuộc các trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri tại xã, phường, thị trấn nơi đã đăng ký thường trú và bầu cử Quốc hội tại nơi đó.

Trong thời hạn lập danh sách cử tri, những người chưa có hộ khẩu thường trú có giấy chứng nhận chuyển đi của cơ quan có thẩm quyền ở nơi cư trú cũ thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại nơi cư trú mời để tham gia bầu cử.

Trường hợp người tạm vắng khỏi nơi cư trú để đi lao động, làm ăn hoặc vì lý do khác, nếu đã đăng ký tạm trú từ sáu tháng trở lên ở nơi cư trú mới thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại địa phương nơi cư trú mới để thực hiện quyền bầu cử.

Trường hợp người tạm vắng khỏi nơi cư trú để đi thăm người thân, đi du lịch hoặc vì lý do khác thì ghi tên vào danh sách cử tri nơi đăng ký hộ khẩu thường trú để thực hiện quyền bầu cử.

Sinh viên, học sinh, học viên có hộ khẩu tạm trú tại các trường chuyên nghiệp, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi học tập, công tác hoặc nơi đóng quân để tham gia bầu cử.

Quân nhân có hộ khẩu thường trú tại địa phương( gần nơi đóng quân) có thể được Thủ trưởng đợn vị cấp giấy chứng nhận để ghi tên vào danh sách cử tri tham gia bỏ phiếu bầu cử tại nơi cư trú.

Kể từ ngày niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bỏ phiếu, cán bộ, công chức nhà nước, cán bộ, chiến sĩ thuộc đơn vị vũ trang nhân dân đang đi công tác và những người di cư tự do, đi lao động, làm công, làm công, đi thăm người thân, đi du lịch ở nơi nào thì xuất trình thẻ cử tri do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thi trấn ( sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân xã) nơi cư trú cấp hoặc giấy chứng nhận “đi bỏ phiếu nơi khác” do chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân cấp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi mới đến để được ghi tên bổ sung vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi đó; nếu họ có thẻ cử tri hoặc giấy chứng nhận “đi bỏ phiếu nơi khác” thì Uỷ ban nhân dân xã phải yêu cầu những người này liên hệ với Uỷ ban nhân dân hoặc chỉ huy đơn vị nơi lập danh sách cử tri trước ngày niêm yết danh sách cử tri để nhận thẻ cử tri hoặc giấy chứng nhận “đi bỏ phiếu nơi khác” để được bầu cử ở nơi mới đến.

Công dân Việt Nam công tác, lao động, học tập, du lịch, thăm người thân hoặc định cư ở nước người trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được công bố đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ, thì đến Uỷ ban nhân dân xã nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú xuất trình Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam để được ghi tên vào danh sách cử tri và nhận thể cử tri.

* Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị về danh sách cử tri:

Khi điều tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai sót thì trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày niêm yết, mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị, cơ quan lập danh sách cử tri giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị đó. Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị biết kết quả giải quyết.

Trong trường hợp người khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị không đồng ý về cách giải quyết của cơ quan lập danh sách cử tri thì có quyền khiếu nại lên Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị, Toà án phải giải quyết xong. Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng.
KHẨU HIỆU BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHOÁ XII
- Cử tri cả nước tích cực tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII!

- Nhiệt liệt chào mừng ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII - ngày 20 tháng 5 năm 2007!

- Bầu cử đại biểu Quốc hội là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân!

- Bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII dân chủ, đúng luật, an toàn, tiết kiệm!

- Sáng suốt lựa chọn những người có đủ đức, tài bầu vào Quốc hội khoá XII!

- Bầu cử đại biểu Quốc hội là trực tiếp góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân!

- Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thi đua lập thành tích chào mừng cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII!

- Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!

- Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!

- Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!








tải về 358.56 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương