Nguyễn Duy Thục MỤc lục trang trang phụ BÌA


C. Mô hình Mankiw-Romer-Weil



tải về 2.1 Mb.
trang4/19
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích2.1 Mb.
#13662
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19

C. Mô hình Mankiw-Romer-Weil

Các mô hình tích luỹ vốn kiến thức đã có đóng góp nhất định trong giải thích nguồn tăng trưởng từ tiến bộ công nghệ nội sinh. Nhưng các mô hình này chưa giải thích được lý do mọi quốc gia đều có thể tiếp cận công nghệ mới mà vẫn có sự chênh lệch về thu nhập giữa các nước. Vì thế Mankiw, Romer và Weil (1992) đã đưa vốn con người vào mô hình của Solow.

Các giả thiết của mô hình

Nền kinh tế chỉ có một khu vực sản xuất, với sản lượng được cho bởi:



(1.62)

Trong đó H là lượng vốn con người và L là số lao động, còn là các tham số hiệu quả của hai loại vốn ( có nghĩa là tồn tại quy luật lợi ích cận biên giảm dần đối với tổ hợp hai loại vốn). Vì thế, hàm này có lợi tức không đổi theo K, L và H. Cũng như trong mô hình Solow, ta giả định rằng:



(1.63)

Trong đó, sk là tỷ lệ thu nhập được dành cho đầu tư vào vốn sản xuất. Cũng như mô hình Solow, tiến bộ công nghệ được xác định ngoại sinh:



(1.64)

Đầu tư vốn con người cũng chiếm một tỷ lệ cố định trong sản lượng



=shY (1.65)

Đặt h=H/AL là tỷ lệ vốn con người-lao động hiệu quả. Ta có thể viết hàm sản xuất (1.62) dưới dạng bình quân như sau:



(1.66)

Trong đó, k=K/AL và y=Y/AL.

Để xác định động thái của k, cần lưu ý rằng:

(1.67)

Ký hiệu , từ đó ta có:



(1.68)

Từ đó, ta có các nghiệm



(1.69)

Tổng vốn vật chất, vốn con người và sản lượng (K, H và Y) đều tăng với tốc độ n+, còn vốn vật chất bình quân lao động và sản lượng bình quân lao động (K/L, H/L và Y/L) đều tăng với tốc độ . Do vậy cũng như trong mô hình Solow, tốc độ tăng của sản lượng bình quân lao động dài hạn được quyết định bởi tốc độ tiến bộ công nghệ ngoại sinh.

Cũng như trong mô hình Solow, tỷ lệ tiết kiệm thường xuyên chỉ dẫn tới sự tăng trưởng nhất thời của tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mô hình này khác với mô hình Solow-Swan về mức ảnh hưởng về sự thay đổi của tỷ lệ tiết kiệm và tốc độ tăng dân số. Ta tính được mức y trên đường tăng trưởng cân đối:

(1.70)

Từ đó, cho nên mô hình Mankiw-Romer-Weil có thể giải thích sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa các quốc gia.

Mặc dù vậy, mô hình vẫn không trả lời được câu hỏi tại sao vốn không chảy từ các nước giàu sang các nước nghèo (để tránh quy luật sản phẩm cận biên giảm dần của vốn vật chất và vốn con người).

D. Mô hình AK

Một mô hình đơn giản xem xét sản xuất có lợi tức không đổi theo quy mô đối với cả tổ hợp vốn vật chất và vốn con người chính là mô hình AK do Romer (1986), Barro (1990), Robelo (1991), và nhiều người khác đề xuất. Mọi đầu vào của mô hình này đều được coi là vốn có thể tái sản xuất, không chỉ là vốn vật chất mà cả vốn con người. Cụ thể đặt K là thước đo tổng hợp của vốn, hàm sản xuất có dạng tuyến tính như sau:

Y=AK (1.71)

Trong đó, A lại là tham số thể hiện mọi nhân tố tác động tới trình độ công nghệ.

Có thể tính được tốc độ tăng lượng vốn bình quân lao động ở trạng thái bền vững bằng:

gK/L = sA - (n+) (1.72)

Tốc độ tăng trưởng của sản lượng bình quân lao động ở trạng thái bền vững là:

gY/L = gA +gK/L (1.73)

Nếu không có tiến bộ công nghệ, gA =0, thì ở trạng thái bền vững ta có tốc độ tăng trưởng sản lượng bình quân chính là tốc độ tăng trưởng của vốn bình quân

gY/L = sA - (n+) (1.74)

Khác với các mô hình Solow-Swan và Mankiw-Romer-Weil, ý nghĩa quan trọng của mô hình AK là: chính tỷ lệ tiết kiệm sẽ quyết định tăng trưởng. Tỷ lệ tiết kiệm tăng sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu người một cách liên tục. Ngoài ra khác với mô hình Tân cổ điển(cho rằng các nước nghèo tăng trưởng nhanh hơn các nước giàu trong quá trình chuyển dịch tới trạng thái bền vững), mô hình AK cho thấy: các nước nghèo có cùng trình độ công nghệ sản xuất như các nước giàu sẽ tăng trưởng cùng tốc độ với các nước giàu, bất kể mức thu nhập ban đầu là bao nhiêu. Vì vậy, mô hình AK không dự báo có sự hội tụ thu nhập bình quân đầu người cho dù các nước có cùng công nghệ và cùng tỷ lệ tiết kiệm. Tuy nhiên, những kiểm định chuỗi thời gian gần đây lại không ủng hộ các kết luận của mô hình AK.

E. Mô hình “ Học hay làm” (Learning-or-doing model)

Mô hình “Học hay làm” của Lucas(1988) được xây dựng bắt đầu từ một hàm sản xuất có xét tới vai trò của vốn con người:



(1.75)

Trong đó, K là vốn vật chất, H là vốn con người, u là phần thời gian dược sử dụng trong sản xuất (còn 1-u là thời gian được dử dụng trong giáo dục). Vốn vật chất được tích luỹ theo quy luật vận động thông thường:



(1.76)

Vốn con người được tạo ra thông qua giáo dục và kiến thức hiện có là yếu tố chủ yếu tạo ra giáo dục. Do đó, chúng ta giả định vốn con người tương lai được sản xuất ra chỉ nhờ chính vốn con người chứ không phải vốn vật chất. Sự gia tăng vốn con người tương lai phụ thuộc vào thời gian 1-u được sử dụng vào giáo dục:



(1.77)

Trong đó, B là thước đo năng suất của toàn bộ khu vực giáo dục.

Cũng như hai mô hình trên, nền kinh tế có vốn con người có đặc điểm là sản lượng tăng liên tục, trái với cách tiếp cận trạng thái bền vững. Dễ xác định được tốc độ gia tăng vốn con người không thay đổi (chỉ phụ thuộc vào các hằng số B và u):

(1.78)

Đặt k=K/H. Từ (1.76), ta có tốc độ tăng vốn vật chất:



(1.79)

Vì tốc độ gia tăng của tỷ lệ vốn vật chất-vốn con người bằng hiệu số giữa tốc độ tăng K và H nên ta có:



(1.80)

Nhưng ở trạng thái dừng, k không thay đổi tại một giá trị k* nhất định, do đó hay:

Vậy:

(1.81), là nghiệm cần tìm.

Từ đó có thể tính sản lượng ở trạng thái dừng:



(1.82)

Do vậy, ở trạng thái dừng, khi k không thay đổi, sản lượng Y sẽ tăng trưởng cùng tốc độ với gH với vốn con người, tức là gH =B(1-u)-1. Như vậy, tốc độ tăng trưởng phụ thuộc vào giáo dục, thời gian dành cho giáo dục càng lớn thì nền kinh tế tăng trưởng càng cao.



F. Ý nghĩa và hạn chế của các mô hình nội sinh

Các mô hình tích luỹ kiến thức đã có đóng góp nhất định trong việc giải thích nguồn gốc tăng trưởng từ tiến bộ công nghệ nội sinh, nhưng với việc giả định công nghệ không có tính cạnh tranh- tức là mọi quốc gia đều có thể tiếp cận công nghệ mới, các mô hình này không thể giải thích được sự chênh lệch về thu nhập giữa các nước. Vì vậy, để giải thích sự chênh lệch này người ta thường nhấn mạnh các mô hình về vốn con người.

Mặc dù các mô hình tăng trưởng nội sinh vẫn đề cao vai trò của tiết kiệm đối với tăng trưởng của nền kinh tế, nhưng các kết luận của mô hình này có nhiều điểm trái ngược với mô hình của Solow. Đặc biệt là ở chỗ mô hình này cho thấy không có xu hướng các nước nghèo (ít vốn) có thể đuổi kịp các nước giàu về mức thu nhập bình quân, cho dù có cùng tỷ lệ tiết kiệm. Nguyên nhân bắt nguồn từ sự chênh lệch không chỉ là vốn vật chất, mà quan trọng hơn là vốn con người.

Về nguyên tắc, mô hình vốn con người nhất quán với bằng chứng trên thế giới, là các nước nghèo sẽ tiếp tục bị trì trệ. Tuy nhiên, dự báo về các nước nghèo không hoàn toàn bi quan. Bởi vì tốc độ tăng trưởng là nội sinh, mô hình chỉ ra một con đường thoát khỏi nghèo đói: một nước đầu tư nhiều vào nguồn nhân lực hơn sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn.

Như vậy, trái với lý thuyết tăng trưởng Tân cổ điển, các mô hình tăng trưởng nội sinh đề cao vai trò của chính phủ trong việc phát triển kinh tế thông qua đầu tư vào giáo dục - đào tạo, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào những ngành công nghiệp sử dụng nhiều tri thức như phần mềm máy tính, viễn thông…

Mặc dù có những ý nghĩa và đóng góp to lớn, tuy nhiên các mô hình tăng trưởng nội sinh vẫn còn những hạn chế:

Thứ nhất, về mặt thực tiễn các nghiên cứu cho thấy: mô hình vốn con người đã đánh giá quá cao vai trò của vốn con người.

Thứ hai, một số đề xuất của các mô hình về vốn con người còn mang tính trực quan.

Thứ ba, các mô hình tăng trưởng nội sinh vẫn còn phụ thuộc vào một số giả định Tân cổ điển truyền thống mà không phù hợp với các nền kinh tế đang phát triển.

Tóm lại: Để nghiên cứu quá trình tăng trưởng kinh tế thì ngày càng có nhiều mô hình ra đời, các mô hình ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên yếu tố quan trọng để áp dụng mô hình thành công là vấn đề số liệu. Do nền kinh tế nước ta nói chung và các địa phương nói riêng, mới dần chuyển sang cơ chế thị trường, các số liệu thống kê về kinh tế-xã hội còn quá thiếu và không hoàn chỉnh, cho nên việc áp dụng các mô hình tăng trưởng nội sinh là rất khó khăn. Theo chúng tôi, trong điều kiện hiện nay ở Việt nam chúng ta chấp nhận sử dụng mô hình Solow-Swan là chủ yếu, đồng thời có thể kết hợp với các mô hình nội sinh (nếu số liệu cho phép), trong phân tích và dự báo kinh tế.

1.3. XÂY DỰNG MÔ HÌNH LÝ THUYẾT ÁP DỤNG CHO CẤP TỈNH

1.3.1. Một số quan điểm xây dựng mô hình nghiên cứu tăng trưởng kinh tế cấp tỉnh

1. Quan điểm hệ thống trong phân tích mối quan hệ giữa địa phương và trung ương

Ta có thể xem xét nền kinh tế của một quốc gia như một hệ thống hoàn chỉnh, thì kinh tế ở mỗi thành phố, tỉnh được coi như một phân hệ. Nền kinh tế của một địa phương một mặt phụ thuộc vào sự chi phối của kinh tế trung ương như vốn đầu tư, lãi suất, thị trường, các văn bản pháp luật về kinh tế, các nguồn lực, tài nguyên của đất nước... Mặt khác kinh tế địa phương còn phụ thuộc rất nhiều vào các đặc điểm điều kiện tự nhiên, xã hội, vị trí địa lí... của địa phương, nên kinh tế địa phương có tính độc lập tương đối. Vì vậy, khi phân tích hành vi của địa phương trong quá trình phát triển kinh tế, chúng ta phải coi địa phương là một phân hệ của phân hệ lớn - quốc gia. Đồng thời vừa là một hệ thống có tính độc lập tương đối. Với nhận thức này, khi xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội cho địa phương chúng ta phải lưu ý các yếu tố đặc thù của địa phương, mối liên hệ tương tác giữa địa phương với các địa phương khác, giữa địa phương với trung ương. Đồng thời với vai trò phân hệ có tính độc lập tương đối, mỗi địa phương cần được xem xét với đầy đủ các đặc trưng của hệ thống môi trường, mục tiêu, chức năng, các phần tử, cơ cấu hệ thống...



2. Quan điểm hệ thống trong phân tích quan hệ giữa các ngành, các yếu tố trong cấu trúc kinh tế - xã hội địa phương

Nền kinh tế ở nước ta hoạt động theo cơ chế thị trường, dưới sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu nền kinh tế Việt Nam theo ba nhóm ngành lớn: nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp, nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, nhóm ngành dịch vụ. Cơ chế quản lí của nước ta vừa theo ngành, vừa theo lãnh thổ, do đó khi phân tích chúng ta phải coi các ngành, các yếu tố vừa là phần tử của hệ thống trong phạm vi quốc gia, vừa là phần tử của phân hệ đối với từng địa phương.



3. Quan điểm hệ thống trong phân tích tương tác giữa phân hệ kinh tế địa phương trong mối quan hệ với siêu hệ: kinh tế - xã hội của địa phương

- Như chúng ta đã phân tích, các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng của nền kinh tế bao gồm các nhân tố kinh tế và các nhân tố phi kinh tế như: đặc điểm văn hoá - xã hội, các thể chế kinh tế - chính trị - xã hội, nhân tố dân tộc, nhân tố tôn giáo. Vì vậy khi nghiên cứu phân tích phát triển kinh tế, ta phải xét trong mối quan hệ kinh tế với các yếu tố văn hoá - xã hội khác của địa phương.

- Về cơ chế chính sách, ngoài việc tuân thủ theo các chính sách của trung ương, ở địa phương còn ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể các chủ trương chính sách của trung ương tại địa phương, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tại địa phương, đặc biệt là các chính sách nhằm phát triển kinh tế địa phương như thu hút đầu tư, thu hút nhân tài, giải phóng mặt bằng …đó chính là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương.

- Ngoài ra các yếu tố xã hội: truyền thống địa phương, các nghề truyền thống, tính cách con người, giáo dục đào tạo của địa phương cũng là những yếu tố đặc thù ảnh hưởng lớn tới sự phát triển kinh tế của địa phương. Vì vậy trong phân tích và dự báo kinh tế địa phương, ta cần xem xét đến sự ảnh hưởng của các yếu tố này tới sự tăng trưởng kinh tế địa phương.



4. Sử dụng các mô hình kinh tế và và hệ thống dữ liệu trong phân tích kinh tế - xã hội địa phương

Để có thể có những phân tích định lượng và dự báo đáng tin cậy, điều kiện tiên quyết là phải xác lập được các mô hình phản ánh những yếu tố và các quan hệ cơ bản liên quan đến đối tượng phân tích và dự báo. Đồng thời với nó, phải có hệ thống dữ liệu về các đối tượng trên làm cơ sở để sử dụng các phương pháp định lượng. Hiện nay có rất nhiều mô hình lý thuyết để dự báo kinh tế, mỗi mô hình đều có ưu, khuyết điểm. Vì vậy, khi sử dụng chúng, ta phải căn cứ vào điều kiện, đặc điểm của đối tượng, từ đó lựa chọn các mô hình phù hợp nhất, đáp ứng yêu cầu, mục đích của nghiên cứu.

Trong quản lý và điều khiển thì thông tin là cơ sở quan trọng, vì vậy nếu thiếu thông tin thì việc áp dụng mô hình để phân tích dự và báo sẽ không đạt kết quả. Từ mô hình lý thuyết, cần “ráp” những thông tin, dữ liệu ban đầu vào để tiến hành lượng hoá và phân tích các mối quan hệ trong mô hình (các biến kinh tế). Thông tin cho việc xây dựng mô hình dự báo phát triển kinh tế - xã hội là hệ thống cơ sở dữ liệu kinh tế - xã hội bao gồm các dữ liệu về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các nguồn lực và tình hình phân bố, sử dụng các nguồn lực, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội địa phương, mối quan hệ với kinh tế trung ương của địa phương.

Nhìn chung hệ thống số liệu, dữ liệu của các địa phương còn nhiều bất cập. Theo đánh giá sơ bộ, hệ thống dữ liệu còn các nhược điểm cơ bản sau đây:

- Hệ thống số liệu của tỉnh và trung ương không khớp nhau, không đồng bộ và thiếu nhất quán.

- Các ngành có thống kê theo ngành, do đó số liệu của ngành và của tỉnh có những yếu tố không phù hợp với nhau. Bởi vì các tỉnh thống kê không hết các ngành, đồng thời các ngành lại ít khi quan tâm đến số liệu cấp địa phương.

- Cũng vì việc thống kê tính toán giữa địa phương và trung ương phối hợp thiếu đồng bộ nên dẫn đến số liệu giữa hệ thống quản lý ngang và hệ thống quản lý dọc vừa chồng chéo vừa thiếu sót.

Vì vậy, chúng ta cần có những phương pháp xử lý thích hợp nguồn dữ liệu này để có thể định dạng và ước lượng các mô hình lý thuyết. Đối với dự báo dài hạn và trung hạn, có thể sử dụng các mô hình tăng trưởng kinh tế, mô hình cân bằng, chủ yếu dựa trên hệ thống tài khoản SNA. Dự báo ở cấp địa phương, mô hình thường được dùng là các hàm sản xuất để mô tả phía cung, mô hình tăng trưởng đơn giản (Harrod-Domar, Solow-Swan), các bảng SNA địa phương, mô hình kinh tế lượng theo lĩnh vực, theo ngành… Lựa chọn và thiết lập các mô hình là một trong những nội dung hết sức quan trọng và phức tạp.

Do ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch, quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở địa phương diễn ra quá chậm chạp, nhất là đối với một tỉnh kinh tế chưa phát triển như Bình Định . Các thị trường vốn, lao động mới hình thành, chưa hoàn hảo. Việc di chuyển vốn và lao động giữa các địa phương diễn ra không linh hoạt. Vì những lý do đó và lý do số liệu nên chúng ta có thể áp dụng một số mô hình tăng trưởng của một quốc gia vào địa phương. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các thị trường vốn, lao động của Bình Định dần linh hoạt hơn, nên đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến những hạn chế khi sử dụng các mô hình tăng trưởng ở địa phương.

1.3.2. Xây dựng mô hình đánh giá vai trò của các yếu tố đầu vào tới tăng trưởng

1. Phương pháp tham số

Do điều kiện số liệu của địa phương không cho phép sử dụng các mô hình tăng trưởng nội sinh, nên trong phần này chủ yếu áp dụng phương pháp tiếp cận tham số, sử dụng hàm sản xuất gộp dạng Cobb-Douglas hoặc dạng CES. Từ dữ liệu chuỗi thời gian về vốn và lao động giai đoạn 1990-2005 của tỉnh Bình Định, các tham số của hàm sản xuất được ước lượng và sử dụng để tính toán mức đóng góp của mỗi nhân tố tới tăng trưởng, đồng thời cũng để sử dụng trong một số dự báo thích hợp.

Tiếp cận hàm sản xuất gộp

Hàm Cobb-Douglas dạng: lnY= ao+ (1.83)

Trong đó: Y=Y(t) là thu nhập năm t

K=K(t) là vốn năm t

L=L(t) là lao động sử dụng năm t

Giả sử ta đã ước lượng được phương trình (1.83) khi đó tiến bộ công nghệ có thể thu được từ phương trình ước lượng sau :



(1.84)

Thủ tục kiểm định hiệu quả không đổi theo quy mô (CRS) như sau:

(i) Trước hết ước lượng phương trình.

(1.85)

(ii) Kiểm định giả thiết về tính hiệu quả không đổi theo quy mô được xác định như sau:

H0:

H1:

Nếu giá trị của kiểm định t lớn hơn giá trị t tới hạn thì chúng ta bác bỏ giả thiết H0 về tính hiệu quả không đổi theo quy mô. Trong trường hợp này ta sử dụng hàm sản xuất dạng CES sau đây:

(1.86)

Trong đó A là tham số quy mô, là tham số phân phối, là tham số thay thế và h là bậc thuần nhất của hàm. Hàm CES là hàm tổng quát của hàm Cobb-Douglas, với độ co dãn thay thế không đổi.

Để ước lượng hàm sản xuất này, chúng ta có thể sử dụng phương pháp Kmenta (1967), khai triển Taylor lnY quanh giá trị =0 ta được:

hay (1.87)

Nếu hàm CES được chấp nhận thì độ co dãn của sản lượng theo vốn (K) và theo lao động (L) được tính theo công thức sau:

(1.88)

(1.89)



2.Phương pháp phi tham số

Ở phần này ta trình bày một áp dụng chỉ số năng suất nhân tố tổng hợp Malmquit và phân tích bao dữ liệu (DEA) cho một tỉnh.

Giả sử rằng ta xét mô hình cho tỉnh nông nghiệp: ta có k = 1, 2,…, K huyện sử dụng n = 1, 2,…, N đầu vào ở vùng v, tại mỗi thời điểm t = 1, 2,…, T. Các đầu vào được sử dụng để sản xuất m = 1,2,…,M đầu ra . Trong tập hợp dữ liệu của các huyện đang xem xét, tất cả các quan sát đầu vào và đầu ra đều dương và số lượng quan sát ổn định theo thời gian2

Năng suất tham chiếu (hay tập tham chiếu) trong thời kỳ t được xác định : (1.90)


Thể hiện hiệu quả không đổi theo quy mô. Giả thiết sản lượng không đổi theo qui mô có thể nới lỏng thành sản lượng không tăng theo qui mô bằng cách bổ sung thêm điều kiện sau:

(1.91)

trong đó zvk,t là biến cường độ thể hiện mức độ một nhân tố cụ thể có thể được sử dụng trong quá trình sản xuất. Ta có thể cho phép sản lượng thay đổi theo qui mô (tăng, không đổi hay giảm theo qui mô) bằng cách sửa bất đẳng thức (1.91) thành đẳng thức. Cần lưu ý rằng công nghệ và hàm khoảng cách tương ứng không phụ thuộc vào đơn vị đo.

Về nguyên tắc, có thể tính chỉ số năng suất Malmquist tương ứng với bất kỳ dạng hàm sản xuất nào (chẳng hạn thoả mãn bất kỳ giả thiết nào về tính hiệu quả theo quy mô).

Ở đây ta tính chỉ số Malmquist tương ứng với hàm sản xuất có hiệu quả không đổi theo quy mô và áp dụng kỹ thuật phân rã cải biên của Färe và cộng sự (1994). Theo phương pháp phân rã này, thành phần thay đổi hiệu quả kỹ thuật tương ứng với hàm sản xuất có sản lượng không đổi theo quy mô được phân rã thành thay đổi hiệu quả thuần (được tính tương ứng với hàm sản xuất có sản lượng thay đổi theo quy mô) và phần dư quy mô đo sự sai lệch giữa hàm sản xuất có hiệu quả biến đổi theo quy mô và hàm sản xuất có hiệu quả không đổi theo quy mô.

Để tính năng suất của huyện k’ giữa hai thời kỳ t và t+1, ta phải giải 4 loại bài toán quy hoạch tuyến tính:3. Ở đây ta sử dụng tính chất đã biết là hàm khoảng cách đầu ra nhận giá trị nghịch đảo của thước đo hiệu quả kỹ thuật dựa trên sản lượng của Farrell và tính lần lượt cho từng k’ = 1, 2, …, K

(1.92)

với điều kiện





m = 1,…M; v=1,2,…8 (1.93)



n = 1,….., N (1.94)

0

k= 1,…., K, v=1,2,…8 (1.95)

Cách tính hoàn toàn tương tự như trên chỉ thay t = t +1.

Hai hàm khoảng cách dùng để xây dựng chỉ số Malmquist đòi hỏi thông tin từ hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất cho quan sát k’ được tính như sau:



(1.96)

với điều kiện





m = 1,…., M ; v=1,2,…8 (1.97)



n = 1,….., N (1.98)

0

k = 1,…., K (1.99)

Lưu ý (1.96) sử dụng quan sát của cả hai thời kỳ t và t+1. Công nghệ tham chiếu mà đối với (xk’, t+1, yk’, t+1) được ước lượng từ quan sát tại thời điểm t. Lưu ý là trong bài toán (1.92) (xk’, t+1 , yk’, t+1)  Ht và do đó . Tuy nhiên trong bài toán (1.96) (xk’,t+1, yk’, t+1) không nhất thiết thuộc Ht nên có thể nhận giá trị lớn hơn 1. Bài toán quy hoạch tuyến tính cuối cùng mà chúng ta cần phải giải là bài toán thời kỳ hỗn hợp. Bài toán này được xác định giống như (1.96) nhưng vị trí của chỉ số t và t+1 đổi chỗ cho nhau.

Để xác định thay đổi về hiệu quả theo quy mô, chúng tôi cũng tính hàm khoảng cách với giả thiết sản lượng thay đổi theo quy mô bằng cách bổ sung thêm điều kiện sau:



(VRS) (1.100)

Hiệu quả theo quy mô trong mỗi thời kỳ được xác định bằng tỷ số hàm khoảng cách thoả mãn điều kiện hiệu quả không đổi theo quy mô với hàm khoảng cách thoả mãn điều kiện hiệu quả thay đổi theo quy mô. Thành phần thay đổi hiệu quả được xác định bằng tỷ số của hàm khoảng cách trong thời kỳ thoả mãn điều kiện hiệu quả thay đổi theo quy mô. Tiến bộ công nghệ được ước lượng tương ứng với công nghệ có hiệu quả không đổi theo quy mô.



Kết luận, trong chương 1, luận án đã hệ thống các quan điểm về tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là quan điểm về chất lượng tăng trưởng kinh tế, ngày càng được nhiều người nghiên cứu. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hài hoà với quan điểm hiện đại của thế giới, đồng thời nó thể hiện đúng định hướng của Đảng về nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Luận án cũng đã trình bày một cách có hệ thống các mô hình tăng trưởng kinh tế: từ các mô hình đơn giản như mô hình Harrod-Domar, đến các mô hình tăng trưởng nội sinh nêu bật vai trò của sự tích luỹ kiến thức và vốn con người. Trong điều kiện số liệu thống kê chưa đầy đủ, ở Việt Nam, theo chúng tôi nên chọn mô hình Solow-Swan để áp dụng, đồng thời nếu có thể được nên áp dụng các mô hình nội sinh để bổ sung kết quả xem xét tăng trưởng cho hoàn thiện hơn.

Trên quan điểm tiếp cận hệ thống, luận án cũng nêu lên một số nguyên tắc khi phân tích tăng trưởng kinh tế địa phương trong mối quan hệ với kinh tế cả nước, đồng thời cũng được xem xét cùng với hệ thống kinh tế - xã hội ở địa phương.

Luận án đã đưa ra hai phương pháp phù hợp để có thể xây dựng các mô hình đánh giá vai trò của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, và tiến bộ công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế ở các địa phương.



CHƯƠNG 2


tải về 2.1 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương