PHẬt học tinh hoa một Tổng Hợp Ðạo Lý


Thức, một chi quả thứ nhất thuộc đời hiện tại



tải về 1.23 Mb.
trang10/14
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.23 Mb.
#37964
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

Thức, một chi quả thứ nhất thuộc đời hiện tại.

4. DANH SẮC (Nàmarùpam): “Danh” là một danh từ trừu tượng như Thụ, Tưởng, Hành, Thức uẩn, không có hình ảnh, chỉ là trạng thái chiều theo cảnh giới mà hiển hiện; “Sắc” tức hình tướng vật thể vô tri có trạng thái tự tiêu hoại do sức lạnh, nóng của thời tiết. Nhưng đây chủ yếu nói về sắc uẩn là do sự phối hợp của bốn Đại: Đất (Prthividhàtuh), Nước (Abdhàtuh), Lửa (Tejodhàtuh), Gió (Vàyadhàtuh)… tức chỉ cho tổng báo thân của loài hữu tình, từ khi còn trong thai trạng, và dần dần sinh trưởng… Vậy “có Nghiệp Thức là có sự luân chuyển, nên khi Tâm thức chuyển sự sống sang kiếp khác (con mình). Tâm (Danh) phải nương vào vật (Sắc) là tinh huyết cha mẹ, để sự sống được nẩy nở, tồn tại”.

Con người là loài sinh mệnh có tư tưởng, trí tuệ, nhưng do những yếu tố nào kết hợp tạo thành? – Đạo Phật quan niệm con người cũng như các loài có cảm giác, thức tính đều do luật tiến hóa của vũ trụ với một trình độ nào… và do Ngũ Uẩn kết hợp thành thân.

Đức Phật dạy:



“… Này các tỳ khưu, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình. Ở đây cha mẹ có giao hợp và người mẹ không có thể thụ thai, và hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây cha và mẹ có giao hợp và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các tỳ khưu, khi nào cha mẹ có giao hợp và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền có ba sự hòa hợp như vậy, bào thai mới thành hình. Rồi này các tỳ khưu, người mẹ trong chín hay mười tháng mang bào thai ấy, với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Rồi này các tỳ khưu, sau chín hay mười tháng, người mẹ sinh đẻ, với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Khi đã sinh, người mẹ nuôi (hài nhi ấy) với máu của mình. Này các tỳ khưu, trong luật của bậc thánh, sữa của người mẹ được xem là máu. Này các tỳ khưu, đứa trẻ ấy, sau khi lớn lên, sau khi các căn đã thuần thục, chơi với những trò chơi dành cho các trẻ như như với cái cày nhỏ, chơi đánh khăng chơi nhảy lộn nhào, chơi chong chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ. Này các tỳ khưu, đứa trẻ sau khi lớn lên, sau khi các căn được thuần thục, thụ hưởng đầy đủ năm món dục lạc, các sắc do nhãn nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, khích thích lòng dục, các tiếng do tai nhận thức… các hướng do mũi nhận thức… các vị do lưỡi nhận thức… các xúc do thân cảm xúc, các xúc này là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, khích thích lòng dục.

Khi nó thấy sắc với mắt, nó tham ái đối với hảo sắc, nó ghét bỏ đối với ố sắc, nó sống niệm không an trụ trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Nó không như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của nó được trừ diệt một cách hoàn toàn. Như vậy, đối với thân sơ (thuận nghịch) nó cảm thụ, nào khởi lên lạc thụ, khổ thụ, hay bất khổ bất lạc thụ, nó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trược thụ ấy. Vì tùy hỷ, hoan nghênh, tham trược, cảm thụ ấy, nên hoan hỷ sinh. Có tâm hoan hỷ đối với những cảm thụ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ, hữu sinh, do duyên hữu, sinh sinh khởi. Do duyên sinh, lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não, sinh. Như thế là sự tập khởI của toàn bộ khổ uẩn vậy. Khi nó nghe tiếng với tai…. (như trên)… khi nó ngửi hương với mũi…(như trên)…khi nó nếm vị với lưỡi…(như trên) khi nó cảm xúc với thân… (như trên )… khi nó nhận thức pháp với ý, nó tham ái đối với hảo pháp, nó ghét bỏ đối với ố pháp. Nó sống niệm không an trụ trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Nó không như thật biết đến tâm giải thoát, tụê hiải thoát, chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của nó được trừ diệt một cách hoàn toàn. Như vậy đối diện với thân sơ (thuận, nghịch), nó cảm thụ nào khởi lên lạc thụ, khổ thụ, hay bất khổ lạc thụ, nó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trược cảm thụ ấy, nên hoan hỷ sinh. Có tâm hoan hỷ đối với những cảm thụ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ, hữu sinh. Do duyên hữu, sinh sinh khởi. Do duyên sinh, lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.”

Danh sắc một chi quả thứ hai thuộc đời hiện đại.

5. LỤC NHẬP (Sadàyatanam): một khi “sự sống đã được nảy nở tồn tại (kết thai) thì 6 quang năng tức sáu căn thành hình (bào thai)”.

Trong khi DanhSắc kết hợp tạo nên thân thể con người – một con người hoàn toàn sống động.

6 quan năng là:

1- Mắt (Caksurindriyam): nhãn căn.

2- Tai (Srotrendriyam): nhĩ căn.

3- Mũi (Ghrànendriyam): tỷ căn.

4- Lưỡi (Jihvendriyam): thiệt căn.

5- Thân (Kày yendriyam): thân căn.

6- Ý (Manadriyam): ý căn.

Đối tượng và giao tiếp với 6 trần:

1- Sắc: Rùpam (những hiện tượng có hình sắc)

2- Thanh: Sabdah (các âm thanh)

3- Hương: Gandhah (mùi thơm)

4-  Vị: Rusah (chất chua, cay…)

5-  Xúc: Sprastavyam (sự va chạm giữa thân thể và vật cảnh)

6- Pháp:  Drarmas (những tư tưởng về quá khứ, hiện tại, vị lai)



(… “do duyên thức sinh, và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Do duyên mắt và các sắc, thức sinh; và thức ấy có tên là nhãn thức. Do duyên tai và tiếng, thức sinh; và thức ấy có tên là nhĩ thức. Do duyên mũi và các hương, thức sinh; và thức ấy có tên là tỷ thức. Do duyên lưỡi và các vị, thức sinh; và thức ấy có tên là thiệt thức. Do duyên thân và các xúc, thức sinh; và thức ấy gọi là thân thức. Do duyên ý và pháp, thức sinh; và thức ấy có tên là ý thức”)

– Mahatanhàsankhàya suttam XXXVIII – Ái Tập Đại Kinh, trang 259A.

Và vì có sự tương hợp của quan năng với cảnh trần nên liên hệ tới sự xúc động (xúc giác).

Lục Nhập, một chi quả thứ ba thuộc đời hiện tại.

6. XÚC (Sparsah): Cảm trạng. Sự tiếp xúc của 6 quan năng đối với cảnh vật. Sau khi đứa bé đã sinh, độ 1, 2 tuổi, sáu căn non nớt va chạm với sáu trần tạo nên cảm xúc, như: đói nó biết tìm vú mẹ để bú, lạnh biết núp vào lòng mẹ, nhưng chỉ là làm theo tính bản năng chứ chưa nhận biết: vui, buồn, tốt, xấu, v.v… vì chưa đủ lý trí để phân biệt, nhận lĩnh, cảm thụ một cách rõ ràng.



Xúc, một chi quả thứ tư thuộc đời hiện tại.

7. THỤ (Vedanà): Cảm giác, lĩnh thụ. Khoảng từ 3, 4 tuổi đến 12, 13 tuổi là thời kỳ con người bước qua một giai đoạn khác. Con người đã biết nhận thức trước mọi cảnh: thuận, nghịch, những vật gì vừa ý muốn thì sinh lòng lĩnh thụ, trìu mến. Vật, trái với ý muốn mình thì ghét, bỏ… Vì thế, có sự vui, buồn, yêu thương, ghen ghét, đam mê, giận dữ v.v..



Thụ, một chi quá thứ năm thuộc đời hiện tại.

(Nghiệp nhân quá khứ là Vô MinhHành do mình đã tạo đời này, nó kết thành 5 quả chín: Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, XúcThụ để báo đáp lại 2 nhân kia (Vô Minh, Hành), Nên 5 chi này cũng gọi là quá hiện tại).

8. ÁI (Trsnà): Tình yêu, do ý thức nhận được liền nảy sinh tư tưởng ưa thích (quen nết), Từ 14, 15 tuổi đến 18, 19 tuổi, thân thể con người mỗi ngày một nở nang, thường gọi là  “tuổi dậy thì”, nên sự ham thích cũng rất bồng bột, đã biết nhìn cái đẹp thiên nhiên, và yêu tha thiết những gì liên quan tới đời sống hàng ngày, nên sinh lòng đắm đuối trong năm món dục lạc gần như cuồng loạn; khoảng thời gian 7, 8 năm – từ 13 đến 19 tuổi – con người đã cảm thụ biết bao cảnh tốt, xấu , vui, buồn, thương yêu, ghét, muốn… tạo thành một tư tưởng hổn tạp. Cái gì không hợp với mình thì chán, ghét, cái gì hợp thì yêu mến, chiều chuộng, vì thế, dưới Ái liên quan đến Thú.



Ái, một chi nhân thứ nhất thuộc đời hiện tại.

9. THỦ (Upâdànam): Từ 20 tuổi trở đi, ái dục càng mạnh, sáu căn càng phóng túng chạy theo sáu trần. Thú, nghĩa là lấy, mong lấy, giữ lấy. Tôi thích cái hoa, khi được cái hoa thì tôi giữ lấy. Những cái gì đã yêu thích (lẽ tất nhiên) phải tìm lấy cho được. Trong các thứ lấy ấy cũng có việc lành việc dữ để thỏa nguyện vọng nhu cầu. Vì trong đời hiện tại đã gây nhân, hoạt động các việc thiệnác nên đời sau phải chịu quả báo. Do đó, dưới ThúHữu.



Thú, một chi nhân thứ hai thuộc đời hiện tại.

10. HỮU (Bhavah): Bởi có ÁiThủ nên mới có Hữu. Hữu là có (cũng có nghĩa là cõi). Nhưng có cái gì? – Có nhân tất có quả: có sinh, già, ốm, chết…, tùy theo nhân quả, hành vi thiện hoặc ác của mỗi người đã gây nhân trong đời hiện tại, tất nhiên mai sau sẽ hái quả tốt hay xấu… Vì có ham muốn ắt phải nhận lấy quả báo mà kết sinh tương tục trong 3 cõi  (Dục giới – Kàmadhàtuh, Sắc giới – Rupadhàtuh, Vô sắc giới – Arùdhàtuh), 6 đường  (Trời, Người, A Tu La, Địa Ngục, Ngã Quỷ, Súc Sinh). Bởi vậy dưới Hữu Sinh.



Hữu, một chi nhân thứ ba và cũng là nhân cuối chót thuộc đời hiện tại.

(Trong khi ta đang mang nơi mình 5 chi: Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thụ, (quả hiện tại) đã lại tạo luôn cho 3 chi: Ái Thủ, Hữu (nhân hiện tại) -, để rồi một thời gian sau phải hái lấy quả báo: SinhLão tửvị lai).

11. SINH (Jàtih): Sinh mệnh con người có hai phần (tâmsắc): gồm sinh lực, thể chất và tinh thần, sống còn trong khoảng thời gian dài, ngắn… đều do Hành Nghiệp quyết định. Vì Ái, Thủ, HữuSinh vào kiếp khác (nhân quả về sau trong các cõi thụ sinh). Sinh, nghĩa là  “sống”, chỉ cho máu chạy, tim đập, ý nghĩ, trí biết của mỗi sinh vật do đời trước gây nhân lành hay dữ, tất nhiên Nghiệp Thức của mỗi loài đã tạo ra nó sẽ phản ảnh lại:

– Tư tưởng hành vi của con người “thiện” sẽ tạo cho xã hội những hoàn cảnh đẹp.

– Tư tưởng hành vi của con người  “ác” sẽ tạo cho xã hội những ảnh hưởng xấu.

Xã hội loài người tùy Nghiệp của mình đã tạo ra và luôn luôn chuyển biến, huân tập lấy chủng tử (Bijà) (hạt giống của mỗi vật thể có công năng sinh khởi ra nghiệp quả) để khi gặp cơ duyên thuận tiện sẽ phát khởi hiện hành  (những hình tướng hiện thực và hành động). Ví dụ. – A quen thân với B là do trước kia sẵn có nhân duyên với nhau. Nhưng ít lâu sau A không đủ hoàn cảnh sinh sống với B; nên A đã đi làm ăn nơi khác (nghĩa là, khi A chết sẽ thai sinh ở một kiếp nào khác…), Không bao lâu B cũng bị túng thiếu không thể ở quê hương được nữa; B lại không quen ai hơn A – hai người rất có thiện cảm, đã từng chung sống và giúp đỡ nhau khi trước -, do đó B quyết định tìm đến chỗ A để nhờ vả (nghĩa là, B đã chết khi nghiệp thức đi đầu thai sẽ tìm đến chỗ nào, nơi nào… mà mình đã gây nhân duyên hợp với tâm lý, tình cảm và tập quán của một quá trình sống…

Trong vũ trụ có hằng hà sa số thế giới có những chủng loại y báo, chính báo khác nhau, nhưng cùng chịu chung một định luật: Thành, Trụ, Hoại, Không. Nghĩa là từ khi thế giới sơ thành tới khi tàn lụi (không còn là thế giới nữa); trong bốn thời kỳ dài dặc ấy tính có hằng bao nhiêu triệu triệu năm…

Gần đây, nhà bác học William THOMPSON (1824 – 1907) đã có những giả tưởng: “Sinh vật đầu tiên có trên địa cầu là do những sinh vật khác từ một vài tinh tú chuyển sang…

Theo luật “thành, trụ, hoại, không” thì con người đã trải qua bao nhiêu hưng vong, thay đổi, lớp này chết lớp khác sinh, sinh sinh hóa hóa mãi như thế, bây giờ làm sao tìm được cái dấu tích mà ta gọi là “con người nguyên thủy – dù các nhà nhân chủng học có cố nghiên cứu, tìm tòi mấy đi nữa cũng chỉ chứng minh cho lớp người về một thời gian nào đó mà thôi. Hiểu được định lý ấy rồi, ta mới không lấy làm lạ về những sự xảy ra trong lịch sử, hay những điều phát minh mới lạ mà người ta cho là thần thánh, thực ra không mấy quan tâm. Và cũng chẳng có gì đáng làm cho ta phải ngạc nhiên kinh hoảng?!

Sinh, một chi quả thứ nhất thuộc về vị lai.

12. LÃO TỬ (Jaràmaranam): cuối cùng đưa đến sự già, chết, khi thân thể con người đã suy yếu: một ngày nào đó sức lực đã kiệt vì già, ốm, tất nhiên con người phải chết. Vì chết nên phải lo âu, đã lo âu tất sinh ra khổ não… và cứ thế theo công lệ nhân quả luân hồi do mình đã tạo. Nhưng có điều ta nên nhớ: Chết chỉ có nghĩa thay đổi hình tướng – từ hình tướng này chuyển sang một hình tướng khác – Thực ra, nghiệp thức con người chẳng mất đi đâu; khác nào như luồng điện sẽ qui về bản chất của nó – người chết – đến khi đủ nhân duyên, điện sẽ trở lại sáng – con người tái sinh -.

Sự sống và sự chết của người ta cũng như buổi hoàng hôn rồi dần lại tiếp buổi bình minh…

Vậy sống – chết là định luật tất nhiên. Có sinh phải có diệt. Tất cả hiện tượng trong trời đất cũng phải theo định luật ấy. Ta tạm lấy một ví dụ để chứng minh: Anh A là người – Tất nhiên anh A phải có lúc chết – Vì, có sinh phải có diệt.



Lão tử, một chi quả thứ hai thuộc đời vị lai.

Mười Hai Nhân Duyên theo định luật nhân quả ba đời: Vô Minh, Hành, hai chi nhân thuộc quá khứ để chiêu cảm năm chi quả hiện tại: Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thụ rồi do năm chi quả này khởi niệm ra: Ái, Thủ, Hữu làm nhân ở đời hiện tại. Và do ba nhân kia (Ái, Thủ, Hữu) chiêu cảm mà có hai chi quả: Sinh, Lão Tử thuộc đời vị lai.



Quả tạo ra Nhân, Nhân cảm thành Quả, ba đời nối tiếp nhau không bao giờ gián đoạn, như bánh xe xoay lăn, cho nên gọi là luân hồi. Để giải thích về luân hồi  (Samsàra), trong kinh Milindapanhà có ghi cuộc đối thoại giữa đức vua Milinda và thánh giả Nagasena như sau:

– “Thưa đại vương, nếu có người thắp một ngọn đèn, ngọn đèn ấy có thể cháy suốt đêm được không?

– Bạch Ngài, ngọn đèn có thể cháy đến sáng.

– Vậy ngọn đèn lúc canh một có phải chính là ngọn đèn lúc canh hai?

– Bạch Ngài, không.

– Ngọn đèn lúc canh hai với ngọn đèn lúc canh ba có phải cũng là một không?

– Bạch Ngài cũng không phải.

– Vậy thì, canh một có một ngọn đèn, canh hai có một ngọn đèn khác, và canh ba, một ngọn đèn nữa không?

– Bạch Ngài không phải thế, ánh sáng suốt đêm chỉ là do một cây đèn tỏa ra mà thôi.

– Thưa đại vương, sự cảm giác bất biến ở một con người hay ở một chúng sinh khác cũng như thế. Con người phút này sinh thì con người phút khác diệt, nhưng con người ở phút sau không phải con người ở phút trước, nhưng cũng không phải khác với con người ở phút trước.” (phi nhất phi dị)

Mười Hai Nhân Duyên theo vòng tròn tượng trưng bằng bánh xe nhân quả tương quan, như đồ biểu trang bên:

Dưới hình thức 12 nhân duyên còn có bộ ba: Hoặc – Nghiệp – Khổ



Ví dụ: Anh B say rượu (Hoặc) ra đường gây chuyện đánh nhau với anh C (Nghiệp). Sau, anh C đem chuyện này trình nhà chức trách, anh B bị đòi hầu tòa về tội đánh người trái phép và bị xử phạt, ở tù, khổ sở (Khổ).

Sở dĩ chúng sinh vẫn mãi bị khổ đau, phiền não, sinh tử là do Vô Minh, mê tối, nên mới tạo Nghiệp vọng đọng (Hành, Thức) mà có thân ngũ uẩn (Danh, Sắc) rồi sáu căn (mắt, tai mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) (Lục Nhập) sinh cảm giác, lĩnh thụ (Thụ) thì nảy sinh lòng ham muốn, ưa thích (Ái), rồi ham muốn chấp giữ, tạo thành thói quen (Thủ) . Vì đã gây nhân tham ái phải nhận lấy quả báo (Hữu). Do có Ái, Thủ, Hữu sẽ phải sinh ra trong đời sau (Sinh) và tiếp tục nhận chịu những cảnh khổ, già và chết (Lão Tử).

Muốn thoát luân hồi sinh tử thì ta phải đi ngược lại mười hai nhân duyên. Nhưng làm thế nào để diệt. Vô minh và đoạn Sinh tử? – Không gây tội lỗi tức là diệt lòng tham ái, sân hận, si mê và tu theo Giới, Định, Tuệ. Vì biết rằng: tất cả sự vật đều do nhân duyên giả hợp tạo thành, nên không thực –  đã không thực thì “tội lỗi mê vọng” cũng không có chỗ để tồn tại, tức Vô Minh hết; không khởi động Ái, Thủ, Hữu, thì trong cõi sinh tử đều đoạn. Vô Minh diệt thì Hành diệt cho đến Lão Tử, ưu bi, khổ não cũng bị diệt. Có như thế cuộc sống của con người (ở cõi đời này và đời sau) mới vơi được nguồn đau khổ, và được an lạc, tự tại, giải thoát.

Tìm hiểu thêm

Sự cấu tạo hình thể con người và vạn hữu, theo thuyết lý Mười Hai Nhân Duyên, ở đây, tôi lược dẫn một đoạn trong bộ Kinh MAJJHIMA NIKAYA, tập 1: Ái Tập Đại   Kinh (Mahàtanhãsankhàyasuttam XXXVIII):



“…Này các tỳ khưu, Ái lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Ái lấy thụ làm nhân duyên, lấy thụ làm tập khởi, lấy thụ làm sinh chủng, lấy thụ làm nguyên nhân. Này các tỳ khưu, Thụ lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thụ lấy xúc làm nhân duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm sinh chủng, lấy xúc làm nguyên nhân. Này các tỳ khưu, xúc lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Xúc lấy lục nhập làm nhân duyên, lấy lục nhập làm tập khởi, lấy lục nhập làm sinh chủng, lấy lục nhập làm nguyên nhân. Này các tỳ khưu, Danh sắc lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Danh sắc lấy thức làm nhân duyên, lấy thức làm tập khởi, lấy thức làm sinh chủng, lấy thức làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu, thức lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập thể, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thức lấy hành làm nhân duyên, lấy hành làm tập khởi, lấy hành làm sinh chủng, lấy hành làm nguyên nhân. Này các tỳ khưu, Hành lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Các Hành lấy vô minh làm nhân duyên, lấy vô minh làm tập khởi, lấy vô minh làm sinh chủng, lấy vô minh làm nguyên nhân. Như vậy, này các tỳ khưu, vô minh duyên hành, Hành duyên thức, Thức duyên danh sắc, Danh Sắc duyên lục nhập, Lục nhập duyên xúc, Xúc duyên thụ, Thụ duyên ái, Ái duyên thủ, Thủ duyên hữu, Hữu duyên sinh, Sinh duyên Lão Tử, sầu, bi, khổ, ưu, não hiện hữu. Đó là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn vậy.

Trước đã nói: “Sinh duyên lão tử” (do duyên sinh nên lão tử hiện khởi). Này các tỳ khưu, sinh duyên lão tử có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, sinh duyên lão tử. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là thế: “Sinh duyên lão tử”. – Trước đã nói, “Hữu duyên sinh”. Này các tỳ khưu, hữu duyên sinh có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, hữu duyên sinh. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là thế: “Hữu duyên sinh” – Trước đã nói, “Thủ duyên sinh”. Này các tỳ khưu, thủ duyên hữu có phải vậy không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, thủ duyên hữu. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Thủ duyên hữu” – Trước đã nói, “Ái duyên thủ”. Này các tỳ khưu, ái duyên thủ có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, ái duyên thủ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là thế: “Ái duyên thủ – Trước đã nói, “Thụ duyên ái”. Này các tỳ khưu, thụ duyên ái có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn thụ duyên ái. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Thụ duyên ái” – Trước đã nói, “Xúc duyên thụ”. Này các tỳ khưu, xúc duyên thụ có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, xúc duyên thụ. Như vậy đối với chúng con (nghĩạ) ở đây là thế: “Xúc duyên thụ” – Trước đã nói: “Lục nhập duyên xúc”. Này các tỳ khưu, lục nhập duyên xúc phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, Lục nhập duyên xúc. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Lục nhập duyên xúc” – Trước đã nói: “Danh sắc duyên lục nhập”. Này các tỳ khưu, danh sắc duyên lục nhập có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? Bạch Thế Tôn, danh sắc duyên lục nhập. Như vậy, đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Danh sắc duyên lục nhập” – Trước đã nói: “Thức duyên danh sắc”. Này các tỳ khưu, thức duyên danh sắc có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, Thức duyên danh sắc. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Thức duyên danh sắc” – Trước đã nói: “Hành duyên thức”. Này các tỳ khưu, hành duyên thức có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, hành duyên thức. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Hành duyên thức” – Trước đã nói: “Vô minh duyên hành”. Này các tỳ khưu, vô minh duyên hành có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? Bạch Thế Tôn, Vô minh duyên hành. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Vô minh duyên hành”.



Lành thay, này các tỳ khưu. Các người nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: “Cái này có tên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh, như vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thụ, thụ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não cùng sinh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Do vô minh đoạn diệt xả ly một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do các hành diệt nên lục nhập diệt. Do lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thụ diệt. Do thụ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sinh diệt. Do sinh diệt nên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậylà sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.

“Trước đã nói : “Do sinh diệt nên lão tử diệt”. Này các tỳ khưu, do sinh diệt nên lão tử diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?”  – Bạch Thế Tôn, do sinh diệt nên lão tử diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Do sinh diệt nên lão tử diệt” – Trước đã nói: “Do hữu diệt nên sinh diệt”. Này các tỳ khưu, do hữu diệt nên sinh diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, do hữu diệt nên sinh diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Do hữu diệt nên sinh diệt” – Trước đã nói: “Do thủ diệt nên hữu diệt”. Này các tỳ khưu, do thủ diệt nên hữu diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, do thủ diệt nên hữu diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây thế nào: “Do thủ diệt nên hữu diệt” – Trước đã nói: “Do ái diệt nên thụ diệt”. Này các tỳ khưu, do ái diệt nên thụ diệt có phải không?. Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, do ái diệt nên thụ diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Do ái diệt nên thụ diệt” – Trước đã nói, “Do thụ diệt nên ái diệt”. Này các tỳ khưu, do thụ diệt nên ái diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, do thụ diệt nên ái diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Do thụ diệt nên ái diệt” Trước đã nói: “Do xúc diệt nên thụ diệt”. Này các tỳ khưu, do xúc diệt nên thụ diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế tôn, do xúc diệt nên thụ diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Do xúc diệt nên thụ diệt” – Trước đã nói: “Do lục nhập diệt nên xúc diệt”. Này các tỳ khưu, do lục nhập diệt nên xúc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế tôn, do lục nhập diệt nên xúc diệt. Như vậy, đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Do lục nhập diệt nên xúc diệt” – Trước đã nói: “Do danh sắc diệt nên lục nhập diệt”. Này các tỳ khưu, do danh sắc diệt nên lục nhập diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, do danh sắc diệt nên lục nhập diệt. Như vậy đối với chúng (nghĩa) ở đây là thế: “Do danh sắc diệt nên lục nhập diệt”. – Trước đã nói. “Do thức diệt nên danh sắc diệt”. Này các tỳ khưu, do thức diệt nên danh sắc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế tôn, do thức diệt nên danh sắc diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩạ) ở đây là thế: “Do thức diệt nên danh sắc diệt”. – Trước đã nói: “Do hành diệt nên thức diệt”. Này các tỳ khưu, do hành diệt nên danh sắc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, do hành diệt nên thức diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là  như  thế : “Do hành diệt nên thức diệt”. – Trước đã  nói: “Do do vô minh diệt nên hành diệt”. Này các tỳ khưu, do vô minh diệt nên hành diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Bạch Thế Tôn, do vô minh diệt nên hành diệt”. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Do vô minh diệt nên hành diệt”. Lành thay này các tỳ khưu, các người nói như vậy Ta cũng nói như vậy: “Cái này không có nên cái kia không có; cái này diệt nên cái kia diệt, như vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập, lục nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thụ diệt, thụ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên lão tử, sầu bi khổ ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của  “toàn bộ khổ uẩn này”.

Này các tỳ khưu, các người biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo lời quá khứ, và suy nghĩ: “Ta có mặt trong thời quá khứ hay không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta có mặt trong thời quá khứ?” – “Thưa không, bạch Thế tôn” – Này các tỳ khưu, các người biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời vị lai hay ta không có mặt trong thời vị lai. Ta có mặt trong thời vị lai như thế nào “Ta có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn” – Này các tỳ khưu, các người biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có nghi ngờ gì về mình trong thời hiện tại: “Ta có mặt hay không có mặt. Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Hữu tình hay từ đâu đến? Và rồi sẽ đi về đâu?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.” – Này các tỳ khưu, các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có nói như sau: “Bậc Đạo Sư quá nặng nề đối với chúng ta. Chúng ta nói vì chúng ta tôn trọng bậc Đạo Sư” – “Thưa không, bạch Thế Tôn” – Này các tỳ khưu, các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có nói như sau: “Một Sa Môn nói với chúng tôi như vậy, và còn chúng tôi không nói như vậy (?)” – “Thưa không, bạch Thế Tôn” – Này các tỳ khưu, các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có tìm một vị Đạo Sư khác không? – “Thưa không, bạch Thế Tôn.” “Này các tỳ khưu, các người biết như vậy, các người có trở lui lại cái giới cấm, ế tự (?) đàn tràng của các tục tử Sa Môn, Bà La Môn (và nghĩ rằng) chúng ta là căn bản không? – “Thưa không, bạch Thế Tôn” – Này các tỳ khưu, có phải các người chỉ nói những gì các người tự biết, yự thấy, tự ý thức được? –  “Thưa vâng, bạch Thế Tôn” – Lành thay, này các tỳ khưu, các người đã được ta giới thiệu Chính Pháp, Pháp này tự chứng hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thuợng, được người trí tự thân giác hiểu. Này các tỳ khưu, Pháp này tự chứng hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu. “Tất cả những gì đã nói là do duyên này mà nói”.
2. Giải Quyết Vấn Đề Sống, Một Mục Đích …

Dưới con mắt đạo Phật, ta thấy hai sự thật:

Thế Giới Là Vô Thường (anicca).

 Chúng Sinh Là Vô Ngã (Anattà).

Theo nhận định trên, đó là biến tướng của Mười   Hai  Nhân  Duyên (Dvàdasàngahpratityasamutpàdah) kết sinh tương tục, nên cuộc sống con người cũng chuyển dịch, biến hóa không ngừng, nếu con người không sớm giác ngộ cứ mãi sống triền miên trong mê vọng. Với tuổi thanh niên bồng bột, can đảm, đầy dục vọng, nếu người ta chỉ nhìn hạnh phúc không ngoài cơm, áo, nhà ở, sắc đẹp, tiền tài, danh vọng, chơi bời cho phung phí, thu hẹp đời mình trong gang tấc, đến khi tuổi già sức kiệt, tinh thần uể oải, nhìn đời với cặp mắt yếm thế, bi quan, lãng mạn, buồn thảm… trông về trước, than ôi! “thời oanh liệt nay còn đâu?”; ngó lại sau, thấy toàn là đổ vỡ, sống không mục đích, không lý tưởng hướng dẫn, nên dễ bị cảnh vật cuốn lôi, thì nảy sinh tư tưởng tiêu cực hoài nghi…, chỉ còn chờ ngày xuôi tay, tắt hơi thở. Do đó, đã sinh ra quan niệm cho rằng con người chết rồi thì hết, nên lúc sinh thời, họ ăn chơi trác táng!. Ngược lại, có thuyết lại nói: Con người chết, nhưng  “linh hồn” bất tử, và sẽ trở về chốn âm phủ. Ở đấy người ta sẽ được gặp lại bà con thân quyến…

(Những quan niệm như trên đều là sai cả. Theo đạo Phật, thì đó gọi là  “tà kiến” hay “biên kiến” vậy).

Nếu cuộc sống con người chỉ quan niệm trong bấy nhiêu sự kiện, ăn mặc, ở và chơi bời phóng đãng, thử hỏi còn có nghĩa lý gì?! Nhưng, về một phương diện khác, cho ta thấy, con người nếu biết thức tỉnh, biết  phụng sự cho một lý tưởng cao đẹp, biết quay  lại với mình – một ý nghĩa chân thật ngườI -, sống nhịp với bản thể vũ trụ bao la… Nghĩa là, chỉ khi nào người ta có được một quan niệm rộng rãi mới nhìn ra cuộc sống cao đẹp thường ẩn trong lòng sự vật và tràn đầy hy vọng vô biên …thì đó mới thực sự được gọi là cuộc sống có ý nghĩa. Thật ra, cuộc sống con người không phải chỉ đóng khuôn trong bảy, tám chục năm hay trong một đời, một kiếp; mà là vô hạn – Chết chỉ có nghĩa để lai sinh. Trong cuộc tiến hóa mình làm mình chịu. Hể có nhân là có quả. Chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội tốt nào. Hãy phấn đấu không ngừng. Phấn đấu để thắng dục vọng, thực chứng sự, lý giải thoát. Để khỏi phụ một đời làm người vậy.

Với tinh thần vô ngã, vị tha, đạo Phật khuyên con người đừng bao giờ trốn tránh cuộc đời để tìm nguồn phúc lợi cho riêng mình. Vì như vậy chỉ là ích kỷ, tạo cho mình một cuộc sống lẽ loi… Đừng tìm chân lý ở đâu xa lạ. Chân lý ở ngay chung quanh ta. Tất cả sự sống, cách sống, lẽ sống, khuôn mẫu sống vẫn tiềm ẩn trong cuộc đời và đều bắt nguồn từ con người = Con người là sáng tạo. Tất cả… đều do con người đặt định mà có. Cho nên cuộc sống con người có được tốt đẹp hay không trách nhiệm trước sau vẫn do con người tự quyết định lấy.

Để điều hòa cuộc sống, điều kiện trước hết là cải hóa con người, là sự quân bình hóa giữa hai phương diện “vật chất” và “tinh thần”. Có vậy, cuộc sống của con người mới hoàn hảo và tiến ích.

Về Sự Sống Vật Chất

Những sản vật thiên nhiên là cái kho vô tận sẵn có cho con người khai thác, phát triển nguồn lợi để cung phụng đời sống được dồi dào, tốt đẹp hơn. Thuở xưa, khi loài người còn sống từng bộ lạc, năm mười người qui tụ ở một khu rừng, trên một mảnh đất hoang vu, họ sinh kế bằng những nghề chài lưới, đốn củi, săn thú, đói đã có hoa quả, chim muông, rét lấy lá cây che thân. Khi không muốn ở khu rừng này họ chuyển đi nơi khác. Sự sống thật giản dị. Về sau, loài người ngày càng sinh sản nhiều, thấy không thể sống đơn độc cô quạnh, họ rủ nhau về những miền đồng bằng và lập thành từng làng, có gia đình riêng. Cuộc sống hàng ngày càng thêm phức tạp: mỗi người đã biết dành dụm, giữ gìn của cải của mình; từ chế độ du mục chuyển sang chế độ tập quyền. Họ thấy cần phải thay đổi nghề nghiệp, lối sống như làm ruộng, trồng dâu, nuôi tầm, kéo kén để lấy tơ v.v.. Tùy thời tiến hóa, ngày nay nhân loại đã tổ chức thành xã hội có qui củ, lớn mạnh. Và như ta thấy, những thiết dụng cần cho đời sống hàng ngày của con người: không ngoài giải quyết vấn đề cơm, áo, nhà ở cùng những nhu cầu của một xã hội văn minh.

Con người muốn đạt được những mục tiêu, trước hết, mỗi người phải biết hạn chế lòng tham, tình ích kỷ hẹp hòi – chúng tôi chưa muốn dùng hai chữ trừ diệt, vì e rằng có quá lý tưởng chăng – chỉ biết nghĩ đến quyền lợi cho mình, cho đoàn thể mình, bỏ quên quyền lợi của tha nhân, của tập thể khác, do đó (mà) mọi mâu thuẫn phát sinh khiến cho cuộc đời đã rối loạn lại càng loạn thêm và chẳng bao giờ xã hội loài người được yên cả.

… Tất cả sự vật hiện hữu trên cỏi đời này đều quan hệ lẫn nhau, một người nghèo khó có ảnh hưởng đến kẻ giàu sang: làm cho mọi người an vui tức là mình được sung sướng. Với quan niệm rộng rãi ấy, đạo Phật khuyên con người đừng bao giờ chấp giữ một cái gì gọi theo từ ngữ Phật học là, “chấp ngã và chấp pháp”. Tại sao ta lại chấp  “cái này” là của tôi, “cái kia” thuộc về tôi? Vì chấp mà phát sinh lòng tham lam, giận dữ, si mê. Sự thật thì tất cả sự vật hiện hữu ở đời đều huyễn hóa, vô thường, vô ngã. Khi ta đã hiểu như thế rồi, thì tự nhiên lòng mình thanh thản, chẳng còn chấp có mình, chấp có người. Ta thấy ta và vũ trụ vạn hữu đều hòa nhập trong cùng một. Nguồn Sống Bản Thể Vô Biên và rất tương quan mật thiết với nhau, do đó con người sẵn sàng “cho” – xin hiểu chữ cho theo nghĩa rộng – và cho với cả tấm lòng thành kính, tức là ta biết cách hành động hữu ích cho người, cho đời với hoài bão hàn gắng những vết thương đau rữa nát của xã hội người. Vậy “Cho” không có nghĩa là  “thí bỏ cho kẻ khó” bằng đồng tiền, chén cơm, manh quần, tấm áo rồi khinh miệt, hắt hủi họ. “Cho” chỉ có nghĩa là san sẽ, giúp đỡ lẫn nhau – trong lúc mình có mà tha nhân không có – Người nào chẳng có lúc thiếu thốn (!). Vì giúp người tức là mình làm cho mình vậy. Và mọi người trong xã hội loài người lúc ấy sẽ kết tụ toàn bằng những tinh hoa: khôn, sáng, thật, vui, đẹp, và với lòng yêu thương rộng mở, con người ngắm nhìn vũ trụ thiên nhiên là kho tài nguyên vô tận tha hồ dùng vào công cuộc phát triển đã sống, để tiến hóa không ngừng…

Về Sự Sống Tinh Thần

Cuộc sống về vật chất tuy đã ổn định, song về mặt tinh thần con người cũng cần phải có thì cuộc sống mới thật hoàn hảo. Mà muốn vậy, con người phải siêng năng trau dồi học thức để mở mang trí tuệ, phát triển tài năng; để sống khác với loài muôn thú. Nếu không cuộc sống con người sẽ quá ư mộc mạc chẳng còn có nghĩa lý gì! Cây giác ngộ chỉ mọc ở đám đất đau khổ. Tinh thần được triển khai là do trí tuệ, một động lực vốn là kết quả của sự suy tư mà có. Các nghành văn chương, nghệ thuật, khoa học, triết học, đạo đức học là những môn bổ ích cho tinh thần, giúp cuộc sống con người thêm tốt đẹp và có ý nghĩa hơn. Con người muốn làm chủ cuộc sống thì tự thân phải biết rèn luyện tâm thức sao cho mỗi ngày thêm mở mang, phát đạt. Hãy tỏ ra mình là người – một nhân phẩm cao thượng -, có đầy đủ đức tính: thành thật, lịch sự, đức hạnh, tài năng, can đảm và hết lòng… “Học” chỉ là tri thức; điều cần yếu phải có “Hạnh” mới gọi được là “chân thức”. Học vấn mà không lương tâm, không đức hạnh thì cái học ấy có khác gì bông hoa tuy có sắc mà thiếu hương thơm . Học vấnđức hạnh cả hai là những vật trang sức cho con người thêm tươi đẹp. Trí tuệ, tài năng chỉ có thể thành đạt đối với những ai biết thuận theo Lẽ Phải, tôn trọng Sự Thật (chân lý), và người đức hạnh thì không bao giờ chỉ biết có mình, không bao giờ làm hại tha nhân, không bao giờ lợi dụng lòng tốt của bất cứ ai. Xã hội hiện tại chẳng thiếu gì những phần tử trá hình, giả nhân nghĩa, giả đạo đức, bề ngoài dáng vẽ đẹp đẻ, nhưng trong tâm địa thì lại xấu xa, độc ác; họ là những con vật mang hình ảnh nhân dạng. Đừng thấy đỏ ngỡ chín. Muốn hiểu con người có chân đạo đức hay không, ta cần phải gần họ, sống bên họ, để hiểu họ. Ta không thể nhẹ dạ đặt tin tưởng một cách dể dãi vào bất cứ một ai, nếu ta chưa hiểu rõ người ấy, để khỏi mang lấy hối hận về sau. Nói tóm, sự sống về tinh thần gồm có hai mặt học vấnđức hạnh. Tuy nhiên, ngoài các môn học ngoài đời như về triết học, khoa học v.v.. ta còn cần có học Phật, mới mong đạt tới đích giác ngộgiải thoát toàn triệt. Đấy là những đảm bảo tốt đẹp cho cuộc sống của con người, ở hiện tại và tương lai.

 “Hãy tinh tiến để tự giải thoát!”


3. Giá Trị Con Người

Đạo Phật với nguồn giáo lý cao diệu, bao hàm về cả ba phương diện: tình cảm, lý trí và hành xử, là đạo lấy CON NGƯỜI (Nhân Bản) làm cứu cánh và đối tượng chính để phục vụ và triển khai, bằng cách dạy cho con người thoát mọi ràng buộc khổ đau mê tối của nhân giới, tâm giới và nhiên giới; đồng thời đặt con người trước trách nhiệm của chính mình: Cuộc đời hay hay dở là do con người  “Tự tác tự thụ”; chẳng có thần thánh nào can thiệp hay thưởng phạt cả. Đức Phật dạy: “Mọi người đều là những vị Phật trong tương lai, vì mọi người đều có Phật tính (Buhhdata) và có khả năng thành Phật”. Con người chỉ cần làm hiển lộ được Phật tính (chân lý) ấy, tức sẽ thành Phật.

Đạo Phật rất gần gủi với con người, và là đạo của con người, của xã hội loài người. Trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka sutra) chép: “Con người là hơn cả, vì có thể thực hiện được mọi sự tốt đẹp ở đời”. Đạo Phật xác quyết rằng: Con người là một trong các sinh động vật, như có tình cảm trong sáng, tư tưởng linh hoạt, hành động quả cảm, mặc dầu con người cũng mang trong mình bao thú tính = dục vọng, lầm lỡ, tội ác…, nhưng nếu xét theo khả năng và giá trị đặc biệt của nó thì, trong tất cả các loài, con người đủ điều kiện trở thành ưu việt . “Hoàn cảnh con người không quá khổ như địa ngục, không quá vui như thiên đường, và không ngu si như các loài thú vật”. Vì vậy, giá trị con người trong đạo Phật bao giờ cũng được đề cao, và được nhìn nhận là một chủng loại có đặc tính vạn năng.

a. Con Người Là Hơn Cả

Trong tất cả các loài, con người là hơn cả. Nhà bác học Pháp Alexis CARREL (giải Nobel 1912) viết trong cuốn L’Homme, cet inconnu =   “…Ta không biết rõ giới hạn của con người trong không gian là chừng nào. Song ta có lý do để tin rằng con người vượt ra ngoài cái xác thân. Hình như mỗi chúng ta lớn rộng hơn cái xác thân này nhiều”. Tuy nhiên, nếu đứng trong phạm vi loài người để nhận xét thì, về phương diện tổ chức cơ thể, con người có đầy đủ đức tướng của bậc trượng phu; Con người có một dáng vóc uy nghiêm, đĩnh đạt; nói năng linh lợi; đi, đứng, nằm, ngồi khoan thai, nhất cử nhất động đều hợp với tư cách đặc thù của nó, không dữ tợn, hình thù không xù xì như các loài muôn thú…; về phương diện sinh hoạt tâm linh, con người vẫn giàu khả năng tính hơn muôn loài – Con người là sáng tạo – Vì, 1. Bản thể con người bản lai sáng suốt; 2. Con người là trung điểm của mọi vấn đề. Mọi vấn đề do con người phát sinh và đều phát sinh vì con người. “Con người là thước đo vạn vật = l’homme est la mesure de toute chose”. Con người với những đức tính như:

Đạo Đức thanh khiết,

Ý chí tự cường, tự lập.

Chỉ bấy nhiêu sự thể đủ nâng cao giá trị và địa vị con người vượt trên và ngoài tất cả. Có những đặc tính ấy con người sẽ dễ dàng tiến hóa trên nấc thang tu chứng, để tự giải phóng mình thoát khỏi mọi tù hãm về tâm lý, tình cảm sâu kín…; đồng thời ý thức rõ được những hoàn cảnh phức tạp bao phủ chung quanh, để tự thắng trong tiến thắng vinh quang.

Trên lý thuyết cũng như trên thực tế, ảnh hưởng của xã hội hôm nay và ngày mai có được tốt đẹp hay không là do con người tự quyết định lấy:

Con người Thiện thì xã hội tốt đẹp;

Con người Ác sẽ tạo cho xã hội xấu xa, đổ nát.

“Đời sống con người vui tươi hay đau khổ, đều do con người tự quyết định và tạo lập lấy” – Mahaparinibbanasutta –

Chúng ta hãy mạnh dạn cải tạo đời sống mình, và cùng đứng cả dậy để tự cứu và cứu lấy giống nòi, cứu nhân loại. Chỉ có con người can đảm mới làm nổi công việc vĩ đại ấy. Công cuộc tự cứu mình và giải thoát đời đòi hỏi nơi con người phải có: đó là tinh thần vô ngã, vị tha, NIETZSCHE, một triết học gia Đức, nổi danh ở hậu bán thế kỷ XIX, đã nói: “Bạn hãy trở thành người, mà bạn phải trở thành”. Nhà đạo học kiêm tư tưởng gia Ấn Độ Swami VIVEKANANDA cũng nói: “Con người cao cả hơn các loài vật, hơn các vị thiên thần. Con người cao quí hơn cả. Ngay đến các vị thiên thần cũng phải giáng sinh làm người mới mong chứng đạo giải thoát. Chỉ có con người mới đạt được sự hoàn toàn giác ngộ”._Con người khôn, sáng hơn các loài vật (Nhân vi vạn vật chí linh).

Giá trị con người quả là siêu việt hơn muôn loài…

b. Nhưng Phải Là Con Người Với Đầy Đủ Ý Nghĩa Của Nó

Đã biết con người là giá trị hơn cả, thì con người đừng bao giờ làm phá sản những khả năng sẵn có, phải luôn luôn nhớ:  ta là người hằng sống trên mặt đất. Ta phải làm một việc gì hữu ích cho đời. Nếu không, cũng đừng bao giờ có ý niệm làm tổn thương đến tính mệnh, tài sản, danh dự của bất cứ ai trên cõi đời này. Không được như vậy, thì dù rằng con người ấy vẫn mang hình thể người, nhưng kỳ thực cái cốt cách trong con người họ đã mất đi tự bao giờ mà không còn là con người nữa. Aldous HUXLEY (1894 – 1963) đã phải thốt lên lời than vãn là: “Người ta xin chúng ta một điều là” “Trở nên người”. Một người mà ta nên nhớ, là không phải thần linh cũng không phải quỉ sứ”.

Đạo Phật rất kính trọng con người và từng khuyên con người hãy tự tiến lên, đừng bao giờ lùi xuống. “Một phen mất thân người, muôn kiếp khó trở lại = Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan phục”. Đáng thương biết bao cho những ai thường giong ruổi chạy theo dục vọng ảo huyền, mê man trong trường danh lợi… tự dắt mình xuống hố sâu vực thẳm, chẳng tìm được lối ra! Khi nào một con người bắt đầu tự khinh mình, thì con đường trụy lạc của họ cũng bắt đầu. Đối với một quốc gia cũng thế. Trách vụ trước tiên là ta đừng tự khinh mình, vì muốn tiến thắng, ta phải tự tin ở ta. Con người là trung điểm của xã hội loài người. Tất cả hoạt động, tác động hiện có trong xã hội đều do con người quyết định. Nếu từ xưa đến nay, con người đều hiểu rằng: “Ta là người. Ta là một phần tử trong xã hội loài người, cũng sinh sống trên trái đất, cùng có một giá trị như nhau, và có sự quan hệ mật thiết với nhau về mọi mặt. Ta phải dạy bảo nhau, giúp đở nhau. Ta đem những tư tưởng sáng kiến của ta tạo thành những khí cụ phá rừng núi, khai khẩn hầm mỏ, điền địa, đem lại nguồn kinh tế sung túc cho xã hội. Ta chế tạo nhiều máy móc tối tân, để thay thế cho sức người bớt nặng nhọc, được hưởng sung sướng tự do…, nếu hiểu thế thì đâu còn nạn giai cấp đấu tranh, đâu còn lao tù khổ sở, đâu còn khí giới nguyên tử, khinh khí để giết hại, khiến cho sự chết chóc điêu linh quá sức tưởng tượng như ngày nay, mà vẫn cứ dám khoác màu áo: Dân chủ, Nhân Quyền, Hòa Bình, Tự Do, Hạnh Phúc?”

Con người là khí cụ sắc bén, rất “lợi” và cũng rất “hại”. Sự ích lợi (sẽ) trông thấy chỉ khi nào con người biết rèn luyện tâm trí, như: hiểu biết nghĩa vụ tôn trọng sự thật (chân lý) sáng suốt hành động. Nhưng sự tác hại của con người cũng sẽ rất ghê gớm, khi mà con người chỉ sống (bưng bít) trong những bức tường thành kiến, tập quán, di truyền hủ bại, đam mê thuốc xái, cờ bạc, rượu chè, chơi bời phung phí: đó là những người sống đời không lý tưởng, mục đích.

Giáo lý đạo Phật là dạy cho con người nhiều phương pháp làm người, và chỉ có đạo lý Từ Bi, trí tuệ, bình đẳng, giải thoát và tự chủ mới xóa bỏ được mọi mê tối, khổ đau của cuộc đời phiền tạp, nhiểu nhương này.

c. Giá Trị Đặc Biệt Của Con Người Trong Xã Hội Loài Người

Giá trị con người là hơn muôn loài. Trong các kinh điển đức Phật từng nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu: “Ta là Phật đã thành. Chúng sinh là Phật sẽ thành” – Kinh Phạm Võng.

Để ra ngoài những giáo lý uyên áo, ở đây, ta chỉ xét nội câu nói trên cũng đủ diễn tả hết mọi khía cạnh giá trị và địa vị đặc biệt của con người nhưng con người lên ngang hàng với chư Phật. Sự bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật là ở đó, chứ không như các tôn giáo khác, chỉ biết đặc tôn vị giáo chủ duy nhất mà mình thờ, ngoài ra không muốn cho một ai được ngang hàng với địa vị ấy. Họ cố ý dìm con người xuống, không muốn cho con người tiến lên. Quan niệm của đạo Phật rộng rãi hơn, đức Phật dạy: “Con người là hơn cả = nhân thị tối thắng!” Có con người là có tất cả. Muốn cải tiến xã hội, trước hết phải cải thiện con người. “Đời chỉ đáng sống nếu người ta có được một lý tuởng, nghĩa là có những ưu tư khác với chăm lo ăn cho ngon, uống cho thỏa và thụ hưởng cho nhiều lạc thú”.

Tư tưởng, ý chí và hành động của con người quyết định hết thảy. Con người tốt hay xấu, giàu hay nghèo, sang hay hèn, ngu tối hoặc thông minh, và xã hội có mở mang hay thoái hóa, nguyên nhân chính vẫn là con người. Chỉ e con người có làm chủ đuợc mình hay không? – “Muốn làm chủ được thời cuộc, phải làm chủ được người chung quanh. Muốn làm chủ người chung quanh, phải làm chủ lấy chính mình”. Thực ra, đời sống phức tạp trong xã hội không đáng kể; đáng kể là, khi con người có biết điều khiển xã hội phức tạp hay không. Nếu con người biết cách điều khiển cuộc sống mình, mọi việc sẽ tốt đẹp, khác nào như đợt sống trên sông ngòi, chỉ một cơn gió lốc thổi ào ạt cũng đủ đánh tan tất cả đợt sống nhỏ làm thành làn sống vĩ đại cuồn cuộn chảy về biển cả. Cũng như thế, nếu con người tách rời cuộc sống mình ra khỏi phạm vi xã hội loài người thì cuộc sống ấy quả là vô nghĩa, không đáng kể. Và như thế, con người ấy đã tự chối bỏ giá trị cũng như địa vị cao quí của mình trong cuộc sống hằng ngày… Giá trị nhân bản đích thực có tính cách vĩnh cửu, chỉ có thể biểu lộ ở những con người mang ý nghĩa toàn vẹn của nó. Đạo Phật khuyên chúng ta hãy tự quên mình để được yêu vũ trụ rộng lớn, mà đạo lý “vô ngã, vị tha” là đọng cơ thúc đẩy con người dũng tiến trong công cuộc phụng sự nhân loại, phụng sự chúng sinh. Nên nhớ: sự biểu hiện cùng tận của lẽ sống là ở chổ hoạt động minh động và phát triển con người toàn vẹn. Hãy vương lên và làm việc.

Đó là giá trị đặc biệt của con người trong xã hội loài người.

Bộ Kinh cổ nhất trong các bộ kinh thuộc Bà La Môn giáo có ở Ấn Ðộ.

Quan điểm của tôn giáo này giống với Cơ Ðốc giáo: một bên thờ Brahma, vị chúa tể càn khôn, và một bên thờ Thiên Chúa. Tuy danh xưng có khác, nhưng trên ý nghĩa là một.

Tội Tổ Tông (Pêche Originel) là tín điều căn bản của Tôn giáo này.

Vì sự  tôn trọng tự do tín ngưỡng đối với các tôn giáo bạn, trong mục này, tôi chỉ nêu những nét chính, được rút ra từ Thánh kinh; không ngoài mục đích tìm hiểu sự cắt nghĩa cái vũ trụ nguyên sơ của tôn giáo này.



PASTEUR, nhà bác học Pháp cuối thế kỷ XVIII, đã chứng minh một cách chắc chắn rằng: không có sinh vật nào bằng tự dưng mà có được. Sự tự sinh sản (generation spontanée) là một điều không có trong vũ trụ.

Ngũ  Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Bốn tượng: Lão âm, Thiếu âm, Lão dương, Thiếu dương.

Thành: nghĩa là thực. Người ta muốn thành tựu công việc gì, trước hết, mình phải thành thật với mình, có thành thật mới mong tiến hóa tức đã có nghĩa là đi lên.

Tam cương: Vua tôi, cha con, chồng vợ. Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Trong Ðạo Ðức Kinh (Tao The Ching) chép: “Ðạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh”. (Ðạo còn có thể gọi là đạo, thì không phải là chính đạo. Danh mà còn gọi là danh, thì vẫn chưa phải là chính danh).

Trong các thời đạ Tùy (589 – 618) Ðường (618 – 907) và thời Ngũ Ðại (Lương, Ðường, Tấn, Hán, Chu) từ  907 – 960…

Theo PICHTA (1762 – 1814), cái bản ngã đã tạo ra vũ trụ, trong một quá trình với 3 bậc: 1. “Trước hết, cái tôi, tự  nhận nó là một cái tôi. 2. “Ðồng thời cái tôi tạo ra những cái không phải tôi. 3. Sau hết, nó đặt rõ những giới hạn giữa hai thế giới ấy”.

NIETZSCHE (1844 – 1900), một triết gia Ðức, đã quả quyết: “Thượng Ðế chết từ lâu rồi”. Ðây là một tuyên ngôn táo bạo và ngỗ nghịch nhất từ  xưa đến nay chưa một triết nhân nào dùng tới.

LAMARCK (1744 – 1829) tuyên bố: “Sở dĩ những sinh vật biến thể vì đã phải thích nghi với ngoại cảnh”. Ví dụ: Sống trong Sa mạc nên giống Lạc đà chịu được sức nóng. Ông nói: “Bộ phận nào người ta dùng đến nhiều thì nở nang, còn bộ phận dùng ít thì tự tiêu”.

DARWIN (1731 – 1802) nói: “Vạn vật sở dĩ biến hóa, không phải vì ảnh hưởng của cảnh vật mà vì tranh đấu để sinh tồn”.

Thuyết này gồm 3 trạng thái:

a.Trạng Trạng Thái Thần Học (état Théologique) tức thời kỳ con người dựa vào thần thoại để cắt nghĩa vũ trụ.

b.Trạng Thái Siêu Hình, (état métaphysique), thời kỳ ý thức con người đã vượt lên chỗ trừu tượng, nhằm thay đổi hẳn những gì có tính cách thần thoại thuộc trạng thái trước.

c.Trạng Thái Thực Nghiệm (état positif) tức là trạng thái khoa học.

Lịch sử hàng hải quốc tế xác nhận: từ thời tối cổ vùng Viễn Ðông và Thái Bình Dương đã là nơi có sự buôn bán phồn thịnh hàng hải rồi. Người Trung Hoa đã biết sử dụng địa bàn từ thời tiền sử khoảng XXX thế kỷ tr TL; hơn nữa, một phần phía nam Trung Hoa được đặt trong vùng ảnh hưởng gió mùa định kỳ. (Rất có thể) vào năm 1398 tr TL một người Trung Hoa tên Chien-Ho đã tiếp xúc với các phần đảo rải rác hoặc đã đặt chân lên vùng đất California, thuộc nước Mỹ. Chúng ta cũng cần chú ý là kỹ nghệ đóng thuyền viễn dương của Trung Hoa. Từ xưa loại thuyền buồm Trung Hoa vẫn được nổi tiếng với thế giới. Năm 414 Tây lịch, thiền Sư Pháp Hiển. Fa Hsien – (Trung Hoa) đã dùng thuyền viễn dương rất đồ sộ chở được trên 200 người từ Java về Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng thuộc tỉnh Quảng Ðông. Mà mãi đến năm 1492 Christophe Colomb mới đặt chân lên đất Mỹ. Không phải đợi đến thời thiền sư Pháp Hiển mới có sự thông thương bằng đường biển giữa Ấn Ðộ Dương với biển Trung Hoa. Sự thương mại bằng biển cổ thời giữa Ðịa Trung Hải, biển Baltique và Hắc Hải ở Âu Châu không có gió mùa mà còn được phát triển mạnh, huống hồ các nước lớn trong hệ thống gió mùa Ấn Ðộ Dương mà lại không thể phát triển được thương mại thì thực là phi lý, và lẽ dĩ nhiên là hệ thống gió mùa định kỳ đã đóng góp rất mạnh mẽ vào chương trình đi về một cách rất chính xác, giúp cho các thương nhân đỡ sức lao động, và do đó thuyền có thể rất lớn, chở nặng được.

Người Ấn Ðộ ngay từ hồi còn định cư ở lưu vực Indus, phía tây bắc Ấn Ðộ, đã có truyền thống thương mại hàng hải thuộc biển A Rập với các nước Âu Châu rồi. Khoảng 300 năm tr TL, dưới triều đại Maurya, nước Magadha, đại đế Chandragupta trị vì một vương quốc rộng nhất thời bấy giờ. Ðến đời cháu đích tôn của đại đế, là thánh quân Asoka (268 – 282 tr TL), sự vinh quang của triều đại Maurya lên đến tuyệt đỉnh, biên cương được mở rộng thêm. Chính vì quan niệm mở mang bờ cõi, vua Asoka đã xua quân đánh chiếm xứ Kalinga, gây nên một cuộc huyết chiến vô cùng thảm khốc mà về sau này, chính vua (Aska) đã phải công khai sám hối. Hồi xâm lược Kalinga, vua Asoka chưa theo giáo pháp của Phật. Nhưng sau khi đã qui y Tam bảo (Phật-Pháp-Tăng) rồi thì vua mới thật tình hối hận và cố gắng trở nên thánh thiện. Sự kiện này được ghi rõ trong một tấm bia: “… Tất cả nỗi thống khổ về nạn binh đao đã làm cho trẫm phải nặng lòng lo ngại. Dù cho số người bị sát hại đọa đày trong việc xâm chiếm xứ Kalinga nhiều đến thế mấy cũng không thể sánh bằng sự đau khổ của trẫm…

Trẫm mong cho tất cả chúng sinh đều biết tự chủ thân tâm, là lành lánh ác.

Ðối với trẫm, sự thắng trận cao cả hơn hết là sự thắng trận của chính Pháp…

Cuộc thắng trận của chính pháp là một thắng trận của toàn thể…

Kim ngôn này được khắc lên mặt đá để cho ngày sau con cháu của trẫm sẽ không còn nghĩ đến những cuộc thắng trận khác nữa, và chúng nó phải làm thế nào để thắng nổi trận giặc lòng…”

Khi thánh quân Asoka cho khắc bia này thì xứ Kalinga đã bị tiêu diệt mất mười vạn và bị lưu đày mười lăm vạn quân, đấy là chưa kể số thường dân bị sát hại, chết oan, cửa nhà đổ nát, cháy rụi. Ðấy là ta chưa kể số quân bị chết, bị thương, bị bắt làm tù binh và thường dân bị chết oan về phía vua Asoka (Magadha).

Vào buổi ấy, có phong trào di dân rất rộng, từ xứ Kalinga sang phương đông và xuống phương nam. Có một số rất đông đi thuyền đi tới đảo Ấn-Hoa. Ta cũng nên nhớ rằng, vào khoảng hai thế kỷ cuối cùng trước kỷ nguyên Tây lịch, có một biến cố lớn xảy ra ở Ấn Ðộ. Ðó là con đường thương mại vàng bị cắt đứt; từ trước, Ấn Ðộ vẫn mua vàng tại Tây Bá Lợi Á. Các đoàn lữ hành vận tải vẫn thường dùng con đường Bactriane để thông thương bị các  phong trào quần chúng ở Trung Á nổi dậy ngăn chặn con đường thương mại này. Ấn Ðộ đành phải quay sang Tây phương để mua vàng, thuộc thế giới La Mã. Người Ấn mua các đồng tiền vàng về rồi nấu cho chảy ra để sử dụng theo ý mình; Do đó, hoàng đế Vespasien ngăn cản, không cho vàng chảy ra ngoại quốc nữa. Ấn Ðộ liền quay sang “Kim thổ” tức là sang bán đảo Ấn-Hoa. Như ta biết là kỹ thuật hàng hải viễn dương lúc ấy đã rất thuận tiện. Gió mùa đã được sử dụng. Các con đường buôn viễn dương có thể chở được 700 hành khách đã thấy xuất hiện trên các hải đảo rồi. Và, làn sóng di dân có khuynh hướng lan rộng rõ rệt mỗi ngày dồn về phía Ðông mạnh hơn, bằng hai ngã đường bộ và đường thủy; Phía bắc Ấn Ðộ, “con đường tơ lụa” sang tới Trung Hoa là con đường chính mà các nước thuộc vùng Thượng Huyền, vùng Trung Á và Ðịa Trung Hải buôn bán với Viễn Ðông, thuộc Trung Hoa. Con đường này lại hay có nạn bị cướp, thường được các nước có truyền thống văn minh bản xứ lâu đời và hiếu chiến sử dụng. Còn con đường về phương Nam thông với Nam Á là con đường biển. Ðường biển có lợi là có thể chở được nhiều hàng, nhiều nước ngọt, lương thực và người trên những con thuyền lớn. Hơn nữa, con đường biển nhờ có hệ thống gió mùa định kỳ nên khách hàng có thể yên trí tính toán chương trình nhất định ngày đi về rất được chính xác. Còn một điều này nữa cũng cần để ý, đó là các dân tộc sử dụng “con đường tơ lụa” hay có tính bảo tồn bản chất văn hóa Ấn Ðộ; nhưng nếu sử dụng con đường này để đưa văn minh vào các nước Ðông Nam Á Châu thì kết quả mong đợi rất khác xa với kết quả thu được ở những nước do đường biển đưa tới. Những nước phía Ðông Nam Á Châu chịu ảnh hưởng bản chất Indonésien nhiều hơn là Mongolique. Do đó, văn minh Ấn Ðộ thẩm nhập vùng Ðông Nam Á Châu có vể nhộn nhịp hơn.

Phong trào di cư của người Ấn Ðộ về phía Ðông Nam Á có thể bắt đầu từ thời vua Asoka, nhưng chỉ lẻ tẻ và nhiều đợt, phong trào trở thành rầm rộ thì vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Các phong trào này dùng đường biển nhiều hơn là đường bộ.

Kim Tinh ta quen gọi là Sao Hôm (Etoil du berger) hay Sao Mai (Etoile du Matin) cũng là một.

Cồi, chỉ cho các hình thể rất nhỏ như điện tử, nguyên tử  và hạch tử (Electron, Atome et Noyau) tức là căn nguyên của vật chất – lời chú của người viết.

Theo các nhà địa chất học (Géologie) khảo sát những thời kỳ biến chuyển của địa cầu, đã công bố: khoáng vật có trước tiên, tiếp đến là thảo mộc, rồi mới đến súc vật và loài người – loài người xuất hiện trên địa cầu vào thời kỳ Ðệ Tam Thạch Hệ (Époque Tertiaire). Ðịa cầu được chia làm 5 thời kỳ:

– Thời Kỳ Thái Cổ.

– Thời Kỳ Ðịa Chất Thứ Nhất.

– Thời Kỳ Ðịa Chất Thứ Hai.

– Thời Kỳ Ðịa Chất Thứ Ba.

– Thời Kỳ Ðịa Chất Thứ Tư.

Mỗi thời kỳ có những lịch sử khác nhau. Và do sự khảo sát của các nhà vạn vật học (Sciences naturelles) về những thời kỳ biến chuyển của vạn vật, đã công bố: Sự hiện diện của chúng trên địa cầu là do những chất khí hóa, như: “thán khí” (Carbone), “khinh khí” (Hydrogène), “đạm khí” (Azote), “dưỡng khí” (Oxygèn2) và các “sinh tế bào” (Cellue vivante) kết hợp tạo thành. DARWIN nói “Khi chưa có con người chỉ có “Hạ đẳng vật” (những cây cỏ nhỏ và các loài côn trùng rất bé…) dần dần tiến lên “Trung đẳng vật” là những thực vật (cây cối) và động vật như con Vích, con rái cá và loài khỉ; qua thời kỳ này thì tiến tới “Thượng đẳng vật” (vạn vật đã lớn, một số ít loài khỉ già đã thoát xác ra hình người, rồi sinh hóa mãi ra…

Ðoạn văn trên đây là phóng tác theo cuốn “Tinh Thần Khoa Học” của Thái A, do Tân Việt xb.

Mới đây nhà khoa học phát kiến: Quả đất đi 30 cây số ngàn một giây từ đông qua tây, còn chiều nam bắc đứng nguyên.

BOILEAU, một lý luận gia Pháp, thế kỷ XVII, cũng nói câu tương tự:

“Ce que l’on concoit bien s’enonce clairement.

Et les mots pour le dire arrivent aisément”.

Xin xem định nghĩa chữ PHÁP trong phần chú thích ở Chương Một “Ðạo Phật là gì?”

Chữ trong kinh Hoa Nghiêm: Nhất tức nhất, nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất, nhất thiết tức nhất thiết.



Nhân Minh Học là một trong năm môn học căn bản của đạo Phật.

Tam Chi Luận gồm có:

a.Tôn: Tôn chỉ; hay đề giải, tức vấn đề sẽ được đem ra bàn giải.

b.Nhân: nguyên nhân, lý do, tức nguyên lý của sự vật.

c.Dụ: những dẫn chứng để chứng minh cho vấn đề (mà ta) đã xác định là đúng.

Riêng mục này, ở đây chỉ trình bày khái quát, muốn rõ hơn xin xem Nhân Sinh Quan.

Một nghìn cõi Tiểu thiên hợp lại thành một cõi Trung thiên (1.000 x 1.000 = 1.000.000 thế giới nhỏ), và một nghìn cõi Trung thiên hợp lại thành ra cõi Ðại thiên (1.000.000 x 1.000 = 1.000.000.000 thế giới nhỏ). Cũng gọi là Tam thiên đại thiên thế giới – Trisàkarasramakakàsàhasro lokadhàtuh – ghi chú của người viết.

Tuệ Quang – Nguồn Sáng Mới.

Xin xem lại Vấn Ðề Nhận Thức.

Nhược thử hữu tắc bỉ hữu

Nhược thử sinh tắc bỉ sinh

Nhược thử vô tắc bỉ vô

Nhược thử diệt tắc bỉ diệt.

Bát Nhã Tâm Kinh có câu:

Thị chư  pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất tăng, bất giảm…

“Không”  = Sùnyatà”, chữ Không ở đây là chỉ cái “thể” vô hình, vô sắc của vũ trụ, chứ không phải là không có gì…

Chữ “Không” này ở đây xin độc giả hiểu và coi như một phương pháp tỷ giảo, dẫn chứng, chứ chưa hẳn là bàn về triết lý của “Không” – ghi chú của người viết.

Nguyên văn chữ Hán:

Tác hữu sa trần hữu

Vi không nhất thiết không

Hữu không như thủy nguyệt.

Vật trước thị không không.

Bản dịch 4 câu thơ trên trích dẫn của Phan Kế Bính trong “Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện” trang 126. Có truyền thuyết cho rằng tôn giả Huyền Quang, đời Trần, dịch.

Chữ Tâm mà ta bàn đến ở đây không phải là “Chân Tâm” (I’Être infini) mà nó chỉ là “Vọng Tâm” (tâm sinh diệt: conscience inconnaissable). Tâm chia ra tâm vương (cittarãya) (chủ động) và tâm sở (caittas) (bị động), chữ “tâm” chữ tâm không viết hoa – chỉ là một bộ phận nhỏ trong cái Bản Thể (Chân Tâm) như trong Duy Thức Học đã giảng rõ.

“Không trược” tức có nghĩa là tâm không bị vướng mắc ở một chỗ nào cả.

“Ðại Ngã Thể” ví như một thân cây, có đủ các cành, lá, hoa, quả, (tức chỉ cái bản thể vũ trụ gồm chứa đựng tất cả tinh thần lẫn vật chất). Những cành lá hoa quả không ngoài thân cây mà có. Nói khác, tất cả vạn sự vạn vật ở trong thế gian đều từ trong Bản Thể ấy mà xuất hiện, nó bao hàm khắp pháp giới, hư không giới.

Kinh Mahàsihanàdasuttam XII giải thích về bốn loài như sau:

a.Noãn sinh, là những loài hữu tình nào phá vỡ trứng, mà sinh.

b.Thai sinh, là những loài hữu tình nào phá màng da mỏng che chỗ kín mà sinh.

c.Thấp sinh, là những loài hữu tình nào sinh ra từ cá thối, từ xác chết thối, từ cháo cơm thối, hay trong hố nước dơ hay trong ao nước nhớp.

d.Hoá sinh, chư thiên, các chúng sinh ở địa ngục, một số thuộc loài người và một số thuộc đọa xứ.

Chữ “Kiếp” (Calpa) có nghĩa là một thời gian (temps) trong đó lại chia làm 3 thời kỳ: Tiểu, Trung, Ðại. Một Tiểu kiếp có 16.800.000 năm, hai mươi tiểu kiếp là một Trung kiếp (16.800.000 x 20): 336 triệu năm. Bốn Trung kiếp là một Ðại kiếp (336 x 4): 1.344.000.000 (một nghìn ba trăm bốn mươi tư triệu năm).

Nhà Khoa học nói: “Rien ne se crée, rien ne se perd”.

Xin xem lại Vũ Trụ Luận

Nguyên văn Pali:

Amasmĩm sati idam hoti imas uppada idam uppajjati…

Chân Như là gì? Chân Như không phải là một vật thể ở ngoài chúng ta, nó cũng không đối tượng với giác quan. Giác quan cũng ở trong sự tác động của “Chân Như”.

Chân Như———Vạn Hữu

Vạn Hữu———-Chân Như

Chân Như tác động một cách thản nhiên (vô tri) do sự cọ xát giữa tâm lý và vật thể, nên nói rằng: Mê và Ngộ – Chân Như là một sự tác động không ngừng, nếu tác động theo “dòng Mê” là Vô Minh và đau khổ; nếu theo “dòng Tịnh” thì trong sạch sáng suốt.

Ta hãy hiểu sự kiện (Chân Như và Vô Minh) như sau:

Tùy Duyên Bất Biến: giai đoạn chưa cải tạo.

– Bất Biến Tùy Duyên: giai đoạn đã cảI tạo.

Thí dụ: Nước (Bản Thể) đem pha các màu xanh, đỏ… nhưng tính “ướt” của nước vẫn không biến đổi (Bất Biến); các màu xanh, đỏ… là Tùy Duyên.

Nhưng làm thế nào để theo dòng Tịnh? Ta cần phải nhờ có lý trí tự chủ.  Nghĩa là, phải biết các công năng tác động của Chân Như; gồm có hai tính cách:

a.Thô Tướng Phần (vật chất to lớn)

b.Tế Tướng Phần (tính thần và vật chất vi tế)

Trong sự tác động của Chân Như, lý trí là lập nhất và cùng với tế tướng phần thể nhập (S’identifier) thì gọi là Phật giác ngộ; nếu trái lại là Vô Minh vọng kiến của chúng sinh. Nhưng Vô Minh do đâu mà có?

Trong kinh giải thích: Vô Minh là khởi đầu của Chân Như, của Bản Thể.

– Chân Như là hoàn toàn Tĩnh.

– Vô Minh là hoàn toàn Ðộng.

Vô Minh là vô thủy hữu chung, sự khởi niệm của Vô Minh chỉ tương đối với thời gian; Chân Như là tự tác động phát khởi Vô Minh. Ví dụ: Chân Như là mặt nước, gió làm nước thành sóng, mặc dù nó Tĩnh, nhưng vẫn có tính chất Ðộng. Nếu nước không có tính chất thành sóng thì gió cũng không thể làm nước thành sóng được.

TĩnhÐộng là hai tính cách có trong “Nước”. Cũng như Chân Như và Vô Minh là hai tính cách có ở trong “Bản Thể”.

Ðối tượng với chúng sinh vọng kiến mà nói là Vô Minh; nhưng Vô Minh với Chân Như chỉ là một Thể không sai khác.

– Vô Minh là: vô thủy; Chân Như; vô chung.

– Vô Minh là: Hữu chung; Chân Như; vô chung.

Nói rằng Vô Minhvô thủy vì Vô Minh là “trạng thái”, những sự tác động sai lầm của nhân duyên sinh, chung quanh một vòng tròn biến hóa cùng thế gian vô cùng mãi mãi không tìm đâu được cái nghĩa đầu tiên của Vô Minh – Ðộng là một tác động của Chân Như cho đến Tĩnh và Vô Minh cũng ở trong Chân Như. Vô Minh Hữu Chung – Vì nhân duyên sinh có thể chấm dứt được. Nói một cách khác, khi nào biến hóa nhân duyên không tác động nữa thì “Vô Minh” hết.

Chữ “Trời” ở đây không có nghĩa chỉ ông trời như nhiều người ngộ nhận. Trời, ta nên hiểu như là không gian, là hoàn cảnh, là người – con người với đầy đủ ý nghĩa của nó.

Tứ Ðại: “đất”: xương, thịt… “nước”: máu, đờm, rãi… “lửa”: khí nóng… “gió”: hơi thở…

“Trời” theo đạo Phật, chỉ là những nhân vật có phúc báo hơn các loài khác, sống ở một thế giới tương đối có những phong cảnh đẹp, khí hậu lành, con người sống lâu… song vẫn phải luân hồi (samsàna) sinh tử, nếu không chịu tu và thực hành “Tam Qui, Ngũ Giới, Thập Thiện”.

28 cõi trời

Dục – giới (Kàmadhàtuh) có 6 cõi:

1.Tứ-thiên-vương có 4 ông vua và nhiều thần dân ở 4 mặt trên lưng chừng núi Tu – Di.

2.Tam – thập – tam – thiên – đế (Ðao – lợi) có 33 ông vua và nhiều thần dân ở đỉnh núi Tu – Di.

3.Tứ – diệm – ma

4.Ðâu – xuất – đà

5.Lạc – biến – hóa

6.Tha – hóa – tự – tại

(4 cõi trời này ở hư – không, cùng các loài trời ở Sắc – giới và Vô – sắc – giới).

(xem Surangama – sutra)

Sắc – giới (Rupadhàtuh) có 18 cõi:

Chia làm 4 tầng Thiền – thiên là:

1.Sơ – thiền

2.Nhị – thiền

3.Tam – thiền

4.Tứ – thiền

1.Sơ – thiền có 3 cõi: Phạm chúng, Phạm – phụ và Ðại- phạm (Brahma).

2.Nhị – thiền có 3 cõi: Thiều – quang, Vô – lượng – quang, Âm – quang.

3.Tam – thiền có 3 cõi: Thiều – tịnh, Vô – lượng – tịnh và Biến – tịnh.

4.Tứ – thiền có 4 cõi: Vô – vân, Phúc – sinh, Quảng – phổ, Vô – tưởng.

5.A – la – hán có 5 cõi: Ở chung với Ðệ – tứ – thiền: Vô – phiền, Vô – nhiệt, Thiện – kiến, Thiện – hiện, và Sắc – cứu – kính.

(5 cõi trời này của các vị tu Tiểu thừa sinh lên đây để tu cho thành A – la – hán và Bích – chi – Phật).



Vô – sắc – giới (Arùpyadhàtuh) có 4 cõi:

1.Không – vô – biên – xứ, nơi chỉ có sức thiền – định rỗng không.

2.Thức – vô – biên – xứ, nơi có thần lực.

3.Vô – sở – hữu – xứ, nơi chẳng dùng gì cả.

4.Phi – tưởng, Phi – phi – tưởng – xứ, nơi còn một chút vọng tưởng hình như không, hình như có.

GHI CHÚ: Bản đồ này phỏng theo trong kinh viết ra.

Khoa học nói: La loi de I’évolution de I’universel.

Những gì là Ngũ uẩn (Pànchaskhandha)?

1. Sắc (Rùpa) :hình thể và sắc chất (các hiện tượng vật lý)

2. Thụ (Védanà) : cảm giác (các cảm giác sinh lý)

3. Tưởng (Samjnà) : tưởng tượng (các khái niệm)

4. Hành (Samhkàra) : hành động (các tác động ý chí)

Ðối tượng bị nhận thức.

5. Thức (Vijnàna) : nhận thức (các tác động nhận thức)

chủ thể năng nhận thức.

M.ii 310 giải thích Gandhabba là loài hữu tình vào trong bào thai… loài hữu tình sắp sửa nhập thai (tatrùpaka satta).- Chú thích của dịch giải.

Trích Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya), Tập 1. Mahatãnhãsankhãyasuttam XXXVIII, trang 265 – 266a do Tỳ Khưu Th. Minh Châu dịch –

1. tiền tài; 2. sắc đẹp; 3. danh vọng; 4. ăn uống; 5. ngũ nghĩ.

Loi de causalité

Khi con người chết, tức cái “Nghiệp” (Karma) rời khỏi thân thể và theo luật tương ứng (Loi d’affinité) sẽ bị hút vào một cái thai khác, giống như Oxygène hút Hydorgène. Khoa học thì nói: “Pas de matière sans mouvement: không vật chất nào mà không chuyển động” – Vì là vật chất nên chuyển biến vô thường (Impermanence) và tất nhiên nó phải bị thay đổi hình sắc luôn. Mà thay đổi tức có nghĩa là “luân hồi”.

– Hoặc: phiền não.

– Nghiệp: hành nghiệp, thức nghiệp.

– Khổ: khổ não.

Mười Hai Nhân Duyên

Hoặc                       1. Vô minh

Nghiệp                   2. Hành

                2 chi nhân quá khứ

Khổ                        3. Thức

4. Danh sắc

5. Lục nhập

6. Xúc

7. Thụ


                5 chi quả hiện tại

(7 lớp nhân quả ở đời trước và đời này)

Hoặc                       8. Ái

                                9. Thủ

Nghiệp                   10. Hữu

                3 chi nhân hiện tại

Khổ                        11. Sinh

                                12. Lão tử

                2 chi quả vị lai

(5 lớp nhân quả ở đời này và đời sau).

M.I.II.209 nói rằng garu nghĩa là bhàrika, nặng nề, gánh nặng, theo một cách miễn cưỡng.

Kinh dẫn thượng, trang 261 – 266A, Tỳ khưu Th. Minh Châu dịch.

Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng – Kinh Kim Cương.

Chữ “cho” theo Phạm ngữ gọi là Dhànam (Bố Thí) gồm có:

a.Tài thí, bố thí tài (tiền của, cơm áo, thuốc thang…)

b.Pháp Thí, bố thí pháp (nói pháp an lạc, giải thoát cho chúng sinh)

c.Vô Úy Thí, (cứu giúp người trong cảnh hoạn nạn, lo sợ… mà mình không sợ bị tai họa…)

Kinh Ưu Bà Tắc.

Nous ignorons òu se trouvent exactement ses frontiers spatialés et temporelles. Nous avons des raisons de croire que la personnalité s’étend hors du continuum physique. II semble que chacun de nous soit beaucoup plus vaste et plus diffus que son corps – Sách dẫn thượng, trang 312 – Bản chữ Việt của Thanh Vân, in trong cuốn Ðạo Phật.

ARISTOTE nói: “L’homme est un animal raisonnable: người là một sinh vật có lý tính”.


---o0o---


tải về 1.23 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương