NHÀ TÂy sơn và cao nguyên trung phần bình ðỊnh và VÙNG cao nguyên trung phầN


VÕ CÔNG HÀO HÙNG OANH LIỆT NHẤT CỦA DÂN TỘC CUỐI THẾ KỶ XVIII



tải về 227.97 Kb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích227.97 Kb.
#3556
1   2

VÕ CÔNG HÀO HÙNG OANH LIỆT NHẤT CỦA DÂN TỘC CUỐI THẾ KỶ XVIII
Trở lại việc nhà Tây Sơn chỉ sau 5 năm thành công trong cuộc tranh hùng cùng Trịnh Nguyễn mà đã dám xưng Ðế thì đủ thấy nhà Tây Sơn phải dựa vào một nền tảng cơ sở vững chắt nào đó mới dám làm như thế. Nền tảng cơ sở đó là có được một hậu cần người Thượng và các phiên vương Chiêm Thành hềt lòng thần phục ủng hộ. Các sắc dân Thượng miền Cao Nguyên xưa là thần tử của Chiêm Thành, vì mang họa vong quốc nên các phiên vương Chiêm không ưa gì chúa Nguyễn nhất là dưới thời Trương Phúc Loan, quan quân lộng hành làm nhiều điều bất công càng làm cho dân chúng khắp nơi Kinh, Thượng, Chàm thêm oán ghét nên khi nhà Tây Sơn kéo binh đánh chúa Nguyễn thì tất cả miền Cao Nguyên đến duyên hải khắp nơi từ Kontum, Pleiku. Ðắc Lắc, Ban Mê Thuộc đến Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận đều nức lòng ủng hộ nhà Tây Sơn, chúa Nguyễn phải chạy về đất Gia Ðịnh cố thủ. Nhìn cuộc triệt thoái của quan quân nhà Nguyễn, người viết chợt liên tưởng đến cuộc triệt thoái Cao Nguyên, Quân Ðoàn II của Quân Lực VNCH và tại chiến trường Trị-Thiên Quân Ðoàn I năm 1975 đã làm tinh thần dân quân suy sụp và nhanh chóng dẫn đến tan rã. Trong quyển hồi ký chiến tranh``Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên``và quyển ``Những Uất Hân Trong Trận Chiến Mất Nước 1975``, tác giả Phạm Huấn có làm cuộc phỏng vấn cựu Trung Tướng Vĩnh Lộc, từng là Tư Lệnh Quân Ðoàn II tại chiến trường Cao Nguyên vào những năm 1965-1968, bằng cái nhìn sâu sắc trong chiến lược, Tướng Vĩnh Lộc trước sau vẫn cho rằng vấn đề Thượng vận là yếu tố hệ trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ chiến lược tranh thắng tại chiến trường Cao Nguyên, Tướng Vĩnh Lộc còn phát họa nên kế hoạch hành quân tái chiếm lại Ban Mê Thuộc trong vòng 48 giờ, nhưng việc này đã không được thực hiện khi Thiệu cho tiến hành chiến lược co cụm ``Ðầu Bé Ðít To``, bỏ Vùng II và Vùng I cho Cộng Sản chiếm, rút về tái phối trí, giữ lấy Vùng III và Vùng IV tiếp tục chiến đấu. Nhưng sự việc đã hoàn tòan đi ra ngoài sự dự tính. Ban Mê Thuộc thất thủ ngày 11.2.1975, trong ba ngày 12,13 và 14 kế tiếp vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II, Tướng Phạm Văn Phú đã có kế hoạch phối trí, tái chiếm lại Ban Mê Thuộc; Ðang trên đường tiếp vận, nhiều cánh quân ở khắp các mặt trận đang túc trực, sẵn sàng mở những mũi dùi tiến vào Ban Mê Thuộc thì trưa ngày 14 sau cuộc hộp tại Cam Ranh giữa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cùng các tướng Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, Ðặng Văn Quang và Phạm Văn Phú đã đi dến quyết định rút bỏ Cao Nguyên. Cuộc rút quân kéo dài 9 ngày trên tuyến đường dài 300 cây số từ Pleiku về Phú Bổn, Phú Yên đã trở thành một cuộc di tản đầy bi thảm, làm mục tiêu cho lực lượng CS truy kích, dân và quân mỗi ngày duy chuyển chậm dần vì ứ động kẹt cứng với nhau đã trở thành đích điểm cho CS mặc sức tập bắng, nã trọng pháo. Hàng ngũ dân quân mỗi lúc một rối loạn, hầu như chôn chân tại chổ khi về tới Phú Bổn – Phú Yên, cho dù nhiều binh chủng thiện chiến nhiều lần tình nguyện đi cản hậu đánh trả lại lực lượng truy kích CS, nhưng trong hoàn cảnh tiến thoái đều bị động như thế thì cán cân thiện chiến không thể đặt ra được nữa khi tứ bề chân tay đã bị trói chặt vào hàng ngũ triệt thoái mà nguợc lại chỉ đánh dứ cầm chừng để bảo vệ đoàn quân tiếp tục duy chuyển. Cuộc triệt thoái đã trở thành một thảm họa làm suy sụp hết tinh thần chiến đấu của Quân Lực VNCH. Theo chi tiết trong tư liệu của nhà báo chiến trường Phạm Huấn, người đã luôn theo sát từng giờ, từng ngày bên vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II Phạm Văn Phú và là người có mặt trong suốt cuộc triệt thoái, am hiểu nhiều tình hình và kế hoạch của các cấp chỉ huy đã cho biết không một chiến xa, một khẩu trọng pháo nào mang về tới được Phú Yên. Như thế chiến lược ``Ðầu Bé Ðít To`` mà ông Thiệu dự định thực hiện đã hoàn toàn thất bại. Trên 80 phần trăm quân số trong cuộc rút quân bị tổn thất, và trầm trọng hơn cả là hệ thống chỉ huy cùng kỹ luật quân đội đã bị rối loạn thì lấy gì để tiếp tục chiến đấu? Ðây là một bài học phải trả bằng máu và nước mắt mà trong suốt cuộc chiến tranh 21 năm chống cộng từ sau hiệp định Generve 1954 phân chia đất nước cho đến năm 1975, hoàn toàn chưa có được một cấp chỉ huy nào có đuợc tài năng điều khiển một cuộc triệt thoái cấp Quân Ðoàn. Triệt thoái thành công bằng mọi gía là phải mang yếu tố nhanh chóng, bất ngờ, không để cho đối phương dự đoán được kế hoạch, và nếu có biết ra thì cũng đã cao bay xa chạy thì mới thật là kế hoạch mật nhiện thành công nhất. Mọi khó khăn nhất cho cuộc rút quân là dân và quân mà trộn lẫn với nhau thì thật không có cách nào đi nhanh được, mà ngược lại còn tạo nên rối loạn mất tinh thần, thà để dân ở lại vùng đất cho đối phương tạm chiếm, bảo vệ chủ lực quân đội bằng mọi gía để chờ cơ hội tái chiếm, giải phóng lại toàn thể dân nước mới là thượng sách. Nhưng cuộc triệt thoái ở cấp Quân đoàn qúa đông đảo và to lớn khắp các mặt trận, do đó yếu tố nhanh chóng và bất ngờ khó có thể đặt ra được nữa, mọi động tịnh ngày hôm trước đến hôm sau là đối phương đã biết rõ. Trong lịch sử chiến tranh chỉ có những cuộc thua trận to lớn như Napoléon, Hitler, Thoát Hoan, Tôn Sĩ Nghị...mới diễn ra những cuộc triệt thoái về nước, còn như đang ở thế cân bằng với đối phương thì cách hay nhất là phải thủ thành quyết chiến, kéo dài thời gian để tìm một giải pháp chính trị an toàn ngõ hầu có thể bảo tồn được tất cả quân đội hơn là tự ý rút quân thì chắc chắn sẽ dẫn đến những hậu qủa nguy hại, tự giết lấy mình.. Ngày 30.4.1975 Tướng Phạm Văn Phú đã tự xử mình bằng cái chết theo nạn nước, dù cuộc chiến 21 năm chống cộng thất bại bởi Ðồng Minh và các phù thủy chính trị Quốc tế, kể cả Việt Nam phản bội, đã như đè nặng lên đôi vai, thần trí và máu xương nhũng người con yêu trung thành với Tổ quốc nhất trong những gìờ phúc sau cùng của cuộc chiến, vẫn muốn được nằm xuống bên cạnh đồng bào và chiến hữu, muốn được một lần gói thân về lại cội nguồn đất mẹ. Mở đầu từ cuộc triệt thoái Cao Nguyên đã dần bức tử hết những anh hùng trong cuộc chiến, nhưng thành bại không thể luận anh hùng khi Tướng Phú đã tận lực hết khả năng và trách nhiệm của mình, cách tự xử hào hùng theo nạn nước cũng đã nói lên ý thức chân chính là dù hay hoặc dỡ vẫn sẵn sàng nhận chịu mọi trách nhiệm về hành động của mình. Cùng các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai và biết bao chiến hữu vô số kể nữa đã lấy cái chết để nói lên điều chân chính đó. Tổ quốc không đòi hỏi gì hơn nơi những nguời con đã tận lực hết khả năng và trách nhiệm, cho dù thất bại nhưng đức độ của các vị Tướng trên cũng đã đi vào lịch sử bằng cửa chính chứ không như một số vị đã từng bước tới địa vị Tướng, đã từng đứng trên thiên hạ làm mẫu mực cho mọi người noi theo mà lại lo cao bay xa chạy trước, giờ còn tìm cách thập thò về nước, có khác nào xúi dục dân chúng cùng chịu qui hàng thế lực ma đạo CS, một mai khi cường quyền sụp đổ, mà thực sự nó đã sụp đổ khắp nơi rồi, lúc đó không phải do chính qúi vị làm cho nó sụp thì quí vị đã tự ý đi vào lịch sử bằng cửa hậu, chổ đứng chắc sẽ rất u buồn, đã tự chọn thì còn biết trách cứ vào ai được nữa!..
Cuộc hội binh về núi Tam Ðiệp do Tiết Chế Ngô Văn Sở điều động dưới thời Tây Sơn đã đạt kết qủa tốt khắp các mặt trận, có thể so sánh đây là cuộc thoái binh lớn lao như Quân lực VNCH tại Cao Nguyên năm 1975. Các lộ quân khắp nơi từ địa đầu giới tuyến Việt Bắc đến miền duyên hải như Lạng Sơn, Kinh Bắc, Thái Nguyên, Sơn Tây, Hải Dương...được lệnh trể nhất là trong vòng năm ngày phải hội tụ đầy đủ về ngoại thành Thăng Long bên bờ sông Nhị để tiếp tục mở cuộc triệt thoái về núi Tam Ðiệp. Phần thủy quân giao cho trấn Sơn Nam túc trực chuẩn bị đầy đủ thuyền bè đợi các lộ thủy quân cùng hội về thì tấn phát. Ðoạn đường dài không thua gì Pleiku – Phu Bổn – Phú Yên trong cuộc triệt thoái Cao Nguyên 1975. Quân đội Tây Sơn thủy lục hai mặt đóng giáp từ núi Tam Ðiệp thông ra mặt biển vào tới hải phận Biện Sơn, đặt hai xứ Thanh, Nghệ trong tình trạng khẩn trương báo động. Cuộc triệt thoái được dể dàng tốt đẹp, ngoại trừ Nội Hầu Phan Văn Lân vì không cam tâm rút lui khi hay tin giặc Thanh đã tiến qua khỏi aỉ Nam Quan nên mới dẫn theo 1000 tinh binh, kéo lên mặt Bắc thử sức với quân Thanh. Ðúng như sự tiên đoán của mưu sĩ Ngô Thời Nhậm, quân Thanh mới tới nên sức lực và khí thế còn đầy mạnh mẻ hăng hái, 1000 tinh binh Nội Hầu Lân dẫn theo đều tan rã, chỉ còn mấy chục người thất thiểu trở về. Việc làm của Nội Hầu Lân không khác gì như việc mạo hiểm, trong trận cờ chưa kịp điều quân phối trí được trong việc phòng thủ đất nhà mà đã vội một mình đem Mã đơn độc sang sông, không có sự yểm trợ nào nơi những cánh quân khác có Xa, Pháo, Mã hoặc Chốt thì không thể tranh thắng được với những đạo quân gồm Xa Pháo Mã kể cả Tướng đông gấp ngàn lần đang toàn lực khởi thế công, hùng hổ tiến sâu vào nội địa nước ta. Nội Hầu Lân mà còn mạng trở về là điều hết sức may mắn.

Với khí thế hùng hậu phối hợp giữ ba đạo quân trong thế hổ trợ giữ chính binh, kỳ binh và viện binh, giặc Thanh đang mở ba mủi dùi từ mặt Tuyên Quang - Cao Bằng - Lạng Sơn tiến sâu vào nội địa nước ta. Binh số các tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Quảng Ðông, Quảng Tây gộp lại trên 20 vạn, giặc Thanh nghĩ sẽ đủ sức làm cỏ nước ta. Chính vì tránh thế hung hãn, những đòn tối độc của giặc tung ra ở bước đầu như cuộc xâm lăng của nhà Nguyên vào nước ta ở thế kỷ thứ XIII mà toàn Bộ Tham Mưu dưới quyền Tiết Chế Ngô Văn Sở đã đi đến quyết định bỏ ngõ tất cả mọi mặt trận kể cả Bắc Thành ( Thăng Long lúc đó được đổi tên là Bắc Thành vì nhà Tây Sơn không chọn nơi này làm kinh đô có vua cai trị) để bảo toàn chủ lực, tất cả các lộ quân đồng lúc phải triệt thoái về núi Tam Ðiệp, thủy bộ hai mặt liên kết một chiến tuyến dài ra tới hải phận Biện Sơn và tức tốc cấp báo về Phú Xuân cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ biết.

Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân, Bắc Bình Vương làm lễ tế cáo Trời Ðất, lên ngôi Hoàng Ðế lấy niên hiệu là Quang Trung, ngay hôm đăng quang nhà vua ra lệnh tấn phát, đốc xuất tất cả mọi tướng sĩ thủy bộ hai mặt dưới cờ đồng tiến nhanh ra Nghệ An để chuẩn bị hiệp cùng các đạo quân ở núi Tam Ðiệp và mở những mũi dùi tiến thẳng ra đất Bắc, quyết đánh cho các tướng sĩ nhà Thanh không còn một manh giáp để thu hồi lại toàn thể chủ quyền quốc gia trên khắp mọi miền đất nước.

Ðể đối lại với ba đạo quân Thanh, vua Quang Trung cũng đã cho mở ra ba mủi dùi tấn công. Hai đạo quân bên phải và trái, mỗi đạo lại phân thêm ra làm hai cánh để tạo thế trận ứng tiếp, gây thanh thế hư thực, đồng thời có nhiệm vụ bao vây tiêu diệt địch khi trung quân của vua Quang Trung từ núi Tam Ðiệp tiến thẳng ra Sơn Nam, Thanh Liêm, Nhật Tảo, Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Thăng Long cả một phòng tuyến dài do sự xếp đặt của Tôn Sĩ Nghị đều bị đánh tan rã trong chớp nhoáng. Nhìn qua thì thấy rõ quân Nam có ba đạo chính binh tiến ra giải phóng Bắc Hà, nhưng trong chính binh lại có cả kỳ binh và viện binh, bao gồm cả năm mủi tấn công, lối dụng binh thần tốc của vua Quang Trung, hư thực làm cho đối phương không biết đường nào trở tay như thế thì việc đánh bại đại quân Tôn Sĩ Nghị, lấy đầu hàng ngũ tướng tá tham mưu nhà Thanh dể dàng như lật bàn tay. Các danh tướng từ xưa đến nay dùng quân số ít nhưng vẫn áp đảo được quân số đông của đối phương là nhờ tài quyền biến, kế hoạch hành quân đầy chu toàn và mật nhiệm hơn người trong lẽ ``tri kỷ, tri bỉ, bách chiến, bách thắng.`` Ðiều này trước khi xuất trận, vua Quang Trung đã tuyên bố trước ba quân trong tiếng reo hò long trời dậy đất, khí thế hào hùng bạt ngàn cả sông núi:



``Ta đến mà địch không biết, là địch ngủ ta thức.

Ta đánh mà địch không đề phòng là ta chém kẻ tay không``

Một đạo do Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Lộc và Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy gồm cả thủy bộ hai mặt, Ðại Ðô Ðốc Lộc mang quân án ngữ vùng Phượng Nhã, Yên Thế, Lạng Sơn chận đường rút lui của định, Ðại Ðô Ðốc Tuyết chỉ huy thủy binh và giữ nhiệm vụ kinh lược Hải Dương, giữ thế tiến thủ nơi mặt Ðông, phòng khi tình thế chiến trường cần viện binh ở các tỉnh thì thủy bộ hai mặt có thể dể dàng ứng tiếp liên lạc. Nhưng kế hoạch viện binh chỉ để phòng hậu họan, mà thực sự không hề được xử dụng tới khi quân ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình ở khắp các mặt trận.

Một đạo bộ binh Thiết Giáp gồm ngựa chiến và voi chiến dưới quyền chỉ huy của Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Bảo và Ðại Ðô Ðốc Ðặng Văn Long. Ðại Ðô Ðốc Bảo chỉ huy tượng binh từ vùng Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Ðông) tiến ra làng Ðại Áng (Thanh Trì, Hà Ðông) để tạo thế gọng kềm tiêu diệt quân Thanh từ đồn Ngọc Hồi tháo chạy khi bị trung quân của vua Quang Trung đánh vở ra từng mảnh vụn. Ðại Ðô Ðốc Long chỉ huy mã binh tiến từ huyện Chương Ðức vào, các tiền đồn Yên Quyết, Nhân Mục lần lược bị hạ, đến Khương Thượng là chốt cuối cùng nằm về hướng tây nam thành Thăng Long, từ mờ sáng tinh sương, dân chúng và binh sĩ đã dùng rơm quấn cùng củi khô, tẩm dầu đốt cháy rực khắp bốn mặt đồn, quân sĩ reo hò vang dậy, hăng hái phá đồn, tiến như vũ bảo phá sập các đê điều, chẳng bao lâu binh mã của Ðại Ðô Ðốc Long đã tràn ngập hết các mặt đồn, tướng chỉ huy là Sầm Nghi Ðống và binh sĩ dưói quyền hết sức kinh hải, không chống cự nổi sức đánh như che tre của quân Nam. Ðống cùng một số tùy tùng bỏ trốn ra gò Ðống Ða, đến đường cùng phải treo cổ tự tử. Một lần nữa gọng kềm lại mở ra thêm một cánh nơi Ðại Ðô Ðốc Long, quân Thanh không còn bị lưỡng đầu thọ địch nữa mà là bị tam đầu thọ địch, Ðại bản doanh Tây Long nơi Tôn Sĩ Nghị đóng quân và khắp trong ngoài kinh thành Thăng Long trong thời gian ngắn quân Thanh đều bị đánh tan rã bởi ba gọng kềm khép chặt của Ðại Ðô Ðốc Long, Ðại Ðô Ðốc Bảo, và trung quân của vua Quang Trung.

Với tài điều binh trăm trận trăm thắng của vua Quang Trung thì chắc chắn người như Tôn Sĩ Nghị một tướng soái trong thời bình, chưa bao giờ biết tới chiến tranh chứ đừng nói là chạm trán với Danh Tướng Nguyễn Huệ đã từng Nam chinh, Bắc chiến, dụng binh từ thửa thiếu thời ngang dọc khắp các trận mạc, lập nghiệp trên mình voi, yên ngựa để có ngày bước lên ngôi Hoàng Ðế thì Tôn Sĩ Nghị qủa thật hoàn toàn không biết người biết mình chút nào cả nên mới điên rồ mạo hiểm mang quân vào nước Ðại Việt để chuốt lấy những thảm bại nhục nhã. Nghị dù có thông minh tài trí mấy cũng không ngờ rằng lối dụng binh của vua Quang Trung qúa thần tốc, tiến thoái tựa mây trôi sấm bảo, mới ngày nào Nghị còn mơ màng trong trướng phủ, đắc ý nghĩ đến chiến lược tầm ăn lá dâu, dẫm lại con đường xưa cũ của Lữ Nghị, Hoàng Phúc, Trương Phụ thời nhà Minh đã đi là cố thôn tính đô hộ, đồng hóa Ðại Việt dần thành một quận huyện của Tàu. Nhưng than ôi! Giấc hồ chưa thực hiện, nơi trướng phủ còn đang mơ màng thì có tin sét đánh ngang tai: Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Yên Quyết, Nhân Mục, Khương Thượng đến Hải Dương đều thất thủ, Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Ðống và các tướng tiên phong Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng đều tử trận. Tôn Sĩ Nghị điếng hồn vì chân tay tả hữu của mình hoàn toàn bị chặt đứt. Một chiến tuyến dài từ niềm duyên hải Sơn Nam nay thuộc Nam Ðịnh lên tới Bắc Thành-Thăng Long, ra tới mặt trận Hải Dương đều tan rã trong một thời gian ngắn. Nghị muốn cầu viện cánh quân Vân Nam-Qúi Châu đang đóng ở Sơn Tây thì còn xa xôi qúa! Không biềt chừng nghe tin chủ tướng đại bại nên hàng ngũ tướng tá đã khiếp đảm, sợ phải bị mang họa như Liễu Thăng năm xưa, và có thể đang trên đường tháo lui về lại cố quốc. Việc này Sĩ Nghị đã tiên đoán đúng nên trong trăm ngàn kế, chỉ có kế trực chỉ Nam Quan, quăng tất cả ấn tín, áo mão cân đai, cờ quạt chạy tháo thân về lại cố quốc là thượng sách. Chiến lược tầm ăn lá dâu, bước lại con đường thời nhà Minh trước, trong bước đầu đã hoàn toàn bị vụa Quang Trung đập tan nát, vẫy chết từ trong trứng nước. Vua Quang Trung đã thấu rõ tận tường bước hành binh của Tôn Sĩ Nghị, xem đó chẳng khác sự múa may quay cuồng của đàn dê đứng trước mặt chúa sơn lâm. việc này đã được vua Quang Trung khẳng định trong lần hội quân tại núi Tam Ðiệp:



``Chúng nó sang phen này là tự mua lấy cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này,

thân coi viêc quân, đánh giữ đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua

10 ngày là xong việc.``

Chiều ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (30-1-1789), Vua Quang Trung cùng toàn quân tiến vào thành Thăng Long trong nổi vui mừng hạnh ngộ giữa dân quân đón chào ngày giải phóng, trong tiếng reo hò vang dậy khắp kinh thành.Chiếc áo bào đỏ tượng trưng cho ngọn cờ đào và chiếc khăn vàng quấn trên cổ áo Vua Quang Trung tượng trưng cho mặt trời công nghĩa đều đã ngã màu thuốc súng sạm đen sau bao ngày chỉ huy quân binh ngoài mặt trận. Oai linh của dân tộc một lần nữa đã làm sống dậy những trang sử chống ngoại xâm đầy hào hùng. Thành Thăng Long khắp nơi đều tưng bừng mở hội ăn tết khai hạ theo lời hứa của Vua Quang Trung sau bảy ngày quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi. Ngọn cờ đào in hình mặt trời vàng đứng giữa, hòa lẫn cùng anh linh, máu xương các chiến sĩ đã gốp công trong khắp cuộc chinh phạt, đập tan nát mọi ý đồ xâm lăng của đế quốc Bắc Phương, hôm nay đứng sừng sửng tung bay trên kỳ đài Thăng Long.



BẢN ÐỒ ÐẠI PHÁ QUÂN THANH



THAY LỜI CUỐI

Nhũng việc cần làm ngày hôm nay đối với những ai còn quan tâm đến đất nước là phải trường kỳ và triệt để khai thông những bế tắc của lịch sừ để gốp phần xây dựng tiến trình dân chủ hóa đất nước. Cộng sản chính là một bế tắc của lịch sử, tập hợp những ý tưởng và hành động sai lầm trong các chế độ độc tài phong kiến xa xưa nối dài, vì thế mà CS đang bị phá sản khắp nơi. Tìm những từ ngữ để diễn tả cho chính xác thì có thể nói rằng CS chính là hệ qủa cuối mùa còn sót lại của những chế độ độc tài phong kiến, còn tồn đọng lại những bất công áp bức và một hệ thống hành chánh còn đầy dẫy những nhũng lạm, khuynh loát, đầy dẫy nhũng phe cánh tranh chấp quyền lực trong bóng tối. Một trò chơi không có trọng tài, vượt qua mọi hiến định luật pháp quốc gia nên không thể lớn dậy, đi xa và phát huy được hết khả năng cùng tinh thần chính trị mà ngược lại người làm chính trị luôn bị đặt trong tình trạng bất an, như thường trực ngồi trên lò lửa bởi những rối ren trong bóng tối, với những hổn độn bế tắc, ấu đả, thanh toán nhau bằng bạo lực có thể xãy ra bất cứ lúc nào và sẽ dẫn đến nhũng hậu qủa tai hại cho toàn xã hội là giam hảm, bế tắc mọi chính sách, đường hướng và bước đi chung của dân tộc. Nhìn sự việc bao nhiêu năm che dấu, phủ kín màu tang của các phe phía như vụ Võ Nguyên Giáp và Lê Ðức Anh thì thấy rõ, đây không phải là việc mới mẻ độc nhất gì cả mà là một trong những việc đã thường xuyên xãy ra từ lâu trong bóng tối, và nếu có những cái chết bất ngờ, đột ngột xãy ra cho các ông tướng như Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn v.v... thì đó cũng chỉ vì tranh chấp quyền lực, tấn công trước kẻ không đề phòng để giữ thế thượng phong ``tiên hạ thủ vi cường`` thế thôi! Người từng trãi trận mạc như tướng Võ Nguyên Giáp chắc dư sức hiểu điều này. Ðến giờ phút này những người ủng hộ tướng Giáp mới nghĩ đến vai trò trọng tài của luật pháp thì có muộn lắm không? Thế giới CS vốn chủ trương dùng bạo lực để nắm chính quyền, xem luật pháp chỉ như công cụ để bóp méo vo tròn theo mục đích đảng CS, trong qúa khứ đảng đã chểnh chệ ngồi trên luật pháp, độc tài chuyên chế hết tất cả mọi vấn đề nên dẫn theo hậu qủa là luật pháp nằm nơi cửa miệng kẻ nào nắm quyền lực trong tay, mặc sức vẽ trăng vẽ cuội mọi vấn đề theo ý riêng kể cả học thuyết Mác-LêNin, và gần đây nhất bổng nhiên lại thai nghén từ đâu ra thêm``Tư Tưởng HCM`` chắc chỉ để dụ gạt người quê mùa chất phát, còn những ai có chút hiểu biết đều đã khước từ nó từ lâu rồi! Bộ chính trị và các đảng ủy đảng CS làm việc này đã đành, thế nhưng có người bàng quang ngoài cuộc, hoặc vì bị khép kín, sống dưới chế độ CS tuyên truyền lau năm nên lạc lối nhận định, có những phản xạ gần như lập lại những gì đảng CS vẽ bùa phép mị dân, vô tình làm một công việc như Hoàng Cao Khải ngày xưa dụ hàng Phan Ðình Phùng. Hoàng Cao Khải làm tay sai cho Pháp và tự ví hành động theo Pháp của mình giống như người con gái đã lấy chồng trong câu chuyện Tam Quốc bên Tàu. Chúa Ðông Ngô là Tôn Quyền có hai người em gái, một gã cho Châu Du tức Châu Công Cẩn và một gã cho Lưu Bị. Châu Công Cẩn, Lưu Bị và Tào Tháo lại ở vào tư thế phân lập tranh hùng với nhau giữa ba nước.

``Ai về nhắn với Châu Công Cẩn,

Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.``

Thời hoàng kim cực thịnh của đế quốc thực dân Pháp mà Hoàng Cao Khải phải dụ hàng đến muốn đứt hơi nhưng vẫn không lay chuyển được ý chí sắt đá của Phan Ðình Phùng, nói chi hiện tại CS đã tan rã khắp nơi. Ông Hồ dù có tài giỏi tới đâu thì cũng thuộc về qúa khứ lịch sử, thời hoạt động của ông Hồ so với ngày nay đã hoàn toàn khác biệt, những chất xúc tác tạo dựng nên cơ sở chính trị ở những thập niên 30, 40 hoặc 50 cho đến nay đã hoàn toàn không phù hợp nữa, sức sáng tạo đã dần mòn thoi thóp trúc hơi thở nặng nhọc, khó khăn trên những bước đường đi qua , nói cho đúng hơn là đã bị hụt hẩn, lệ thuộc vào lịch sử chứ không còn làm chủ bước đi lịch sử được nữa. Có ít lợi gì khi đảng CS cứ đưa hình ảnh ông Hồ ra che chụp lên hết đại khối quốc dân? đảng CS cứ ấu trỉ hồ đồ lẫn lộn giữa hữu hạn và vô hạn, coi bộ đảng CS muốn cho ông Hồ sống mãi như Chúa Ki Tô, Phật Thích Ca hay ít ra như Khổng Tử được các nho gia tôn là bậc thầy muôn đời của thiên hạ``vạn tuế sư biểu`` phải chăng? Ông Hồ là nhà chính trị theo chủ nghĩa CS giờ lại được đảng CS phong tặng cho thêm nhiều quyền năng ghê gớm khác thì xin hỏi những người đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ có thấy đảng CSVN đã vi phạm mọi quyền Tự do cơ bản của người dân và hoàn toàn chặn đứng, đi ngược lại tiến trình Dân chủ hóa đất nước khi đảng CS qúa độc đoán áp đặt những điều sai trái, ép mọi người phải suy tôn ông Hồ như thần thánh, một việc làm nhắm thấy đảng CSVN đã cố tình bức tử toàn khối quốc dân khi đem cái bóng ông Hồ đè chụp mãi lên bước tiến thủ của dân tộc. Nhận định được những nguy hại to lớn, chặn lối tiến trình dân chủ hóa đất nước nên không người Việt Nam nào, nhất là những nhà ly khai một thời đã từng xe tơ kết tóc với đảng CS lại còn mang ý nghĩ ``bỏ thì thương, vươn thì tội`` mà không có can đảm đọan tuyệt hình ảnh Hồ Chí Minh, đọan tuyệt đảng CS, để cho các mầm non tuổi trẻ cứ phải hiểu lầm quý vị làm một công việc thừa hơi như Hoàng Cao Khải.

Nắm được quyền lực thì có thể ngồi trên thiên hạ, ép buộc mọi người làm theo ý mình, khống chế, khuynh đảo cả hiến pháp hoặc luật pháp quốc gia và dể dàng ban hiệu lệnh thiên hạ, muốn ai sống chết đều được cả. Ðây là trò chơi phản dân chủ, đi ngược lại tinh thần chính trị mà nguyên nhân chính phát xuất từ góc rễ độc tài chuyên chế, đảng trị. Nội bộ đảng CS có tranh dành quyền lực đến độ giết hại nhau thì đó cũng là chuyện thường bởi vì vai trò trọng tài luật pháp đã đi vắng từ lâu rồi, không có gì bảo đảm cho ngưòi làm chính trị, những lãnh tụ được sống một cách an nhiên, đàng hoàng hành xử quyền công dân của mình. Mất dân chủ là mất tất cả, phải chịu bị động trói buộc, đứng ngồi như trên đống lửa, ngơm ngớp đề phòng mọi phe cánh âm mưu đảo chánh, giết hại nhau luôn âm thầm diễn ra trong bóng tối. Nghiệp dữ đã sâu lại còn đẻ ra thêm nghiệp dữ nữa như vụ Cục2 lại biến thể dần thành Tổng Cục2 mà tướng Giáp đã kể rỏ các tội trạng nhớp nhúa của cơ quan công an mật vụ này trong một lá thư trước đó. Tướng Giáp muốn dứt điểm sự vụ này, trước tiên đòi hỏi phe cánh tướng Giáp phải có thực quyền trong tay, bằng ngược lại vĩnh viễn sẽ không bao giờ nhân danh được luật pháp, vĩnh viễn sẽ không bao giờ cứu được những người đồng tâm huyết theo tướng Giáp. Nhìn gương Trần Ðộ bị bức tử ra sao sẽ thấy rõ! Mọi mưu toan sẽ như cát vụn, khi có con nước chấp tranh sẽ bị cuốn phăng rã tan khắp hướng. Tranh chấp quyền lực là điều luôn âm thầm nung náu trong các chế độ vương quyền phong kiến xưa cũ, các chế độ độc tài quân phiệt đến đảng trị CS v.v...nói chung các chế độ độc tài đều mang một chứng bịnh nan y này và hoàn toàn không có thuốc chữa!!! Việt Nam muốn thoát khỏi vũng lầy nhược tiểu thì phải sớm biết vận dụng nội lực của toàn dân, mọi đảng phái tổ chức văn hóa, chính trị, kinh tế đều có thể thi đua, cạnh tranh và có thể đối lập như chính trị, chỉ cần hoạt động tích cực đúng theo nguyên tắc Tự do Dân chủ thì mọi việc chắc chắn sẽ an toàn tiến xa đến tương lai tự lực, tự cường. Phần đảng CS chắc không hy vọng gì chấp nhận vai trò đối lập của những đảng phái chính trị khác, bởi vì bản chất độc tài chuyên chế, quen lối lấp ló bí mật, dùng công an bạo lực để thống trị nên không bao giờ chịu hiểu và chấp nhận đối lập, không nhìn thấy những quốc gia đi trước về Dân chủ tại Châu Âu, Canada, Mỹ, Úc, Nhật...tại nghị trường những đảng phái chính trị sẵn sàng bênh vực mổ xẻ mọi đề tài, tranh biện đến tận cùng tận lý, năng nổ hơn mổ bò, hùng biện hơn mưa rào sấm sét, để sau cùng tất cả mọi việc đều phơi bày ra ánh sáng, được báo chí, truyền thanh, truyền hình đăng tải và phổ biến tối đa cho dân chúng đều biết, cuối cùng không hề chết một thằng Tây nào cả, mà ngược lại còn vui vẻ cả làng khi tất cả các đảng phái đều nhận ra những điều sai trái cần phải tương nhượng và đạt đạo được những ý kiến, thành qủa tốt trong việc thay mặt người dân thực hiện mọi yêu sách, thỉnh nguyện cho mọi mục tiêu, chính sách, kế hoạch trị nước an dân.

Ðảng CSVN nếu còn lì lộm cố tình không chịu hiểu những giải pháp Dân chủ chính đáng rất phổ cập trong thời đại hôm nay, mà ngược lại còn cố duy trì một tổ chức độc đoán, công an bạo trị, tạo nguồn gốc, ổ chứa cho những tranh chấp quyền lực thối nát và dẫn dân tộc đi phiêu lưu vào những hệ lụy đau thương ảo tưởng để suốt đời cứ phải sa lầy trong vũng lầy nhược tiểu thì đó là một trọng tội ghê gớm của đảng CS đối với dân tộc. Vì mất dân chủ nên lãnh thổ và lãnh hải tổ quốc đã bị đảng CS lén lút cắt xén trao cho tập đoàn hung hãn Bắc Kinh mà không thấy quốc hội, không thấy một cơ quan truyền thanh, truyền hình báo chí nào dám lên tiếng bênh vực bởi một lẽ dể hiểu là đảng khống chế, tập trung chỉ huy tất cả, kẻ nào dám hó hé đá động đến chính trị thì coi chừng bị khai trừ, xử chết hoặc cho vào tù ở đến mục gông. Quyền Tự do ngôn luận nếu có trong thời kỳ ``kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa`` cũng chỉ là những việc làm theo đường lối độc tài của đảng. Nói như thức giả TS Nguyên Thanh Giang đó là bước đi khập khểnh một chân. Riêng người viết thấy cái xã hội Việt Nam chúng ta đang bị bội thực trầm trọng, quyền Tự do ngôn luận chỉ hướng vào việc làm kinh tế, còn mặt chính trị thì để mặc cho đảng lo, mà đảng lo cái gì hơn là việc chỉ muốn tập trung các cấp ủy đảng len lõi khắp nơi vào mọi cơ sở, đem công an rình mò theo dỏi để chuẩn bị thủ tiêu, bắt bớ những ai bất đồng chính kiến với đảng. Xã hội Việt Nam về mặt kinh tế đang bị bội thực, không tiêu hóa được những gì đang ăn , về mặt chính trị thì tinh thần và sức khỏe rất yếu kém, không điều hợp phát triển một cách quân bình theo chiều hướng tốt đẹp được, mà đang bị phát ách, lên cơn từng giờ, không biết chừng ngã lăng ra chết lúc nào không hay.

Từng phần cây số đất đai, biển trời Tổ quốc đã bị đảng Việt gian CS bán đứng cho lục địa Trung Hoa, con cháu Hán tộc đã lên mặt kêu căng đánh phá, giết người, cướp của khắp nơi trên hải phận Việt Nam, chúng đặt cột mốc, lập rào cảng, chôn mìn bẩy vào sâu nội địa Việt Nam. Hởi con cháu của sơn hà Văn Lang có núi tràu xưa cũ, hởi Ðại Cồ Việt nước non một giải biên thùy cờ lau tập trận, hởi Ðại Việt hùng anh một thửa Thăng Long thành chấp cánh! Biết nói gì đây hởi cháu con Hồng Lạc, hậu thế hôm nay chắc nhiều xót xa ray rức khi đứng truớc một đế quốc Hán tộc cường binh hung hãn! Những lúc dân lực suy đồi, quốc gia yếu kém là lúc kẻ thù Phương Bắc luôn chực chờ, sẵn sàng đè bẹp, tung những đòn hiểm ác để xâm chiếm, Hán hóa mọi bờ cỏi đất đai và người dân nước Việt. Trong trăm ngàn cách, chỉ có cách đưa quốc gia dân tộc đến chổ tự lực tự cường là một trách nhiệm thiêng liêng và ổn thỏa hơn cả trong sách lược bẻ gảy mọi ý đồ xâm chiếm của Bắc Phương. Mỗi khi xãy ra hiểm họa mất nước, những oán hờn tủi nhục luôn đè nặng lên quốc gia dân tộc, chúng ta không khỏi lần dở lại trang sử cũ của tiền nhân suốt ngàn năm dài tranh đấu, và lịch sử cận đại ghi dấu cuộc đánh đuổi xâm lăng Phương Bắc đã rực rỡ lên hình ảnh vua Quang Trung, một võ công đầy oanh liệt và hào hùng nhất ở cuối thế kỹ thứ XVIII của dân tộc.

Gần đây nhà văn Quách Tấn và Quách Giao đã cho ra đời tác phẩm ``NHÀ TÂY SƠN``, tác giả đã có nhiều khai quật mới mẻ, khám phá hết sức trung thực khi viết về tác phẩm này. Quách Tấn và Quách Giao cho biết gia tộc tác giả đã sinh cư lâu đời tại Bình Ðịnh và trong Từ đường họ Quách có chép tay lại hai bộ sử là Tây Sơn Dã Sử và Tây Sơn Liệt Truyện. Riêng nhà văn lão thành Quách Tấn đã từng bỏ cả cuộc đời đi chu du tham khảo khắp địa danh Ấp Tây Sơn để sưu tập, phỏng vấn, ghi chép trực tiếp những nơi có xãy ra các sự kiện lịch sử, không ai có thể am hiểi hơn Quách Tấn về các địa thế đất Tây Sơn, đã cho chúng ta những tài liệu lịch sử thật vô cùng qúy gía mà trên hai trăm năm đã bị chôn vùi theo sự bại vong của triều đại Tây Sơn cùng với sự đàn áp vô cùng khốc liệt của nhà Nguyễn Gia Miêu (nguyên quán Tổ phụ Nguyễn Ánh ở làng Gia Miêu thuộc tỉnh Thanh Hóa nên các nhà nghiên cứu sử học đều gọi là Nguyễn Gia Miêu để phân biệt với Nguyễn Tây Sơn). Dù bị đàn áp nhưng gia phả con cháu các danh tướng, văn thần thoát được nanh vuốt truy bức, cũng như các nhà nho sống gần thời đó đã bí mật ghi lại nhiều sự thật để khi có được những cơ duyên thuận tiện thì phổ biến lại cho hậu thế về một giai đoạn lịch sử cách mạng đầy bi hùng chung của dân tộc. Mười hai bộ sử ký đã âm thầm cưu mang thai nghén, nhưng suốt thời gian dài nhà Nguyễn Gia Miêu còn cai trị nên các bộ sử vẫn phải chịu số mệnh ẩn dấu mà sự mất còn đã phải tùy thuộc vào thời gian luân lưu vì hoàn cảnh chiến tranh, và nhất là người sau thay người trước tiếp nhận bảo quản có biết trân trọng giữ gìn thường xuyên bên mình không, hay vì một lý do nào đó ngoài ý muốn đành phải đau xót chịu mất các bộ sử như mất đi một phần đời sống tinh thần vô gía, và cứ phải ray rức ân hận mãi vì lỡ đánh mất đi công lao khó nhọc của tiền nhân. Nhà văn lão thành Quách Tấn đã kể nhiều chi tiết về các giai đoạn sống còn của các bộ sử trong tác phẩm sử liệu ``NHÀ TÂY SƠN``, bạn đọc có thể liên lạc đặt mua tác phẩm vừa kể theo đia chỉ sau đây:



http://goken.free.fr/antiem/antiem.html .

Hoặc có thể xem ấn bản điện tử nơi trang web Nhân Ái:



http://perso.wanadoo.fr/charite/

Vì những am tường của nhà văn lão thành Quách Tấn về địa thế đất Tây Sơn - Bình Ðịnh, nơi sinh trưởng ra nhà văn, mà trong tất cả các sử liệu từ trước đến nay đều chỉ nói rất lờ mờ về địa thế nơi đây, nên người viết xin mạn phép trích phần bản đồ và phần miêu tả trong sách của nhà văn lão thành để phổ biến cho mọi bạn đọc biết rộng rãi thêm hơn về địa thế một thời đã phát xuất những đấng hùng anh vá trời lấp bể, ngõ hầu thiết lập được cảm thông và tự hào hơn với công nghiệp của tiền nhân. Xin đa tạ...


BẢN ÐỒ ẤP TÂY SƠN






``Ấp Tây Sơn là nơi phát tích của Bình Ðịnh tam hùng: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.
Ấp gồm phần đất An Khê và phần đất Bình Khê, tỉnh Bình Ðịnh.
Và chia làm ba phần: Tây Sơn thượng là vùng An Khê.
Tây Sơn Trung, từ chân đèo An Khê đến Hữu Giang, Tả Giang.
Tây Sơn Hạ, từ Trinh Tường, Phú Lạc đến Thọ Lộc, Lai Nghi, Thú Thiện, An Chánh, Văn Tường, Kỳ Sơn, Thuận Truyền, Thuận Hạnh...
Cụm tháp Bình Nghi (Phú Thiện) ở phía nam sông Côn và cụm tháp Dương Long ở phía bắc sông Côn là hai trụ ranh giới phía đông của ấp.
Phía đông là đồng bằng phì nhiêu.
Phía tây và phía nam, núi non hiểm trở, điệp điệp trùng trùng.
Phía bắc, nửa trên là núi dính liền với dãy núi phía tây, nửa dưới là đồng bằng dính liền với đồng bằng phía đông.
Dòng sông Côn phát nguyên trên dãy Trường sơn chạy xuống biển Thị Nại, chia ấp Tây Sơn ra làm hai, nửa phía nam nửa phía bắc, chạy dọc theo dòng sông, tứ mùa lúa dâu bắp đỗ thay nhau làm tăng vẻ giàu sang cho núi non hùng hiểm.
Núi có nhiều ngọn cao lớn, trông đồ sộ hiên ngang; được nhiều người chú ý là những ngọn có di tích lịch sử, như:
Ở vùng An Khê có núi Hiển Hách, tục gọi là Hảnh Hót, sử chép là Hinh Hốt. Ðó là một danh sơn có nhiều cây quý và chung quanh có nhiều ngọn núi quy triều. Núi vùng An Khê liên tiếp với vùng cao nguyên ở phía Tây, và phía đông đèo An Khê nối liền Tây Sơn Thượng với Tây Sơn Trung.
Ðèo An Khê, xưa gọi là đèo Vĩnh Viễn, cao 740 thước và dài trên 10 cây số, chạy từ Tây xuống Ðông đường đi rất hiểm trở. Trước kia, lúc Quốc lộ 19 chưa mở, hành khách qua lại phải chịu nhiều gay go. Dọc đèo có nhiều nơi dốc ngược, đá mọc lởm chởm, có khúc phải dãng hai chân mà leo mới khỏi té. Nơi này tục gọi là dốc Chàng Hảng. Dưới dốc Chàng Hảng về phía đông có một cái nghẹo, nơi nghẹo có một cây khế rất sai quả. Khách qua đèo thường dừng chân nơi gốc khế để nghỉ ngơi và giải khát. Nghẹo ấy gọi là Nghẹo cây khế. Cách nghẹo cây khế chừng vài trăm bước có hai cây cổ thụ, thân cao tàn cả. Một cây ké, một cây cầy. Ðó cũng là hai trạm nghỉ chân của hành khách.
Dưới chân đèo, thuộc Tây Sơn Trung, núi cũng cao chớm chở như vùng Tây Sơn Thượng. Ngọn núi có danh nhất là hòn Ông Bình. Núi tuy không cao lắm chỉ có 793 thước, song trông rất kỳ vĩ và có vẻ bí hiểm. Cây cối sầm uất, ngó mịt mờ thăm thẳm như không có đường lưu thông. Nhưng kỳ thật thì có nhiều nẻo vào ra, thông thương với các ngọn núi chung quanh cùng các con đường hẻo lánh trong vùng.
Ðối trĩ [1] cùng hòn Ông Bình, có hòn Ông Nhạc, khí thế cũng rất hùng hiểm.
Từ hòn Ông Nhạc núi chạy từng lớp, từng lớp, lớp chạy thẳng vào Nam, lớp chạy xiên xiên xuống hướng Ðông - Nam. Danh sơn đều nằm trong dãy Ðông Nam. Trước hết là hòn Tâm Phúc hình như chiếc nón lá, nhiều cổ thụ và heo rừng.
Ðồn rằng núi rất linh thiêng vì bà Thiên-Y-A-Na thường tới lui hào quang sáng chói. Trong núi, hễ lúc mặt trời gần lặn, người ta thường nghe tiếng ụt heo inh ỏi. Người địa phương bảo đó là tiếng của bộ hạ của bà Thiên-Y. Núi Tâm Phúc có tên nữa là núi Bà Phù.
Ðối trĩ cùng núi Bà Phù có núi Màn Lăng. Thầy địa lý gọi Màn Lăng là hòn Nhật, hòn Bà Phù là hòn Nguyệt.
Giữa Màn Lăng và Bà Phù có một thung lũng bằng phẳng và kín đáo, tục gọi là Hóc Yến.

      


Qua khỏi Hóc Yến đền núi Ðồng Phong tục gọi là hòn Lãnh Lương.
Ði xuống nữa, đến địa đầu Tây Sơn Hạ, thôn Trinh Tường, đến dãy Hoành Sơn tục gọi là núi Ngang.
Những ngọn núi từ hòn ông Nhạc chạy xuống đều chạy theo hàng dọc. Hòn Hoành Sơn lại chạy ngang.
Hoành Sơn chỉ cao 364 thước, nhưng dài và rộng. Phía tây và phía nam, dòng suối Ðộng Tre và chí lưu ôm sát bên chân. Sông Côn chạy dài ở phía bắc. Trước mặt đồng Trinh Tường tiếp đồng Phú Phong, mênh mông bát ngát.
Hoành Sơn là đại địa, vì có nào bút, nào nghiên, nào ấn, nào kiếm, nào chung, nào cổ, ở bên tả bên hữu. Và trước mặt, trên ba nổng gò đất, đá mọc giăng hàng giống như những toán lính đứng hầu, xa xa có long bàn hổ phục.

Bút là hòn Trưng Sơn ở thôn Phú Lạc bên kia sông Côn, xa trông như ngòi bút chép mây.
Nghiên là hòn núi Hợi Sơn tục gọi Hòn Dũng, trong địa phận Trinh Tường về phía Nam, đứng đối trĩ cùng hòn Trưng Sơn ở phía bắc. Trên đầu núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh năm không bao giờ cạn. Dân hàn mặc [2] coi vũng nước là nghiên mực của trời nên gọi hòn Dũng là Nghiên Sơn tức hòn Nghiên.
Hòn Nghiêng và hòn Bút nằm bên tả bên hữu hòn núi ngang, trông rất cân đối. Ðứng xa mà ngắm thì hòn núi Ngang là bức bình phong còn hòn Nghiên hòn Bút là hai trụ ba biểu [3].

-  Sát bên chân và trước mặt núi Ngang, có hai hòn núi nhỏ là hòn Một và hòn Giải. Hòn Một giống hình cái chuông, nên cổ nhân gọi là Chung Sơn. Hòn Giải giống như cái trống chầu nên có tên gọi là Cổ Sơn. Nhìn chung, thật giống chuông và mõ đặt trước án thờ.

- Hòn Giải, đứng phía bắc trông vào thì giống cái trống. Nhưng đứng phía đông mà nhìn lại phảng phất một quả ấn. Vì vậy hòn Giải còn có tên nữa là Ấn Sơn.

Ðặt cho hòn Giải tên Ấn chẳng phải chỉ vì hình dáng, mà còn vì phía đông cách Hoành Sơn không xa có hòn núi thấp mà dài mệnh danh là Kiếm Sơn tức hòn Kiếm. Ðã có kiếm thì phải có Ấn mới đủ đôi.

- Phía trên hòn Kiếm cũng trong phần đất Trinh Tường có hòn ông Ðốc, hình thù giống như một con hổ phục, đầu ngó lên Hoành Sơn. Ðó là Hổ cứ như trên đã nói.

- Còn dòng sông Côn đến cuối Trinh Tường, đầu Phú Phong thì nhận nước con sông Ðá Hàng, một chi lưu từ Ðồng Le ở phía nam chảy ra. Hai ngả sông này tạo thế long bàn ôm choàng lấy cuộc đất núi Ngang.
Từ núi Ngang (Hoành Sơn) trở vô, càng vô trong, núi càng cao. Nhiều ngọn cao trên dưới nghìn thước, trừ các thợ rừng tuổi tác, người đồng bằng ít ai biết tên. Người ta gọi chung cả dãy là Núi Xanh vì đứng ngoài nhìn vào sắc núi xanh như nhuộm. Từ núi Ngang trở xuống Tây Sơn Hạ, càng xuống, núi càng chạy xiên vào nam, nhượng chỗ cho đồng bằng.
Ðó là núi non nằm phía nam sông Côn.
Phía bắc sông Côn, núi vùng Tây Sơn Trung cũng có nhiều ngọn cao lớn. Như hòn Ngăn, hòn Bong Bóng ở Vĩnh Thạnh, trông có vẻ ngang ngược như muốn ngăn lối chặn đường thiên hạ đi rừng. Bốn mặt lại có suối khe bao bọc. Thế rất hiểm. Phía đông hòn Ngăn, cách một dòng suối, có hai ngọn nút cao ngất, đứng song song như hai răng nanh. Ðó là hòn Vỏ Cá và hòn Da Két.
Núi càng đi xuống đông thì càng thấp dần.
Sau hòn Vỏ Cá, hòn Da Két, còn hòn Bạc Má và hòn Nước Ðỏ. Hai hòn này có thể coi là một, nếu không có đèo Bồ Bồ chạy ở giữa. Ðèo mở đường giao thông cho khách ở phía đông lên phía tây, ở phía tây xuống phía đông. Núi đèo đều có hình thù và sắc thái đặc biệt, không thể tả nổi.
Xuống đến Tây Sơn Hạ thì núi không còn liền dây. Hòn Trưng Sơn ở Phú Lạc là hòn núi cao nhất vùng.
Hòn Trưng chỉ cao 422 thước, nhưng trông rất khôi hùng. Trông gần thì mập mạp hung hăng như con bò đực sung sức lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu. Nên người địa phương gọi là hòn Sung. Ở xa thì giống như ngọn bút, cùng với hòn Nghiên bên kia sông Côn làm bạn văn chương như trên kia đã nói. Lưng núi thì nổi từng vồng u như bị đánh sưng. Nên nhiều người gọi là hòn Sưng thay Sung. Theo các phụ lão địa phương thì núi có tất cả chín cục u, gọi là Cửu diệu tinh. Hai u lớn nhất, một trông giống răng bò nghé, gọi là Ðốc Xỉ, một giống u bò nghé, gọi là độc nhũ. Trong các sách địa phương chí xưa, nhiều sách lấy tên hai cục này để gọi hòn Trưng Sơn: Ðộc Xỉ Sơn, Ðộc Nhũ Sơn.
Trưng Sơn là Tổ sơn trong vùng núi ở bắc ngạn sông Côn. Mặt hướng về đông nam và lấy dãy Sơn Triều Sơn ở Cầu Gành thuộc An Nhơn, làm tiền án. Còn sơn mạch thì lại chạy thẳng xuống hướng đông, đến hòn Mạ Thiên Sơn, tục gọi là hòn Mò O

- ở giữa An Nhơn và Phù Cát - thì hồi cố. Phía trước mặt và hai bên tả hữu, gò đống nổi đầy, cuồn cuộn nhấp nhô như sóng biển. Và những ngọn núi ở xung quanh đều xây mặt về triều, cũng như các vị đại thần đứng chầu một đấng anh quân. Còn những gò đống kia là những quân lính dàn hầu.
Từ hòn Trưng Sơn trở xuống là đồng bằng. Nếu không có con sông Côn, thì cánh đồng này liền với cánh đồng phía nam.
Giữa cánh đồng, rải rác nổi lên những hòn núi đất, như hòn Hương Sơn, hòn Trà Sơn, hòn Khánh Long, hòn Chà Rang.  Hòn Hương Sơn giống như con chó nằm ngủ. Hòn Trà Sơn và hòn Khánh Long thì giống như hai con cừu.
Ba hòn núi này là ba hòn núi trọc. Hòn Chà Rang không có hình dáng đặc biệt như ba hòn núi kia, nhưng có nhiều cây chà là, đến mùa trái chín thì người ta rủ nhau lên hái rất đông đảo, cho nên có tiếng.
Núi non vùng đất Tây Sơn đại khái là thế.
Nói tóm lại về hình thế và vùng đất Tây Sơn như sau:
Tây Sơn Thượng gồm trọn vùng An Khê, núi non trùng điệp, đất bằng ít. Tây Sơn Trung gồm phần đất từ chân đèo An Khê chạy xuống đến cuối Bình Giang. Hòn Núi Ngang làm mốc ranh giới cho hai vùng Trung, Hạ. Vùng Trung cũng như vùng Thượng, núi nhiều hơn đồng.
Tây Sơn Hạ bắt đầu từ Trinh Tường trở vô, Phú Lạc trở ra, và chạy xuống đến Thú Thiện. Thọ Lộc trở vô, An Chánh, Vân Tường trở ra. Ðồng bằng chiếm gần trọn vùng.
Dòng sông Côn làm sợi tim đèn cho hai vùng Trung Hạ.
Núi non thì hùng hiểm. Ðồng ruộng thì phì nhiêu. Rõ có thế dụng binh. Cho nên cuộc khởi nghĩa của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, trước kia và cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng thời Pháp sang Việt nam, đều phát xuất tại vùng Tây Sơn [4].``
[1] Trĩ: có nghĩa là núi. Ðối trĩ: chỉ hai ngọn núi đối nhau.

[2] Hàn mặc: văn chương. 2 Trụ ba biểu: trụ vôi, có hình hoa sen trên đầu.

[4] Trong Nước non Bình Ðịnh đã nói kỹ càng về núi sông vùng Tây Sơn. Ở đây chỉ rút những nét đại cương và chỉ đề cập đến những ngọn núi có để dấu hoặc nhiều hoặc ít của cuộc khởi nghĩa của nhà Tây Sơn.

(Phần in nghiêng nói về địa thế Tây Sơn như trên được trích trong tác phầm NHÀ TÂY SƠN của Quách Tấn và Quách Giao)
Những bộ sử ký về Nhà Tây Sơn qua thời gian luân lưu trong việc sưu tập ghi chép, bảo quản gần hai trăm năm, mười phần đã mất hết tám chín cho nên phần hiếm hoi còn lại cần phải được chúng ta trân qúi giữ gìn và hơn cả là lương tâm chân thực của người chép sử bao giờ cũng mong muốn để lại cho thế hệ mai sau những sự thật sử liệu ngõ hầu những ai có dịp nghiên cứu về sử học sau này có thể góp phần sáng soi thêm sự thật, phân định mọi khuynh hướng, mọi khía cạnh lịch sử để rút ra những bài học, cảm thông cùng kinh nghiệm đấu tranh của tiền nhân và tích cực hơn cả là có thể dựa vào các yếu tố địa lý, nhân văn, lịch sử đặt cơ sở, xây dựng những nền tảng, đồng thời phát họa nên những phương luợc đấu tranh, xây dựng quốc gia thật hữu hiệu trong sách lược dựng người, cứu nước và dựng nước chứ không thể như ông Mác, ông Lê từ trời cao nơi đau rơi xuống bắt dân Việt phải hè cổ tròng vào đầu nhản hiệu ``đấu tranh giai cấp chuyên chính vô sản`` thì vô hình chung phải bắt dân Việt chịu ách gông xiềng nô lệ. Việc cưởng ép bình thường đã trái với đạo lý nhân tình chứ chưa nói đến quyền sống con người phản ảnh những hoàn cảnh địa lý, nhân văn, lịch sử ở mỗi quốc gia, nên dân tộc nào không ý thức được hiển họa này thì vĩnh viễn không ngóc đầu, chen vai chung được với cộng đồng văn minh nhân loại. Do đó việc nghiên cứu lịch sử đấu tranh của tiền nhân luôn là điều cần thiết, theo đó chúng ta có thể bắt gặp được mọi hoàn cảnh địa lý, nhân văn để cùng tổng hợp, luận suy loại bỏ những tư tưởng hư ngụy ươn hèn sai trái mà tiếp nhận lấy những tinh hoa để cùng làm phát khởi sức mạnh ngoan cường, ý chí tiến thủ chung của dân tộc.

Theo tiết lộ trong tác phẩm NHÀ TÂY SƠN của Quách Tấn-Quách Giao thì gần đây các bộ sử như TÂY SƠN VĂN THẦN truyện, TÂY SƠN LƯƠNG TƯỚNG truyện v.v...còn được bảo quản nơi võ phái Thuận Truyền-Bình Ðịnh, nhưng vị chưởng môn Hồ Ngạnh đã qua đời, sách chắc còn được bảo quản nơi vị chưởng môn đời kế tiếp, võ phái Thuận Truyền có nhiều vị được chân truyền hiện sống tại hãi ngoại như võ sư Hồ Bửu được chân truyền luôn cả võ phái An Thái, đang khởi công gầy dựng truyền bá môn võ học tiếng tăm Bình Ðịnh hay còn đưọc gọi là Võ Tây Sơn, mong rằng môn phái Tây Sơn có thể cho độc giả biết hơn về hai tác phẩm Văn Thần và Lương Tướng này; nếu như còn nằm tại Tổ đường thì thật còn may mắn vì sách được bảo quản bởi những nhân tài võ học có tâm huyết thực hiện cuộc huấn hóa tuổi trẻ nên người cường tráng, lành mạnh về cả tinh thần lẫn thể chất. Và nói như Quách Tấn-Quách Giao thì sách còn ở nơi danh sơn để đợi người tri kỷ.



Ðôi lúc ca say đối bóng tà,

Thẹn đời danh vị kém tài hoa,

Giận không tướng lược đền tri kỷ

Nguyền được đồng tâm giúp nước nhà.

Phân trị buồn chi hờn cắt đất,

Tiền đồ giữ trọn chí bay xa.

Cùng theo chính nghĩa, yên bờ cõi

Quét sạch phường gian dựng thái hòa.

(Nguyễn Quang Trứ)

Ðảng Việt gian CS đang bán đứng từng phần cây số đất đai và biển trời Tổ quốc cho Trung Hoa đỏ, máu của dân Việt đã đỗ dài ra khắp Biển Ðông bởi tập đoàn bành trướng Bắc Kinh. Thái Bình Dương không còn yên lành như tên gọi của nó vì bởi sự ngông cuồng nơi hàng lớp lãnh đạo Bắc Kinh. Từng trang sử chống xâm lăng một lần nữa đang dỡ ra trước mắt toàn thể Quốc dân Việt Nam, như lên tiếng gọi sơn hà đang nguy biến.



Lòng quyết tử tiến lên đường gío bụi,

Hai bàn tay thề phục lại sơn hà.

Thái Bình Dương lấp bằng sầu nhục tủi,

Lấy máu đào rửa sạch máu yêu ma.

(Lý Ðông A)

Việc làm cần kiếp nhất hôm nay là phải khai thông những bế tắc lịch sử để mở ra tiến trình dân chủ hóa đất nước. Ðảng Việt gian CS càng cũng cố quyền lực bao nhiêu thì nội bộ càng chia bè kết cánh, lũng đoạn tranh chấp, mang đến những hậu qủa khốc hại cho đất nước bấy nhiêu, đồng thời nút chặn lịch sử càng bao trùm to lớn làm đình trệ mọi bước tiến dân chủ của dân tộc. Con đường chọn lựa giữa văn minh nhân bản và độc tài phản tiến hóa đã thấy rõ, không lý do gì phải chùng bước làm kẻ đồng hội đồng thuyền với các thế lực phản động CS đã cấu kết với kẻ thù Phương Bắc, nhẫn tâm muối mặt để cho chúng giết hại đồng bào mình. Ðảng CSVN phải trả lời trước Quốc dân và Lịch sử những hành động ươn hèn vừa qua. Gươm công lý và gươm lịch sử sẽ khóa chặt mọi hành động đưa đất nước mất về tay Phương Bắc.

Nhớ đến vua Quang Trung với võ công oanh liệt thần tốc nhất cuối thế kỹ XVIII , trên 20 vạn quân xâm lăng Bắc Phương trong vòng bảy ngày đã bị quân dân ta quét sạch ra khỏi cõi bờ Ðại Việt.

PHẠM HỒNG TÂN

10.03.05




Каталог: 2009
2009 -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
2009 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôN
2009 -> Nghị ĐỊnh số 163/2004/NĐ-cp ngàY 07/9/2004 quy đỊnh chi tiết thi hành một số ĐIỀu của pháp lệNH
2009 -> BỘ CÔng thưƠng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Mẫu số: 01 (Ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 31 /2009/ttlt-btc –BLĐtbxh ngày 09 tháng 09 năm 2009) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> BỘ y tế Số: 12/2006/QĐ-byt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở TƯ pháP Độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> CÔng ty cp đIỆn tử BÌnh hòa cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Ủy ban nhân dân thành phố HỒ chí minh

tải về 227.97 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương