PHẬt học tinh hoa một Tổng Hợp Ðạo Lý



tải về 1.23 Mb.
trang13/14
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.23 Mb.
#37964
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

Kết Luận


Các bạn thân mến!

Qua những trang trên, bạn đã đọc chúng tôi dưới nhiều hình thức, những tư tưởng chính… Theo sự phân loại trong cuốn sách, trước hết là Phần Mở Ðầu (Tìm hiểu đạo Phật), tức trình bày đại quan về đạo Phật là gì?

PHẬT, theo nghĩa phổ thông, là chỉ đấng đã hoàn toàn giác ngộ - GIÁO, là những “lời dạy tốt lành” do đấng Giác Ngộ thuyết giảng để khai ngộ sự mê lầm, đau khổ cho chúng sinh. Do đấy bạn có thể thức cảm giá trị thực của đạo Phật qua những nét chính:

a.Mở rộng cõi lòng…

b.Ðưa sinh linh tới ánh sáng chân lý.

c.Xây dựng một xã hội người văn minh, giác ngộ và giải thoát.



Tiếp theo là Phần Thứ Nhất (Lịch Sử Khái Luận) gồm ba chương:

1.Nguyên lý sáng lập đạo Phật.

2.Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni.

3.Lịch Sử truyền bá.

Nói  về phương diện lịch sử thì, đạo Phật có từ hơn hai thiên niên kỷ, bắt nguồn từ Á Ðông và hiện nay đang trên đà phát triển tại các quốc gia Âu Mỹ và khắp toàn thế giới. Có thể nói rằng đạo Phật là “đạo” của mọi người, của muôn loài, không phân màu da, tiếng nói và chủng tộc, là đạo chung của nhân loại, chúng sinh. Trong phần này tôi chỉ lược dẫn tiến trình của đạo Phật từ khai nguyên đến hiện đại, nghĩa là từ khi Ánh Sáng Chính Pháp bắt đầu truyền đi các ngả… Ðại cương trong đó đề ra những nét lớn như:

-   Ðức Phật đản sinh xuống cõi Sa bà với mục đích gì (?…)

-   Sự ích lợi của đạo Phật xưa và nay.

-   Ðạo Phật và nền văn hóa, văn minh nhân loại.

Qua Phần Thứ Hai, tức phần “Triết học đại quan”, chia làm hai chương:

1.Ðạo Phật là tôn giáo hay triết học?

2. Vũ trụ quan (quan niệm của các Tôn giáo, Ðạo học, Triết học, Khoa học và của đạo Phật). Phần Vũ Trụ Quan chia làm ba tiểu mục: a) Vấn đề nhận thức; b) Vũ trụ luận; c) Nhân sinh quan.

Sau hết là Phần Thứ Ba (Thực chất đạo Phật) gồm ba chương:

1.Ðạo Phật, nguồn văn hóa sinh động.

2. Sức mạnh của đạo Phật thể hiện trong ba đức tính: Ðại bi, Ðại trí, Ðại hùng, một đạo học có ảnh hưởng lớn đã thấm sâu vào đời sống dân tộc Việt.

3.Những đóng góp to lớn của đạo Phật cho dân tộc và nhân loại.

Ðể có một ý niệm đúng, ở đây tôi chỉ trình bày những dữ kiện, còn phần phê bình xin nhường quyền bạn đọc tự nhận định. Tuy nhiên, có điều cần thưa trước là, nội dung cuốn sách không đi sâu vào kinh điển của mỗi Tôn giáo, Học thuyết mà chỉ tổng luận những nét đại cương, rồi lấy đó làm đối tượng, tỷ giảo cũng như tìm hiểu những cái Thật (Chân: Levrai), Hay (Thiện: Le Bien), Ðẹp (Mỹ: Le Beau) của mỗi hệ phái, tư tưởng. Mặc dù đấy mới chỉ là những nhận định sơ quát, nhưng nó cũng sẽ giúp bạn có một khái niệm chính xác vấn đề.

Với quan niệm đạo Phật, khi nhìn vũ trụ, con người và vạn hữu, đã khẳng định: Tất cả hiện tượng trong vũ trụ chỉ là do các yếu tố Nhân duyên sinh giả hợp tạo thành. Mà Bản Thể các “Pháp” thì bất biến (không sinh, không diệt, không thêm, không bớt = “Pháp Nhĩ Như Thị”). Nó vô thủy, vô chung… Nhưng ta cần phân biệt: Nguyên nhân  nào đã cấu tạo nên vũ trụ vạn hữu? – Tâm ư! - Vật ư! – Thiên nhiên ư! Không. Tất cả “sự sự, vật vật” hiện hữu trên cõi đời này đều bắt nguồn từ “Nghiệp cảm duyên khởi”66 Nghĩa là:

Cái Này có thì Cái Kia có



Cái Này sinh thì Cái Kia sinh

Cái Này không thì Cái Kia không

Cái Này diệt thì Cái Kia diệt”

-         Majjhimanikaya –

Do đó, đạo Phật đã nhìn sự vật một cách tinh tường, toàn triệt qua lăng kính không - thời gian với chiều sâu của vấn đề là: “Chư hành vô thường; Chư pháp vô ngã; Niết bàn tịch tĩnh”67. Và như bạn đã thấy, đạo Phật là Chân Lý, Ðạo của ánh sáng Trí Tuệ và Tình Thương, một đạo hằng đề cao giá trị Con Người, lấy Con Người làm mực thước cho tất cả. Ðó là một Nhân Bản thuyết toàn diện, tuyệt đối. Cho nên, giá trị và địa vị con người trong đạo Phật là bình đẳng giữa Phật và chúng sinh. Vì mọi con người đều có Phật tính đều có thể thành Phật.

Hoa Sen là tượng trưng đạo Phật, ở trong bùn mà không nhiễm bùn. Cũng thế, thấy đời là nơi đau khổ, tối tăm, nên đạo Phật đã xuất hiện ở đời để giác ngộ và giải thoát cho con người; nhưng chỉ hiệu nghiệm khi nào con người biết áp dụng và thực hành.

Xin cầu chúc bạn lòng bình yên, trí sáng suốt và thực chứng Sự, Lý giải thoát.

Người viết.



Những ý kiến của đọc giả và nhà văn trong nước đã có những nhận định về cuốn PHẬT HỌC TINH HOA, Một Tổng Hợp Ðạo Lý.

Người đọc

THẠCH TRUNG GIẢ

Những sách khảo về Phật Giáo của ta trong khoảng thời gian nửa thế kỷ trở lại đây có thể chia làm hai loại.

Một là do những học giả như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Phan Văn Hùm.

Hai là do những nhà tu hành như Mật Thể, Giải Ngạn, Minh Châu, Trí Quang, Nhất Hạnh, Thiện Hoa, Tuệ Sỹ.

Mấy quyển của học giả Trần Trọng Kim tuy không sâu xa nhưng cũng có ích phần nào, còn quyển của Phan Văn Hùm nhan đề Phật Giáo Triết Học đã làm cho những thức giả bất bình vì ông đã không nghiên cứu thẳng vào kinh điển nên mô phỏng nặng nề về bộ Ðại Cương Triết Học Phật Giáo của học giả Trung Hoa Tưởng Duy Kiều. Bộ này cũng được Thích Ðạo Quang dịch ra tiếng Việt từ hơn mười năm nay nhưng trước khi bản dịch ra đời thì đã có người, hình như Thượng tọa Mật Thể, vạch ra sự mô phỏng kia trên một tờ báo Phật học hồi đó.

Ðem đối chiếu, người ta thấy Phan Văn Hùm đã vay mượn từ đầu đến cuối bộ sách của Tưởng Duy Kiều nhưng ở họ Tưởng rõ ràng bao nhiêu thì sang họ Phan lại tối nghĩa bấy nhiêu vì rút bớt nhiều đoạn giải thích khúc chiết.

Nếu không làm đến mức Phan Văn Hùm thì nhiều người cũng chấp nối đầu ngô mình sở những công trình nghiên cứu của học giả đông tây về những vấn đề cao siêu tế nhị mà lại để lòi đuôi dốt nát về Phật học sơ đẳng, chẳng khác nào những phu nhân chưa có cơ bản toán học đã dám bàn đến lý thuyết của Einstein trong những cuộc đấu hót ở sa lông, như nhà văn hào Maurois đã ghi nhận.

Ðạo Phật là vô ngã mà khảo về đạo Phật với tinh thần thấp kém và tối đen nhất vì dối người dối mình thì quả là một sự nguy hiểm. Tôi bái phục những vị sư cổ lỗ già nua cả đời chỉ đọc tụng một quyển kinh, không biết đi phi cơ phản lực siêu thanh qua rừng tam tạng kinh điển, nhưng tôi ghê sợ loại học giả kể trên.

Bởi thế cho nên đến bây giờ, tôi vẫn tín nhiệm nhiều ở công trình những bậc tu hành, hoặc cao sâu hoặc phổ thông nhưng bao giờ cũng rút ra từ sự nghiên cứu đứng đắn. Nói thế tôi vẫn hy vọng rằng sẽ có những tác phẩm giá trị ở giới học giả, nhưng đó là ở thì vị lai.

Bây giờ lại một bộ sách thuộc loại đáng tin cậy mới ra đời.

Ðó là cuốn Phật Học Tinh Hoa của Thượng Tọa Ðức Nhuận.

Cách bố cục của bộ sách thực linh động vì vượt ra khỏi hình thức bình thường mà tuân theo luật diễn tiến, đưa người đọc dần dần vào chỗ chuyên môn vi tế của vấn đề, tức là từ dễ đến khó, nên rất hấp dẫn đối với nhiều trình độ.

Bộ sách gồm có ba phần chính thêm phần mở đầu và phần phụ lục.

Phần mở đầu trình bày tổng quan về đạo Phật là định nghĩa Phật Giáo rồi đưa ra những nét chính: Mở rộng cõi lòng; Ðưa sinh linh tới ánh sáng chân lý; Xây dựng một Xã hội người văn minh giác ngộ và giải thoát về phương diện luân lý, về khả năng trí thức, về giá trị thực hành. Tóm lại, tác giả muốn nêu cao hai yếu tố thiện, chân hay bi, trí của Phật giáo vậy.

Phần thứ nhất, sau phần mở đầu, là Lịch Sử Khái Luận gồm có ba chương nói về Nguyên lý sáng lập đạo Phật, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Lịch sử truyền bá đạo Phật. Với một sự kiên nhẫn phi thường, tác giả đã sưu tầm những tài liệu về hình thể địa dư nước Ấn Ðộ, về hoàn cảnh xã hội với mấy mặt nhân chủng, kinh tế, chính trị, văn hóa và tử tưởng siêu nhiên tức đại cương về Những tư trào Ấn Ðộ trước khi Ðức Phật ra đời.

Nhưng ta hơi tiếc rằng những tài liệu về nhân chủng thì công phu mà chưa làm nổi bật được những yếu tố nảy sinh do sự tương giao giữa hai nền văn minh của dân tộc Aryen và dân tộc Dravidien. Chính những yếu tố này đã tạo nên hay đã làm duyên cho đạo Phật. Nhưng ta hy vọng rằng tác phẩm này còn tái bản và được bồi bổ.

Chương II ngót hai chục trang gồm cả đời Ðức Phật, Chương III già năm chục trang bao quát cả Lịch sử truyền bá đạo Phật mấy ngàn năm với những tài liệu chính xác.

Phần thứ hai được coi là trọng tâm của tác phẩm vì đi vào chỗ thâm mật của vấn đề với số trang dồi dào nhất so với mọi phần kia. Chương thứ nhất đặt vấn đề: Ðạo Phật không hẳn là triết học? Lời giải gồm ba điều: 1/ Ðạo Phật không hẳn là một tôn giáo. 2/ Nhưng đạo Phật không chỉ là triết học. 3/ Hãy trả lại tinh thần đạo Phật.

Tại sao vậy?

“Ðức Phật thường đả phá những gì hình thức. Mà tôn giáo lại hay sinh ra hình thức. Ðức Phật cũng không muốn đạo Ngài là một triết học. Bởi triết học chỉ quanh quẩn trong những phương tiện tìm hiểu, lý giải hơn thực hành, thực nghiệm”.

Ðó là Thượng tọa tổng kết khi đã thuyết minh tường tận.

Ðến đây chúng tôi cũng muốn bàn thêm đôi điều. Là việc phân biệt tôn giáo với triến học đưa tới vấn đề đạo nọ đạo kia, là một tôn giáo hay triết học chỉ nảy ra với người Tây phương và những học giả chịu ảnh hưởng Tây phương. Bên Tây phương tôn giáo là tín ngưỡng của trái tim, triết học là quan niệm của lý trí bởi thế cho nên cuộc hôn phối ép uổng giữa tín lý Cơ đốc với triết học Hy Lạp thành nền thần học Trung Cổ đã tan vỡ với những chấn động khắp Âu Châu mà chứng tích bi thương nhất là bộ Tư Tưởng Lục của Pascal gào thét lên như cuồng nộ sự đối tượng của trái tim đối với lý trí. Nhưng bên Ðông phương không có hiện tượng này. Ðạo Phật, đạo Lão vừa là tôn giáo vừa là triết học tức là những nền đạo học mà tín ngưỡng không ngược với triết lý, là tín ngưỡng được soi sáng bởi trí tuệ và lẽ sống để thực hành. Nhà thần học Cơ đốc Saint Anselme nói rằng: “Ta tin để mà hiểu” (Je crois pour comprendre) nhưng Ðức Phật lại dạy rằng:

Ðừng tin điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Nhưng, chỉ tin tưởng cái gì mà chính các ngươi đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng…” (P.H.T.H, trang 51)

Vậy ta có thể diễn lại lời Ðức Phật bằng các đảo ngược lời Saint Anselme như sau: “Ta hiểu để mà tin”.

Và Thượng tọa Ðức Nhuận đã chí lý khi gọi những kẻ xét phiến diện về đạo Phật là những anh mù rờ voi.

Chương II của phần hai là Vũ Trụ Quan, đối với các tôn giáo như Cơ - đốc giáo, Bà – la – môn giáo, các nền Ðạo học như Khổng, Lão, các nền triết học, khoa học với đạo Phật. Có thể coi chương này đi vào chỗ thâm mật và gồm mấy chương ở bên trong vì đi từ Nhận Thức Luận đến Vũ Trụ Luận, Nhân Sinh Quan gồm nhiều mục ở trên trong.

Những vấn đề lởm chởm gai góc nhất là lẽ Sắc, Không và Duy Tâm đã được bàn đến những luận cứ tế nhị uyển chuyển mà chúng tôi không dám tóm tắt sẽ làm sai lạc ý tác giả mà độc giả chúng ta mỗi người nên trực tiếp với cuốn Phật Học Tinh Hoa để thưởng thức.

Chương III của phần thứ ba nhan đề: Những đóng góp của đạo Phật cho dân tộc và nhân loại gồm bốn tiểu đề mục: Ðạo Phật với vấn đề chính trị; đạo Phật với vấn đề văn hóa; đạo Phật với vấn đề dân tộc; đạo Phật với thực tại thế giới. Ta được thấy những lời quan trọng phản ảnh cho quan niệm của Phật giáo Việt Nam chứ không phải riêng cá nhân Thượng tọa.

“Một tôn giáo đúng nghĩa, có giáo chủ, có giáo lý, có giáo hội, đương nhiên đã can thiệp vào cuộc sống xã hội, thì dù muốn dù không cũng đã trở thành một thực thể chính trị rồi. Chỉ khác một điều tôn giáo đó đã can thiệp vào Sinh Hoạt xã hội qua thế chính trị nào? Thế cai trị, thế cách mạng hay thế văn hóa”.

Những lời nói cách trang sau giải đáp và chứng minh bằng sự thực hiển nhiên:

“Tuy được lợi thế, được độc tôn trong các triều đại Asoka (Ấn Ðộ), Ðường (Trung Hoa), Lý - Trần (Việt Nam) nhưng đạo Phật không lợi dụng ưu thế để nắm quyền thống trị, cũng như không dựa vào thế lực chính trị để truyền đạo, và nhất là không để biến thành công cụ cho phe thống trị mở mang đế quốc.

Ðạo Phật do đó, đối với các nước Á Ðông là đạo chung của mọi tầng lớp người trong xã hội, là đạo của mọi dân tộc, không phân biệt đế quốc hay thuộc quốc. Riêng ở Việt Nam, đạo Phật đã hòa với bản chất dân tộc như một thực thể bất khả phân. Dân tộc thịnh, đạo Phật thịnh. Dân tộc suy, đạo Phật suy.

Chính vì vậy, mà đạo Phật đã trở thành một thế lực cách mạng của dân tộc suốt nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, đã hội tụ được lòng người, mở mùa Tự Chủ và thống nhất cho xứ sở, vào các đời Ðinh – Lê – Lý - Trần”.

Ngoài ra, tác giả còn tiên tri về tương lai Phật giáo đối với thế giới:

“Trong khi truyền bá, đạo Phật tuyệt nhiên không dùng phương pháp bạo hành, mua chuộc hay ỷ thế của chính trị để truyền đạo, mà chỉ dùng phương pháp thấm nhuần kiên nhẫn của văn hóa mà thôi. Chính điều này đã làm cho đạo Phật trở thành một tôn giáo chung của nhân loại”.

 Chúng tôi xin góp lời với Thượng tọa, Chúa Giê Su đã dạy rằng:

“Mọi kẻ cầm kiếm ắt chết vì kiếm” - Vậy thì một tôn giáo sử dụng phương pháp bạo hành sẽ phải tiêu diệt vì chính phương pháp của mình, và một giáo gieo rắc trong tình thương mới tồn tại và phát triển lâu dài. Một tôn giáo dùng phương pháp bạo hành mà chưa tiêu diệt thì sự sống của nó cũng chỉ là sự sống của con quỷ nhập tràng.

---o0o---



KẾT LUẬN

Là công trình của một nhà tu hành? Hay một học giả? Hay một thi nhân?

Bộ Phật Học Tinh Hoa này quả là của cả ba, vì Thượng tọa Ðức Nhuận đã viết với thâm nhập của người sống đạo, với óc hệ thống của nhà nghiên cứu và cũng với niềm rung cảm dạt dào.

Tác giả đã cho ta theo dõi cuộc sinh thành và phát triển của đạo Phật qua lịch sử, vừa chiêm ngưỡng những đường nét chính của tòa kiến trúc hùng vĩ, lại đưa vào mấy chốn thâm cung nghi ngút hương thiêng. Sau đó lại đưa ta lên tháp cao bao quát viễn đồ bao la của Phật giáo đối với thế giới: là một tổng hợp đạo lý, nó bao dung tất cả, vượt lên trên gào thét của hận thù.

Bộ Phật Học Tinh Hoa đi vào những vấn đề sâu xa tế nhị mà không khô khan rắc rối, lời văn vừa chính xác vừa nhẹ nhàng hợp với mọi lứa tuổi, từ những nhà nghiên cứu khắc khổ đến những bạn trẻ muốn được có trong tay một cuốn chỉ nam chắc chắn và duyên dáng về Phật học.

Tập san NGÔN NGỮ

Trang 110-117.1973

… Mặc dầu tiếp nhận sự vật theo vô thường vô ngã, đạo Phật không phải là một đạo bi quan yếm thế. Cùng lúc với sự đề cao con người, Phật giáo đã đề cao một giá trị bình đẳng ứng dựng cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi. Ðó có lẽ là tinh hoa cao quý của Phật học mà người viết đã có ý muốn nhấn mạnh và kín đáo dùng làm chủ đề cho tác phẩm này.

Chúng tôi không ngần ngại bầu cho Phật Học Tinh Hoa là cuốn sách biên khảo về Phật giáo có giá trị nhất trong năm 1961 (…) Trong giai đoạn khó khăn hiện tại, chúng ta rất cần tới sự góp mặt của những tác phẩm cùng loại.

PHONG GIAO

Tin Sách, năm thứ hai, bộ II, tháng 10 – 11 và 12. 1961.

---o0o---


HẾT


2 La Pensée Bouđhique

3 Nhân thị tối thắng, năng sinh nhất thiết chư thiện pháp cố.

4 Nguyên bản chữ Hán: Như tam thế chư Phật, thuyết pháp chi nghi thức, ngã kim diệt như thị, thuyết vô phân biệt pháp.

5 Trong pháp số gọi là “Tứ Vô Lượng Tâm”:

a-Từ: Maitri, là lòng thương yêu rộng lớn và làm sự “ban vui, cứu khổ” cho tất cả, không phân kẻ oán, người thân.

b- Bi: Karunà, là sự tôn trọng mạng sống, sự sống và quyền sống hết thảy chúng sinh, đó là sự thể hiện trọn vẹn đức hiếu sinh…

c-Hỷ: Mudità, Nghĩa là hoan hỷ, vui vẻ, không oán giận, thù ghét và làm hại chúng sinh.

d-Xả: Upeksà, xa lìa hết mọi phiền não xấu ác, tâm lượng thì trong sáng, bao dung, tha thứ…

6 Trong kinh Lăng Nghiêm có câu:

Tương thử thâm tâm phụng trần sát

Thị tắc danh vi báo Phật ân

Tạm dịch:

Ai, trong suốt cuộc đời biết đem thân tâm làm việc phụng sự chúng sinh, tức người đó đã báo đáp được phần nào trong muôn một ân sâu chư Phật.


7 Tứ Nhiếp Pháp: tức Bốn pháp môn đối trị ở đời. Hay nói cách khác là: Bốn phương pháp cư xử thông thường mà người ta cần phải áp dụng nó trong những môi trường sinh hoạt tập thể, thường gọi là xã hội văn minh.

a)Bố thí (Dànam): là sự tương trợ, cứu giúp người về mặt vật chất cũng như về tinh thần, một cách không vụ lợi.

b)Ái Ngữ (Peiyavàdita): là lời nói hợp lý. Tức lời nói không giận hờn, đặt điều, xu nịnh, dèm pha, mà chỉ nói những lời chân chính, hòa ái.

c)Lợi Hành (Arthacaryà): làm tất cả những

d)Ðồng Sự (Samànàrthata): Phục dịch công vụ công việc gì xét thấy hữu ích cho tự thể, tha nhân, và cho cuộc đời.. Ai nấy nên đem hết tài năng mình, đúng với nghĩa của nó.  

8 Lục Hòa: Sáu phép “hòa ái”nhằm xây dựng m g cho tất cả những ai muốn sống một nếp sống văn minh, tiến bộ:

a) Thân Hòa Ðồng Trụ: cùng sinh sống trong một gia đình (nói riêng), một quốc gia (nói chung), mọi người nên có sự thương yêu, bao bọc cho nhau.

b) Khẩu Hòa Vô Tranh: Không cãi mắng nhau, mà chỉ nên nói những lời khiêm cung, hòa ái, để tạo bầu sinh khí đầm ấm trong gia đình và ngoài xã hội.

c) Ý Hòa Ðồng Duyệt: Tâm, ý thì luôn luôn trong sáng, vui vẻ…

d) Kiến Hòa Ðồng Giải: Có những sáng kiến gì cùng đem ra thảo luận, trao đổi và sách tiển cho nhau, để ai nấy cùng lĩnh hội.

e) Giới Hòa Ðồng Tu: Cùng a cải cùng nhau chung hưởng, và quân phân một cách đồng đều, không có kẻ nhiều, người ít, là mầm tôn trọng một kỷ luật chung.

g) Lợi Hòa Ðồng Quân: Có củ mống phát sinh sự bất hòa.

Vậy “Lục Hòa” là khuôn thước giúp cho con người xây dựng một cuộc sống an vui, tự tại ở ngay trên cõi đời này, chứ chẳng phải tìm thiên đường ảo vọng ở một nơi xa xôi nào khác…

9 Pháp (Dharmas): Tức chỉ cho muôn sự muôn vật ( tous lesêtres) ở thế gian, gồm có con người và các loài hữu tình, vô tình, như côn trùng, thảo mộc và mọi sự kiện, sự vật, đều gọi là Pháp cả. Tuy nhiên, Pháp nào cũng do nhân duyên sinh.

Ðịnh nghĩa theo phương pháp cổ điển thì Pháp là tất cả “khuôn phép”, nó bao hàm mọi vật, cụ thể hay trừu tượng, và như trong Duy Thức Học (Vijnàavada) nói: “nhậm trì tự tánh quỹ sinh vật giải”; mỗi Pháp đều có đặc tính riêng (Khiến ta không nhận thức lầm lẫn các hình thái và tướng trạng của chúng, giữa Cái Này và Cái Kia).

Y theo định nghĩa này, thì cái không cũng là một Pháp, bởi cái Không cũng có đặc tính của nó (Khiến ta có ra được khái niệm về cái Không là khác với cái Có).

Chữ Không ở đây xin hiểu theo nghĩa bản thể luận trong học thuyết Bát Nhã (prajnãparamia), chứ không nên hiểu “Không” là trống không, không có gì, như lông rùa, sừng thỏ…

Còn nói theo Pháp Hoa ( Sađharma pundarikam) thì mỗi loài mỗi vật, “chúng” gồm có mười thứ, cũng gọi là Thập Như Thị:

1.Như Thị Tướng: Hình sắc, tướng trạng của chúng là như thế.

2.Như Thị Tính: Ðặc tính của chúng là như thế.

3.Như Thị Thể: Bản chất của chúng là như thế.

4.Như Thị Lực: Hoạt lực của chúng là như thế.

5.Như Thị Tác: Công năng, tác dụng của chúng là như thế.

6.Như Thị Nhân: Nguyên nhân của chúng là như thế.

7.Như Thị Duyên: Cách thức, duyên nghiệp của chúng là như thế.

8.Như Thị Quả: Kết quả của chúng là như thế.

9.Như Thị Báo: Ảnh hưởng, báo ứng của chúng là như thế.

10. Như Thị Bản Mạt Cứu Cánh: Nguồn gốc rốt ráo của chúng là như thế.

Nói tóm lại, Pháp là chỉ các sự kiện, sự vật và vạn hữu (nghĩa như chữ vạn sự, vạn vật) trong vũ trụ. Mỗi Pháp đều có Tướng, Tính, Thể, Lực, Tác, Nhân, Duyên, Quả, Báo, Bản mạt cứu cánh... gọi theo từ ngữ Phật học là “Chư Pháp Thực Tướng = các Pháp thực tướng của chúng là như thế, nghĩa là “Vạn sự, vạn vật” (tức Nhất Thiết Pháp) Và, do đấy mà, mọi lý luận, mọi quan niệm về Lẽ sống, Cách sống, Lối sống và Mọi sự sống trên đời, đạo Phật đều trình bày một cách chính xác, từ đại thể tới chi tiết của từng sự vật, hiện tượng – “Pháp Nhĩ Như Thị”, muôn vàn sự vật bản lai là như thế đó – Cũng như nói rằng đạo tức là đời, vì đạo cần phải gắn kết với cuộc đời để tồn tại và triển khai. Hay nói cách khác, đạo Phật là Nguồn Sống Của Mọi Sự Sống…

Thập Như Thị, theo đại sư Trí Khải, nhìn từ vị trí “tướng như thị”, ta có thể chứng nghiệm trong một niệm có ba nghìn pháp biến đổi. Ðại sư cắt nghĩa trong trạng thái của một pháp trong “Thập pháp giới” chịu sự chi phối của luật hỗ tương nên biến thành 10x10=100 pháp. 100 pháp này tác dụng với 10 Như Thị 100x10=1000; 1000 Như Thị phối hợp với tam thế giới thành 3000 thế giới (1000x3000 thế giới). Con số 3000 có trong một niệm là con số biến cho sự định hình của các pháp trong vũ trụ bao la.


10 L’Inde dans le monde – Yves Petit – dutaillis, Ancien Directeur du Courrier des Indes et Manu Mulla, Ancien diplomée de I’Université de Bombay – Editions Payot, 1951.

L’Inde, un monde en transition – Beatrice Pitney Lamb – Editions Marabout Université – 1966.

- Ấn Ðộ Ngày Nay, Những Nét Ðại Cương, ấn bản của Toà Tổng Lãnh sự Ấn Ðộ tại Sàigòn, 1970.


11 Nhân Chủng Dravidien: có rất nhiều vi chủng. Có một số người trước đây có ý kiến là nhân loại không có nhân chủng Dravidien. Nhưng ngày nay người ta đã công nhận có. Nhân chủng Dravidien là một trong 7 Nhân chủng chính là:

a/ Indo-Aryens: Là những người có khuôn mặt bầu dục, mắt lớn và đậm, da trắng, tóc nhiều, thân hình lớn và cân đối. Những người này lai giống rất nhiều.

b/ Dravidiens: Là những người có nước da sậm, vóc người tầm thước, mắt đậm hay đen, mũi rộng, đầu dài, tóc thường quăn.

c/ Mongoloides: Là những người có nước da vàng nhạt, mặt phẳng, mắt xếch và thường hay có hai mí.

d/ Aryo: Dravidiens: Là những người có da nâu sáng (tối đen).

e/ Scytho – Dravidiens: Là những người có đặc tính thuộc loại đầu tròn (brachycéphale), da thường sậm.

f/ Mongolo – Dravidiens: Là kết quả của sự hợp chủng giữa các người Aryo – Dravidiens và Mongoloĩdes. Họ có thân hình trung bình, da sậm, mũi rộng.

g/ Turco – Iraniens: Là những người có thân hình lớn và khỏe, da trắng hơi ngả sang màu vàng đồng, mắt nâu hay sậm, mũi dài và nhỏ (có vẻ giống các người Sémités).  



12 Ngũ Hà: 5 nhánh sông Jhelam, Chenab, Ravi, Béas và Satlédj hợp lại với sông chính Indus thuộc phía tây bắc Ấn Ðộ.

Người ta được biết sông Nile ở Phi Châu đã tạo thành nơi định cư rất trù phú của nền văn minh Ai Cập giữa lòng sa mạc Phi Châu. Sông Tigre và Euphrate ở Trung Ðông cũng đã tạo nền văn minh Lưỡng Hà (Mosopotamie) trong lòng sa mạc Trung Ðông. Hệ thống sông Indus cũng tương tự như vậy.



13 Tìm hiểu thêm.

Ði sâu vào lịch sử ta thấy, Ấn Ðộ tuy là một nước lớn, dân số đông, nhưng lại chia thành nhiều tiểu quốc, Mỗi tiểu quốc có một cơ quan hành chính riêng. Ðấy cũng là sự thiệt thồi, yếu kém về mặt tinh thần cũng như về mặt vật chất của một quốc gia! Hiện tượng này xảy ra trước thời đức Phật xuất thế. Nhưng sau đó, một cuộc vận động cách mạng xã hội bùng nổ (cuộc cách mạng xã hội này xảy ra sau thời đức Phật) và tiếp theo là giai đoạn ổn định và thống nhất của quốc gia Ấn Ðộ, qua các triều đại Maurya – Kushna – Gupta… từ thế kỷ thứ II TTL đến thế kỷ V TL. Sang đầu thế kỷ thứ V thì Ấn Ðộ bị quân Hung Nô (Huns) chiếm đóng và đặc nền thống trị. Năm 121 lại bị Mông Cổ xâm chiếm. Và, sau đó là sự hiện diện của người Anh vào năm 1600, cho đến năm 1876 thì Anh cai trị toàn cõi Ấn Ðộ. Rồi, qua nhiều cuộc vận động đòi quyền sống và giành độc lập của phong trào dân nhân Ấn, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, bền gan và khôn khéo của thánh Mahandas Kkaramchand GHANDHI (1869-1948), mãi đến 15-8-1947, đế quốc Anh mới thực sự chịu trao trả chủ quyền lại cho người Ấn, nhưng lại bắt Ấn phải đứng trong khối liên hiệp Anh. Thêm vào đó nạn phân chia đẳng cấp (truyền kiếp) cũng là một yếu tố làm chậm bước tiến thủ của một quốc gia không ít!...Chế độ đế chế và phong kiến thuở xưa, mọi quyền bính đều do nhà vua và bọn quan lại “truyền tử nhược tôn” nắm giữ. Người dân chỉ biết phục tòng. Hoàn cảnh xã hội và chính trị của nước Ấn Ðộ ngày nay đã hoàn toàn đổi mới.



tải về 1.23 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương