68
Qua bảng 3.4 nhận thấy khi tăng nhiệt độ tổng hợp từ 130 - 145 - 160
o
C thì
khả năng phân tán của GO-Amin tăng. Điều này được giải thích là do khi tăng nhiệt
độ thì tăng hàm lượng nhánh Alkyl từ phân tử amin trên GO-Amin nên tăng khả
năng phân tán trong dầu gốc. Các amin có mạch cacbon dài với số nguyên tử
cacbon lớn hơn 8 sẽ gắn trên cạnh biên của graphen oxit (hình 3.10), chúng dễ
tương hợp với dầu bôi trơn (môi trường không phân cực) làm tăng khả năng phân
tán graphen trong dầu bôi trơn [23,47].
Qua bảng 3.4 cũng nhận thấy khi tăng chiều dài chuỗi mạch alkyl (số nguyên
tử cacbon) từ C
8
, C
12
, C
18
thì khả năng phân tán của GO-Amin trong dầu gốc
khoáng lại giảm tương ứng 16.2 – 9.8 – 5.6 g/l. Điều này được giải thích khi tăng
chiều dài mạch alkyl dẫn đến tăng khối lượng của phần tử GO-Amin và tăng lực
tương tác (hấp dẫn) giữa các phần tử GO-Amin dẫn đến các phần tử co cụm lại làm
tăng khối lượng đến mức độ giới hạn chúng sẽ tách ra khỏi hệ phân tán, làm giảm
khả năng phân tán và ổn định của phụ gia trong dầu gốc. Vì thế nhóm đề tài lựa
chọn tác nhân biến tính GO là C
8
H
17
NH
2
để tổng hợp mẫu phụ gia và khảo sát các
tính chất của dầu bôi trơn khi pha phụ gia GO-Amin.
3.4. Đánh giá tính năng phụ gia trên dầu bôi trơn
Với mục đích chế tạo phụ gia graphen biến tính amin giảm mài mòn cho dầu
bôi trơn nhóm nghiên cứu lựa chọn dầu gốc SN500 và dầu động cơ thương phẩm
20W50 để nghiên cứu. Ảnh chụp mẫu dầu phân tán đồng nhất đối với cả hai mẫu
dầu SN500 và 20W50 thể hiện trong hình 3.14
Đánh giá ảnh hưởng của amin biến tính đến hiệu quả giảm mài mòn của phụ
gia GO-Amin khi phân tán trong dầu SN500, nhóm tác giả lựa chọn
Octyl amin,
Dodecyl Amin và Octa Decyl amin. Các mẫu dầu pha phụ gia với hàm lượng khác
nhau, sau đó tiến hành xác định tải trọng hàn dính theo tiêu chuẩn ASTM D 2783-
09. Các mẫu phụ gia phân tán tốt trong dầu gốc. Kết quả được thể hiện trong bảng
3.5.
Bảng 3.5: Tải trọng hàn dính của mẫu dầu SN500 có pha phụ gia GO-Amin
70
này giải thích do khi tăng nồng độ quá mức giới hạn dẫn đến sự co cụm và mất đi
cấu trúc dạng lớp của phụ gia GO-Amin, và mức độ co cụm này tăng dần khi tăng
chiều dài mạch cacbon của phân tử amin từ C
8
đến C18 vì thế làm giảm khả năng
chống mài mòn (tải trọng hàn dính giảm) của phụ gia, điều này đã được chỉ ra trong
tài liệu tham khảo [47].
Hình 3.14: Ảnh chụp mẫu phân tán GO-C
8
H
17
NH
2
trong dầu 20W50 và SN500 với
hàm lượng 0.3 g/l và 0.4 g/l.
Hiệu quả giảm mài mòn cũng được tiến hành trên mẫu dầu, 20W50 HD50 khi
pha phụ
gia GO-C
8
H
17
NH
2
. Hiệu quả giảm mài mòn đạt 10.3 % trên mẫu dầu
20W50 pha 0.3g/l phụ gia. Với mẫu dầu HD50 hiệu quả giảm mài mòn đạt giá trị
cực đại tăng dần đến giá trị cực đại 10.86% khi tăng hàm lượng phụ gia từ 0 g/l đến
0.25 g/l và giảm khi tăng lên 0.3 g/l. Điều này được giải thích là do khi nồng độ
thấp thì các màng phủ của graphen trên bề mặt kim loại và trượt trên nhau có tác
dụng làm tăng hiệu quả giảm mài mòn, còn khi tăng hàm lượng phụ gia quá giới
hạn thì các phần tử phụ gia lại co cụm lại tăng kích thước và gây ra tác dụng ngược
làm giảm hiệu quả bôi trơn của dầu.