NHẬt bản sự KẾt tinh của các nền văn hóa những nét văn hóa đặc trưng



tải về 223.98 Kb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu13.03.2018
Kích223.98 Kb.
#36469
1   2
GionPontocho, và một số “khu phố hoa” khá nổi tiếng tại Tokyo.

Yosakoi - Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.

Loại hình nghệ thuật cũng được biết đến tại Nhật đó là Yosakoi. Đây là một loại hình nghệ thuật hiện đại đặc trưng của Nhật Bản, được xem là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Nó là một biến thể của điệu múa mùa hè truyền thống Awa Odori, được khai sinh từ tỉnh Kochi vào năm 1954. ‘Yosakoi’ là phương ngữ của Kochi, nghĩa là “Đêm nay mời bạn đến”. Câu nói này đã trở thành tên gọi của điệu múa trong dịp lễ hội của tỉnh Kochi, và từ đó Yosakoi cũng trở thành tên của lễ hội này. 

Là sự kết hợp giữa các động tác múa truyền thống Nhật Bản và âm nhạc hiện đại nên Yosakoi rất sôi động và mạnh mẽ. Các điệu múa thường được dàn dựng cho những đội múa đông người. Ai cũng có thể tham gia múa Yosakoi, bất kể tuổi tác hay giới tính. Đây cũng là sự kiện nổi bật trong các kỳ lễ hội thể thao thường được các trường cấp một, cấp hai và cấp ba ở Nhật tổ chức. Điệu múa đi kèm với các bài dân ca của Kochi với cái tên Yosakoi-Buchi, tức giai điệu Yosakoi.

Bunraku - Nghệ thuật kịch rối độc đáo

Bunraku là nghệ thuật kịch rối chuyên nghiệp của Nhật Bản. Giống như kịch kabuki, bunraku là một hình thức nghệ thuật lâu đời, do tầng lớp thị dân phát triển trong thời kỳ Edo (1603-1867). Từ bunraku có nguồn gốc tương đối mới. Trong số nhiều nhà hát rối của thời kỳ Edo, duy nhất chỉ có Bunraku-za, do Banrakuken Uemura lập nên vào đầu thế kỷ 19 ở Osaka, hoạt động hiệu quả về mặt thương mại trong xã hội Nhật hiện đại, và bunraku trở nên có nghĩa là “kịch rối chuyên nghiệp”.

Biểu diễn bunraku bao gồm 4 yếu tố: các con rối bằng một nửa hoặc 2/3 kích thước người thật; chuyển động của các con rối do những người điều khiển đảm trách; tiếng nói của các nhân vật do một người kể chuyện gọi là tayu phụ trách; và âm nhạc do một người chơi loại đàn 3 dây gọi là shamisen. Để tăng tính phức tạp, mỗi con rối trong vai các nhân vật chính do 3 người điều khiển.

Rối bunraku không phải được điều khiển bằng dây. Người điều khiển chính dùng tay và bàn tay trái đỡ con rối, đồng thời điều khiển cơ cấu kiểm soát chuyển động của mí mắt, nhãn cầu, lông mày và miệng; còn dùng tay phải điều khiển tay phải của con rối. Người trợ lý thứ nhất chỉ phụ trách điều khiển tay trái con rối trong khi người trợ lý thứ 2 điều khiển 2 chân của con rối.Những người điều khiển các con rối thường mặc quần áo đen, chỉ người điều khiển chính để hở mặt còn các trợ lý thậm chí chụp kín đầu để trở nên “vô hình” trong mắt khán giả. Một người tayu phải lồng tiếng cho tất cả các con rối trên sân khấu, bao gồm cả nhân vật đàn ông, phụ nữ lẫn trẻ em, nên giọng nói phải có âm vực rộng.

Một đặc điểm nổi bật về âm thanh trong bunraku là tiếng nhạc trầm du dương của đàn shamisen, trái ngược với âm thanh cao của đàn shamisen tenor trong kịch kabuki. Trong kịch kabuki có thể sử dụng giàn nhạc gồm 10 đàn shamisen trở lên nhưng trong bunraku thông thường chỉ có một nhạc công mà thôi. Trong bunraku, chuyển động của các con rối phải khớp với câu chuyện kể của tayu và âm thanh đàn shamisen. Nhạc công chơi shamisen thông thường là người quyết định tốc độ kể chuyện và thời gian đối với hành động của con rối.

Về lịch sử của nghệ thuật rối Nhật Bản, những sách đầu tiên có ghi lại là vào thế kỷ 11. Người ta cho rằng thậm chí trước đó, những thợ săn lang thang đã kiếm tiền thêm bằng cách dùng các con rối nhỏ diễn kịch mua vui tại các thị trấn. Về sau nhiều người định cư tại Sanjo trên đảo Awaji, nơi sinh ra ngành kịch rối chuyên nghiệp.

Trong thế kỷ 15 và 16, những người mù hát rong kể chuyện lịch sử thường dùng biwa, một loại đàn có nguồn gốc từ Ba Tư, gần giống với đàn tì bà của Việt Nam. Rồi cách kể chuyện thay đổi đáng kể vào thế kỷ 16 với sự phát triển của hình thức kể chuyện gọi là joruri. Cũng trong khoảng thời gian đó, đàn shamisen được đưa từ Okinawa đến Nhật Bản và được những người kể chuyện joruri ưa chuộng hơn đàn biwa. Trong khi đó, những người chơi shamisen sáng tác ra các khúc nhạc mới, có ảnh hưởng đến cách kể chuyện joruri. Sự phối hợp này là khởi nguồn của bunraku, tạo sự hấp dẫn cho tầng lớp thị dân, những người ở thang bậc thấp trong xã hội nhưng dần dần chi phối về kinh tế, nghệ thuật và văn hóa trong thời đại mới.

Vào giữa thế kỷ 17, nhà hát rối phát triển mạnh mẽ ở Osaka và Kyoto, nơi những người biểu diễn rối và người kể chuyện joruri có nhiều sáng tạo mới về nghệ thuật. Trong thời kỳ này, sự phối hợp giữa nghệ sĩ kể chuyện tài ba Takemoto Gidayu I ở Osaka và nhà viết kịch vĩ đại nhất thời kỳ Edo, ông Chikamatsu Monzaemon, đã góp phần chuyển bunraku từ một hình thức giải trí quần chúng thành nhà hát nghệ thuật. Vào thế kỷ 18, nhiều kỹ thuật như chuyển động mí mắt và miệng được phát minh và hiện vẫn sử dụng trong bunraku ngày nay.

Có thể nói kịch kabuki và kịch rối bunraku có những mối liên hệ qua lại. Các diễn viên kabuki chịu ảnh hưởng bởi phong cách của những người kể chuyện trong bunraku và thậm chí bắt chước những điệu bộ được cách điệu hóa của các con rối. Ngược lại, nếu một sáng tạo nhất định trong kabuki làm khán giả vui thích, những người trong ngành bunraku sẽ đưa vào các tác phẩm của họ. Do bị kịch kabuki dần dần lấn át, bunraku trở nên suy sút từ nửa sau thế kỷ 18, tuy các nghệ sĩ biểu diễn đã đạt những đỉnh cao mới về nghệ thuật và kỹ thuật. Rồi trong bối cảnh người Nhật quay sang các hình thức nghệ thuật sân khấu phương Tây và phát triển nhà hát hiện đại riêng, bunraku không thể cạnh tranh thu hút khán giả. Sau thế chiến 2, bunraku bị lu mờ vì nhiều người Nhật xa rời những khía cạnh truyền thống trong văn hóa, và vào đầu thập niên 60, môn nghệ thuật này gần như trở nên không có giá trị thương mại.

Bunraku tồn tại được chủ yếu là nhờ sự hỗ trợ của chính phủ cũng như việc thành lập Nhà hát quốc gia ở Tokyo và Nhà hát bunraku quốc gia ở Osaka. Bunraku hồi sinh như hiện nay là nhờ một xu hướng mới tôn trọng truyền thống trong thanh niên Nhật.



- Đời sống văn học

Văn học Nhật Bản là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh của các bộ tộc Nhật Bản, rất lâu trước khi quốc gia Nhật Bản được thành lập. Chúng ta không biết ngọn nguồn của văn học thành văn Nhật Bản khởi điểm chính xác từ khi nào, chỉ có thể ước định qua những tác phẩm khởi nguyên của văn học Nhật Bản vẫn được đánh giá là kiệt tác cổ điển như Vạn diệp tập thế kỷ thứ 8, thi tuyển tập hợp 3 thế kỷ thi ca trước đó của Nhật Bản và các cuốn sử Cổ sự ký và Nhật Bản thư ký văn bản hóa các truyền thuyết, huyền thoại lập quốc Nhật Bản.

Theo một số học giả có lẽ do ảnh hưởng của Âu châu luận, lịch sử văn học Nhật Bản có thể được chia ra 3 thời kỳ chính: Cổ đại, Trung cổ và Hiện đại, tương đương với cách phân kỳ lịch sử kinh điển thường gặp trong văn học phương Tây. Tuy nhiên, trong cuốn Nhật Bản văn học toàn sử do Tokyo Kodanshā xuất bản, văn học Nhật Bản được chia làm 6 thời kỳ ứng với 6 tập của cuốn sách: Thượng đại, Trung cổ, Trung thế, Cận thế, Cận đại và Hiện đại.

Các tác phẩm đầu tiên của văn học Nhật Bản bao gồm hai cuốn sách lịch sử Kojiki và Nihon Shoki cũng như tập thơ từ thế kỷ thứ 8 Man'yōshū, tất cả đều được viết bằng Hán tự. Vào giai đoạn đầu của thời kỳ Heian, hệ thống kí tự kana (Hiragana và Katakana) ra đời. Cuốn tiểu thuyết The Tale of the Bamboo Cutter được coi là tác phẩm kí sự lâu đời nhất của Nhật. Một hồi ký về cuộc đời trong cung cấm được ghi trong cuốn The Pillow Book, viết bởi Sei Shōnagon, trong khi Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu thường được coi là tiểu thuyết đầu tiên trên thế giới. Trong thời kỳ Edo, văn học không thực sự phát triển trong giới Samurai như trong tầng lớp người chōnin. Yomihon, là một ví dụ, đã trở nên nổi tiếng và tiết lộ sự thay đổi sâu kín này trong giới độc giả cũng như tác giả thời kỳ này. Thời kỳ Minh Trị chứng kiến một giai đoạn đi xuống trong các thể loại văn học truyền thống của Nhật, trong thời kỳ này thì văn học Nhật chịu nhiều ảnh hưởng từ văn học phương Tây. Natsume Sōseki và Mori Ōgai được coi là những văn hào tiểu thuyết "hiện đại" đầu tiên của Nhật, tiếp đó có thể kể đến Akutagawa Ryūnosuke, Tanizaki Jun'ichirō, Yasunari Kawabata, Yukio Mishima và gần đây hơn là Haruki Murakami. Nhật Bản có hai nhà văn từng đoạt giải Nobel là Yasunari Kawabata(1968) và Kenzaburo Oe (1994).

Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng được biết đến thông qua các loại truyện tranh và tranh biếm họa, hay còn gọi là Manga. Manga được xem là từ đặc biệt để chỉ riêng truyện tranh xuất phát từ Nhật Bản. Đa số người Nhật xem Manga là một món ăn tinh thần không thể thiếu. Ngày nay, Manga không chỉ rất phổ biến ở Nhật mà còn ở nhiều quốc gia tên thế giới, thu hút được sự quan tâm của rất nhiều người thích truyện tranh.

- Thưởng thứ trà đạo Nhật Bản

Đối với người Nhật, uống trà là cả một nghệ thuật, một nghi lễ. Theo ý nghĩa thông thường, nghệ thuật là cái hay, cái đẹp để người ta chiêm nghiệm qua các giác quan từ đó ngưỡng mộ bởi trình độ, tài năng, kỹ năng, kỹ xảo cao vượt lên trên mức thông thường phổ biến hoặc khi một nghề nghiệp nào đó được thực hiện ở mức độ hoàn hảo với trình độ điêu luyện. Tại đây có sự tổng hợp của tính sáng tạo nghệ thuật, tính cảm thụ tự nhiên, tư tưởng tôn giáo và sự xã giao.

Trà đạo ở Nhật được thế giới biết đến như một lối sống truyền thống của người Nhật chính - là nghệ thuật dùng trà ở mức độ hoàn hảo, tuân theo những quy định chặt chẽ. Sở dĩ như vậy bởi lẽ trà đạo đưa con người đạt tới tinh thần “hoà kính tịch mịch”.

Phong tục uống trà xuất hiện ở Nhật Bản khoảng đầu thế kỷ thứ VIII cùng với sự ảnh hưởng của Phật giáo. Khoảng từ thế kỷ XII, khi các thiền sư Nhật Bản từ Trung Quốc trở về mang theo lối uống trà mới kiểu Tống với một loại trà xanh được tán mịn gọi là mạt trà (matcha) thì tục uống trà trở thành phổ biến. Suốt thời Trung thế, việc uống trà đã lan rộng từ các thiền viện tới nơi dân chúng với những phong cách mang tính thẩm mỹ khác nhau. Các hội uống trà và thi hương vị trà đã thu hút chú ý của cả Thiên hoàng và các tướng quân, các nhà buôn giàu có. Mặc dù việc uống trà không phải dành riêng cho các thiền viện, nhưng trà lễ (Sarei) với tư cách là các quy tắc và nghi thức tỉ mỉ cho việc pha và uống trà là do các thiền sư tạo ra. Sarei mang nhiều đặc tính của Thiền, trong đó sự thanh tịnh, tính giản dị và mộc mạc đã trở thành những đặc trưng thẩm mỹ và uống trà, do đó, dần dần trở thành một nghi lễ có tính nghệ thuật. Trà đạo với những đặc tính thẩm mỹ mà chúng ta được biết đến ngày nay đã đạt được sự phát triển đầy đủ từ thế kỷ thứ XVI.

Trà đạo xuất hiện từ cùng lúc với nghi lễ cắm hoa và uống rượu sakê. Uống trà phải kết hợp nhiều đặc tính: Sự hài hoà giữa các đồ uống, tôn trọng ấm chén và khách, thể xác và tâm hồn phải trong sạch, phải đạt được sự tĩnh tâm theo tinh thần thần đạo. Vì vậy phòng trà phải hẹp, thể hiện sự khiêm tốn, nguyên liệu xây dựng và các đường nét phải giản dị, trang trọng, phải sử dụng các công cụ bằng tre hoặc các vật liệu bình thường khác, tránh khoe giàu sang. Trà đạo thể hiện lòng tin, tìm ý nghĩa sâu sắc, vẻ đẹp trong phong cách đơn giản.

Trà đạo vừa là một thú vui thanh tao đồng thời vừa thể hiện một nét đẹp trong văn hoá lối sống truyền thống của người Nhật. Ở trà đạo, ta tìm thấy mối quan hệ đồng hoà khí giữa con người với nhau như là tình bạn hữu, tìm thấy sự tôn trọng, lòng tin. Sự bình đẳng xã hội trong trà đạo phải chăng chính là ước muốn lý tưởng về một xã hội thực tế. Khi lạc vào nghệ thuật uống trà đạo khiến cho con người ta có cảm tưởng rằng đó gần như trạng thái của cõi niết bàn của Phật giáo- trạng thái vắng lặng, tịch diệt, sống an nhiên tự tại, vô ngã vị tha…

Có thể nói rằng trà đạo là một nét đẹp trong văn hoá lối sống truyền thống của người Nhật. Trà đạo thể hiện nét đẹp nội tâm của con người Nhật. Đằng sau cuộc sống náo nhiệt, sôi động của cường quốc có nền kinh tế phát triển, trà đạo đã tìm được chỗ đứng vững chắc của mình gần 7 thế kỷ trong lịch sử văn hoá Nhật. Nó thể hiện những giá trị tinh thần đầy chất nhân văn. Và trong xã hội ngày càng hiện đại như Nhật Bản thì trà đạo là một giá trị văn hoá lịch sử truyền thống được củng cố, đề cao và mở rộng.

- Độc đáo nghệ thuật cắm hoa (Ikebana).

Cắm hoa nghệ thuật (Ikebana) ở Nhật Bản còn được gọi là Hoa đạo (Kadò), có nguồn gốc từ nghi lễ dâng hoa trong các chùa chiền từ thế kỷ thứ VI, rồi dần dần phát triển thành một nghệ thuật vào khoảng thế kỷ thứ XV với nhiều nghi thức và trường phái khác nhau. Hoa đạo khác với cắm hoa thông thường ở chỗ nó đem lại sự nhận thức về mối liên quan giữa không gian xung quanh với hoa và cành lá, cách bố cục cành lá, việc lựa chọn hoa cũng như cây được sử dụng làm vật liệu.

Một phong cách cắm hoa cổ điển và phức tạp có từ xưa, gọi là rikka (hoa đứng). Phong cách này tìm tòi sự thể hiện vẻ tráng lệ của thiên nhiên, quy ước rằng hoa phải được cắm theo hình núi Sumeru, một ngọn núi huyền thoại của thế giới nhà Phật tượng trưng cho toàn vũ trụ. Các vật liệu được sử dụng cho lối cắm hoa này đều có tính tượng trưng. Phong cách này đạt tới độ hoàng kim vào thế kỷ XVII, nay không còn phổ biến nữa.

Từ thế kỷ thứ XV xuất hiện lối cắm hoa tự nhiên. Các ngôi nhà dù nhỏ đều có Kotonoma- một không gian nhỏ thụt vào của căn phòng để đặt các đồ mỹ nghệ hay để cắm hoa. Các luật lệ cắm hoa theo đó trở nên giản đơn để mọi người đều có thể thưởng thức được. Cuối thể kỷ XVI có lối cắm hoa tự nhiên gọi là nageire (quăng vào) như là một phần của nghi lễ trà đạo. Hoa được sử dụng trong trà đạo được gọi là chabana (trà hoa), chỉ cần một bông hoa trong một bình hoa tạo nên cảm giác giản dị, thuần khiết, thanh tao. Cắm hoa hiện đại mang ảnh hưởng nhiều của văn hoá phương Tây. Phong cách cắm hoa moribana (một rừng hoa) đã mở đường tự do cho nghệ thuật cắm hoa, tìm cách thu nhỏ một phong cảnh hay một mảnh vườn. Đó là phong cách cắm hoa có thể thưởng thức được ở bất cứ đâu và thích hợp với mọi khung cảnh.

Ngày nay ở Nhật Bản có khoảng 3000 trường phái ikebana, trong số đó 3 trường phái có tiếng nhất là Ikenobò, Ohara và Sògetsu, với những quy luật có thể khác nhau về quan niệm, về ý tưởng, về phương pháp,. Mặc dù vậy, những trường phái nàyđều tựu trung lại một điểm là tình yêu thiên nhiên được nâng lên thành nghệ thuật.

- Nét văn hóa trong Sumo

Nhật Bản là nơi duy nhất môn Sumo được luyện tập, biểu diễn và thi đấu một cách chuyên nghiệp. Các võ sĩ Sumo (rikishi) thường được huấn luyện từ nhỏ và ở cùng nhau trong các trung tâm huấn luyện. Họ phải tuân theo những nguyên tắc, truyền thống nghiêm ngặt (quy định bởi Hiệp hội Sumo) chi phối mọi mặt từ thực đơn ăn uống hằng ngày cho đến trang phục, hành vi .v.v.

Sumo xuất hiện khoảng 1500 năm trước và bắt nguồn từ tôn giáo, một nghi thức đi kèm với các điệu múa linh thiêng dâng lên các vị thần đạo Shinto để cầu nguyện cho mùa màng bội thu. Rất nhiều các nghi lễ mang đậm tính tôn giáo vẫn được giữ mãi cho đến ngày nay. Vào thời Nara, Sumo được giới thiệu đến giai cấp vua chúa tại Nhật và một giải đấu bắt đầu được tổ chức hằng năm. Các quy luật và kỹ thuật thi đấu bắt đầu được hình thành. Khoảng năm 1192, chiến tranh bắt đầu nổ ra và Sumo được đưa vào huấn luyện trong quân đội. Sau khi tướng Tokugawa thống nhất Nhật Bản và bắt đầu thời kỳ Edo thịnh vượng, các nhóm võ sĩ Sumo chuyên nghiệp hình thành (chính là các Samurai hoặc Ronin cần kiếm thêm thu nhập) và Sumo trở thành môn thể thao chính thống của Nhật Bản. Hiệp hôi Sumo Nhật Bản ngày nay chính là bắt nguồn từ những nhóm võ sĩ Sumo thời kỳ Edo.

Trận đấu Sumo diễn ra trên sàn đấu bằng đất sét với 1 lớp cát rải lên trên. Các phần khác nhau của sàn đấu được đánh dấu bằng các bao rơm. Võ sĩ sẽ thi đấu trong một vòng tròn đường kính 4,55 met gọi là Dohyo. Phía trên vòng Dohyo là một cái trần được treo bằng dây cáp mô phỏng đền thờ đạo Shinto gọi là Tsuriyane. Một trận đấu thường diễn ra rất nhanh, chỉ vài giây đến 1 phút, và tất cả các hình thức như đấm, đá, giật tóc .v.v. đều bị nghiêm cấm. Người thắng trận là người đẩy được đối thủ của mình ra khỏi vòng Dohyo hoặc vật ngã đối thủ, làm cho anh ta chạm đất bằng bất cứ bộ phận nào ngoài lòng bàn chân. Chỉ cần 1 phần gót chân nằm ngoài vòng tròn Dohyo hoặc chạm nhẹ đầu ngón tay xuống mặt sàn đấu, bạn sẽ bị xử thua cuộc. Hiếm khi trọng tài phải phân xử và quyết định người thắng trận khi cả hai võ sĩ chạm đất gần như cùng một lúc và khi đó, người chạm đất trước sẽ giành được phần thắng. Điểm đặc biệt thú vị ở Sumo so với Boxing và các môn đấu vật phương Tây là không hề có quy định về hạng cân. Một võ sĩ Sumo có khi đối đầu với đối thủ nặng gấp đôi trọng lượng của mình.

Sumo là môn thể thao võ thuật rất coi trọng đẳng cấp và mỗi võ sĩ Sumo đều được phân cấp rõ ràng trong một danh sách gọi là Banzuke được phát hành 2 tuần trước mỗi giải đấu. Có 6 đẳng cấp khác nhau: Makuuchi, Juryo, Makushita, Sandanme, Jonidan và Jonokuchi. Chỉ những võ sĩ nào đã đạt đến đẳng cấp Juryo trở lên mới được xem là võ sĩ Sumo chuyên nghiệp thật sự, được gọi là Sekitori và được trả lương. Đẳng cấp cao nhất là Makuuchi được chia thành 5 cấp bậc: Yokozuna, Ozeki, Sekiwake, Komusubi và Maegashira. Cấp bậc Yokozuna (Đại vô địch) là cấp bậc cao quý nhất và chỉ một số ít võ sĩ đạt được danh hiệu này.

Sumo chuyên nghiệp được quản lý bởi Hiệp hội Sumo, gồm các thành viên được gọi là Oyakata, vốn là võ sĩ trước đây. Các võ sĩ Sumo sống và luyện tập cùng nhau trong các trường huấn luyện riêng điểu hành bởi 1 Oyakata. Hiệp hội Sumo và đẳng cấp của họ quy định rất chi tiết và nghiêm ngặt tất cả các hành vi ứng xử, trang phục, thực đơn ăn uống và hầu hết các mặt trong đời sống. Một võ sĩ Sumo phải để tóc dài và búi lên theo kiểu như các Samurai thời Edo, mỗi đẳng cấp võ sĩ khác nhau sẽ có kiểu búi tóc khác nhau. Khi tiếp xúc với công chúng, họ phải mặc trang phục truyền thống tùy theo đẳng cấp của mình. Từ đẳng cấp Jonidan trở xuống, các võ sĩ mặc trang phục truyền thống Yukata và dép Geta. Đẳng cấp cao hơn (Makushita và Sandanme) họ có thể mặc thêm 1 chiếc áo khoác ngắn trang trí theo kiểu truyền thống bên ngoài áo Yukata và mang dáp Zori. Những võ sĩ đã được công nhận là Sekitori thì mặc áo choàng bằng lụa và họ cũng búi tóc theo kiểu trau chuốt hơn, có tên là Oicho.



Mỗi năm có 6 giải thi đấu Sumo, 3 giải tổ chức tại Tokyo, 1 giải ở Osaka, 1 giải ở Nagoya và 1 ở Fukuoka. Mỗi giải bắt đầu vào ngày Chủ Nhật và kéo dài 15 ngày. Mỗi võ sĩ tham gia sẽ thi đấu 1 trận mỗi ngày. Võ sĩ nào có tỉ lệ thắng cao nhất sẽ giành được chức vô địch. Ngoài cúp vô địch, còn có các giải khác như giải Kantosho trao cho võ sĩ có tinh thần thi đấu cao nhất, giải Ginosho trao cho võ sĩ có kỹ thuật giỏi nhất và giải Shukunsho trao cho võ sĩ dưới cấp Ozeki gây được ấn tượng nhất bằng cách đánh bại nhiều Yokozuna hoặc Ozeki nhất. Để được nhận các giải trên, võ sĩ phải có ít nhất 8 trận thắng trong tổng số 15 trận đấu.

Một nét đặc sắc của Sumo chính là các nghi lễ truyền thống trang nghiêm, đầy màu sắc mà không có bất cứ môn thể thao nào khác có. Một trong số đó là nghi lễ Dohyo-iri, được thực hiện 4 lần trong mỗi ngày thi đấu, 2 lần cho đẳng cấp Juryo và 2 cho đẳng cấp Makuuchi. Các võ sĩ sẽ mặc Kesho-mawashi, một chiếc tạp dề được trang trí công phu bằng các hình thêu với đường viền bằng vàng và một Yokozuna sẽ thực hiện các nghi thức hướng tới thần linh và xua đuổi ma quỷ khỏi sân đấu bằng muối. Trong buổi lễ, các võ sĩ sẽ đứng thành vòng tròn và được giới thiệu tới khán giả. Một nghi lễ khác nữa là diễn ra vào cuối ngày thi đấu sau trận cuối cùng. Một Makuuchi được chọn sẽ lên sàn đấu và nhận chiếc cung từ trọng tài và thực hiện điệu múa với chiếc cung. Nghi lễ này bắt nguồn từ thời Edo khi một võ sĩ Sumo thắng trận đã được ban tặng một chiếc cung và ông đã thực hiện điệu múa này diễn đạt niềm vui chiến thắng.

tải về 223.98 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương