Đẳng Thứ Nữ Khoá II cadette-Peacemaker



tải về 404.89 Kb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích404.89 Kb.
#13031
1   2   3   4   5   6




9

Biết tiểu sử cụ BP và Phong Trào HĐ Thế Giới


Know the BP Biography and the History of the Scout Movement.




Baden-Powell của Gilwell-


Tên Baden-Powell được mọi người trên thế giới biết đến và kính trọng vì ông đã dâng hiến suốt cuộc đời, 83 năm, để phục vụ cho nước Anh và toàn thể loài người qua hai phần đời mà cụ sống hoàn toàn cách khác biệt nhưng toàn vẹn. Một là một quân nhân chiến đấu cho quốc gia và một là người đi phục vụ cho hoà bình qua tình anh em của phong trào HĐ thế giới.
Robert Stepheson Smyth Baden-Powell sinh tại số 6, đường Standhope (bây giờ là 11 Stanhope Terrace), Paddington, Luân Đôn, vào ngày 22, tháng 2, năm 1857. Ông là người con trai thứ sáu và là thứ tám của gia đình 10 người con của mục sư Baden-Powell, giáo sư đại học Oxford.
Bố cụ qua đời lúc B-P mới ba tuổi nên gia đình không được khá giả. B-P phải học ở nhà với mẹ và sau vào học tại trường Rose Hill, Tunbridge Wells. Nơi đây cụ được học bổng để đi học nội trú tại trường Charterhouse. Lúc đầu Charterhouse ở tại Luân Đôn sau lại về Godalming, Surrey, việc di chuyển đã có nhiều ảnh hưởng lên đời sống của cụ sau nầy. Cụ luôn ham mê học hỏi những điều mới. Cụ đánh dương cầm và violin. Cụ diễn xuất và đóng cả vai hề. Cụ học đặt gạch xây nhà. Và lúc học tại Charterhouse, cụ đã bắt đầu có ý thích tìm hiểu nghệ thuật dọ thám và làm đồ gỗ.
Cụ B-P thường lẻn ra khu rừng cạnh trường để theo dõi thú săn cũng như bắt thỏ rừng nấu ăn nhưng không bao giờ để khói lửa làm lộ vị trí của mình. Những ngày lễ cụ hay cùng các anh em đi thám hiểm. Có lần các cụ căng buồm quanh bờ biển nam nước Anh. Lần khác chèo thuyền ngược dòng sông Thame tìm đến tận nguồn. Nói chung trong lúc còn trẻ, cụ đã trau dồi những năng khiếu rất khiển dụng sau nầy. Tuy không giỏi về môn toán và lười học Pháp Văn, cụ đã đỗ hạng nhì khi thi vào kỵ binh và được bổ thẳng vào đoàn kỵ binh thứ 13, vượt qua cả các sĩ quan trong quân trường nhiều năm. Cuối cùng cụ đã trở thành Đại Tá danh dự của đoàn kỵ binh này suốt đến 30 năm.

Sự nghiệp trong quân ngũ của cụ đã rạng rỡ ngay lúc đầu. Với đoàn kỵ binh thứ 13, cụ đã phục vụ tại Ấn Độ, A Phú Hãn và Nam Phi Châu và đi vào cả khu vực của Zulu. Sau đó cụ phục vụ tại Malta với vai trò phụ tá bộ trưởng quân đội. Năm 1897, cụ được chuyển qua Ashanti, Phi Châu, dẫn quân đánh Prempeh. Thắng lợi, BP được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng đoàn vệ binh thứ 5 Dragoon, lúc mới 40 tuổi. Với chức vụ nầy cụ đã áp dụng phương pháp HĐ và khen thưởng binh lính những bằng huy hiệu khi họ đạt được những thành qủa đã đặt ra trước. Huy hiệu thường dựa theo kim chỉ nam từ trường của La Bàn. Các bằng huy hiệu HĐ ngày nay cũng tương tự như ngày xưa BP dùng.


Năm 1899 tại Mafeking thời điểm chuyển mình của B-P trong binh nghiệp. Là trung tướng lúc 43 tuồi, BP đã trở nổi danh và là thần tượng anh hùng của tất cả thanh thiếu niên trong nước, tuy BP vẫn không bao giờ long trọng hóa vai trò của mình và những giá trị lãnh đạo. Bằng cách dùng các thiếu niên nhận lãnh trách nhiệm trong lúc thành Mafeking bị vây ngặt nghèo, cụ đã biết được thiếu niên sẵn sàng hưởng ứng và nhận lãnh trách nhiệm trước mọi thử thách. Trong khi 217 ngày thành Mafeking bị vây, quyển sách “Hướng Dẫn Trinh Thám” đã được xuất bản và đã được nhiều người tìm đọc ngoài giới quân sự mà nhà xuất bản đã chủ trương. Sau Mafeking, B-P lãnh trách nhiệm thành lập nha thanh tra tại Nam Phi Châu và đã không trở về Anh Quốc cho tới năm 1903 với chức vụ tổng thanh tra kỵ binh. Bây giờ cụ mới biết quyển “Hướng Dẫn Trinh Thám” đã được các nhà lãnh đạo thanh và giới giáo chức dùng để hướng dẫn các thanh thiếu niên tại khắp mọi nơi. Một hôm thuyết trình tại buổi họp đoàn Thiếu Sinh Quân, người thành lập viên, Huân Tước William Smith, đã đề nghị cụ bày ra những phương pháp mới để giúp phát triển trẻ em thành những công dân tốt.-


Baden-Powell of Gilwell
The name Baden-Powell is known and respected throughout the world as that of a man who, in his 83 years, devoted himself to the service of his country and his fellow men in two separate and complete lives, one as a soldier fighting for his country, and the other as a worker for peace through the brotherhood of the Scout Movement.
Robert Stephenson Smyth Baden-Powell was born at 6 Stanhope Street (now 11 Stanhope Terrace), Paddington, London on February 22, 1857. He was the sixth son and the eighth of ten children of the Reverend Baden-Powell, a Professor at Oxford University.
BP’s father died when he was only three years old and the family were left none too well off. B.-P. was given his first lessons by his mother and later attended Rose Hill School, Tunbridge Wells, where he earned a scholarship for admittance to Charterhouse School. Charterhouse School was in London when B.-P. first attended but while he was there it moved to Godalming, Surrey, a factor that had great influence on his later life. He was always eager to learn new skills. He played the piano and fiddle. He acted - and acted the clown too at times. He practiced bricklaying, and it was during his experience as a scholar at Charter house that he began to explore his interest in the arts of Scouting and woodcraft.
In the woods around the school, B.-P. would stalk his Masters as well as catch and cook rabbits, being careful not to let the tell-tale smoke give his position away. On holidays, with his brothers he was always in search of adventure. One holiday they made a yacht expedition around the south coast of England. On another, they traced the Thames to its source by canoe. In all this, Baden-Powell was learning the arts and crafts that would prove so useful to him professionally. B.-P. was certainly not a 'swot' at school, as his end of term reports revealed. One record: 'Mathematics - has to all intents given up the study', and another: 'French - could do well but has become very lazy, often sleeps in school'. Nevertheless, he gained second place for cavalry in open examination for the Army and was commissioned straight into the 13th Hussars, bypassing the officer training establishments, and subsequently became their Honorary Colonel for 30 years.

His Army career was outstanding from the start. With the 13th Hussars he served in India, Afghanistan and South Africa and was mentioned in dispatches for his work in Zululand. Following three years service in Malta as Assistant Military Secretary, he went to Ashanti, Africa, to lead the campaign against Prempeh. Success led to his being promoted to command the 5th Dragoon Guards in 1897, at the age of 40. It was to the 5th Dragoon Guards that B.-P. gave his first training in Scouting and awarded soldiers who reached certain standards a badge based on the north point of the compass. Today's Scout Membership badge is very similar.

In 1899 came Mafeking, the most notable episode in his outstanding military career, in which he became a Major-General at the age of only 43. B.-P. became famous, the hero of every boy, although he always minimized his own part and the value of his inspiring leadership. By giving boys responsible roles during the siege, he learned how well youths responsed to a challenge. During the 217 day siege, B.-P.'s book Aids to Scouting was published and reached a far wider readership than the military one for which it was intended.  Following Mafeking, B.-P. was given the task of organising the South African Constabulary and it was not until 1903 that he returned to England as Inspector General of Cavalry and found that his book, Aids to Scouting was being used by youth leaders and teachers all over the country. He spoke at meetings and rallies and whilst at a Boys' Brigade gathering he was asked by its Founder, Sir William Smith, to work out a scheme for giving greater variety in the training of boys in good citizenship.







Khởi Đầu Của Phong Trào
B-P bỏ thời giờ viết lại quyển “Hướng dẫn Trinh Thám” với đối tượng là trẻ em. Năm 1907 cụ tổ chức trại tại Brownsea Island, Pool, Dorset, để thí nghiệm sáng kiến của mình. Cụ quy tụ 22 trẻ em từ mọi thành phần của xã hội vào chung một khu trại với sự hướng dẫn của chính cụ. Bây giờ toàn thế giới đã biết được kết qủa của kỳ trại như thế nào. Quyển “Hướng Đạo Cho Trẻ Em” được xuất bản năm 1908. Quyển sách đã bán chạy ngoài sự dự định. Trẻ em đã tự họp thành đội để thử sáng kiến của cụ. Dự định của quyển sách là phương pháp giúp các hội đoàn đã trở thành sổ tay của phong trào mới và toàn cầu. Sự hiểu biết thanh thiếu niên sâu sắc đã gây được những ấn tượng căn bản cho các trẻ em trong nước và ở khắp mọi nơi. Kể từ đó quyển “Hướng Đạo Cho Trẻ Em” đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau.

Không rầm rộ, không nghi lễ và hoàn toàn tự phát, thiếu niên ở khắp nơi đã tự lập đoàn. Năm 1908, B-P mở văn phòng để giải đáp những thắc mắc và hiếu kỳ liên quan đến phong trào từ khắp nơi gởi về.


Hướng Đạo đã phát triển nhanh chóng trên lãnh thổ của Anh Quốc và truyền sang các nước khác, HĐ hầu như hiện diện trên toàn bộ các nước tự do. Ngay cả các quốc gia không cho phép HĐ được sinh hoạt, cũng phải công nhận rằng họ đã dùng phương pháp HĐ để huấn luyện trẻ em của nước họ.
Với vai trò Tổng Thanh Tra Kỵ Binh, B-P biết rằng mình đã ở đỉnh cao sự nghiệp. Gậy chỉ huy Thống Chế đã trong tầm tay nhưng cụ giã từ Bộ Binh năm 1910 lúc 53 tuổi, qua sự đề nghị của vua Edward VII. Nhà vua cho rằng cụ có hữu ích hơn khi phục vụ cho quốc gia qua phong trào HĐ thay vì binh nghiệp.
Từ đó cụ đã dành hết sự hăng say và năng lực cho sự phát triển HĐ và phong trào Nữ Hướng Đạo. Cụ đã đi khắp mọi nơi trên thế giới, những nơi cần cụ nhất để khích lệ phát triển và truyền hứng thú cho mọi người.
Năm 1912, cụ kết hôn cùng bà Olave Soames, người đã luôn hỗ trợ và là bạn đồng hành của cụ trong các công tác HĐ. Hai người đã có 3 người con. Bà Olave, phu nhân Baden-Powell, là Hội Trưởng của Nữ Phong Trào HĐ Thế Giới cho đến lúc qua đời năm 1977.


The Beginnings of the Movement
B.-P. set out to rewrite Aids to Scouting, this time for a younger readership. In 1907 he held an experimental camp on Brownsea Island, Poole, Dorset, to try out his ideas. He brought together 22 boys, some from public schools and some from working class homes, and brought them to the camp under his leadership. The whole world now knows the results of that camp.

Scouting for Boys was published in 1908 in six fortnightly parts at 4d a copy. Sales of the book were tremendous. Boys formed Scout Patrols to try out ideas. What had been intended as a training aid for existing organisations became the handbook of a new and, ultimately worldwide movement. B.-P.’s great understanding of boys obviously touched something fundamental in the youth of this and other countries. Scouting for Boys has since been translated into many different languages and dialects.

Without fuss, without ceremony and completely spontaneously, boys began to form Scout Troops all over the country. In September 1908, B.-P. had set up an office to deal with the large number of inquiries that were pouring in concerning the Movement.

There is no need to describe the way in which Scouting spread throughout the British Commonwealth and to other countries until it was established in practically all parts of the free world. Even those countries where Scouting as we know it is not allowed to exist readily, admit that they used its methods for their own youth training.

As Inspector-General of Cavalry, B.-P. believed that he had reached the pinnacle of his career. The baton of Field Marshal was within his grasp but he retired from the Army in 1910 at the age of 53, on the advice of His Majesty King Edward VII, who suggested that he would do more valuable service for his country within the Boy Scout Movement (now Scout Movement) than anyone could hope to do as a soldier!

Now all his enthusiasm and energy was directed to the development of Scouting and its sister Movement, Guiding. He travelled to all parts of the world, wherever he was most needed, to encourage their growth and give others inspiration that he alone could give.

In 1912, he married Olave Soames who was his constant help and companion in all this work and by whom he had three children (Peter, Heather and Betty). Olave, Lady Baden-Powell, until she died in 1977, was known throughout the world as World Chief Guide.







Lãnh Tụ của HĐ Toàn Thế Giới-
Họp Bạn HĐ Thế Giới đầu tiên được tổ chức tại Olympia, Anh Quốc năm 1920. Lúc bế mạc, cụ B-P đã được tất cả đồng nhất chọn làm thủ lãnh của phong trào HĐTG. Vào những kỳ họp bạn quốc tế kế tiếp, dù là Thiếu Sinh hay Tráng Sinh hay người HĐ, đã chứng minh đấy không phải là một chức vụ danh dự mà là thủ lĩnh thật sự của họ. Tất cả hoan hô để đón chào khi cụ đến và hoàn toàn im lặng lắng nghe khi cụ đưa cao tay lên đã chứng minh cụ đã chế ngự trái tim và sức tưởng tượng của tất cả những người theo cụ bất kể nơi xuất thân của họ.
Vào kỳ họp bạn thế giới thứ 3, B-P được phong hiệu Huân Tước Baden-Powell of Gilwell- Gilwell Park. Gilwell là trại trường dùng để huấn luyện trưởng từ khắp mọi nơi trên thế giới.
Hướng đạo không phải là thú vui độc nhất của B-P. Cụ thường hay đi săn heo rừng và thú lớn, câu cá và đánh polo. Cụ còn rất xuất sắc vẽ hình trắng đen, màu nước, quay phim và điêu khắc. B-P viết hơn 32 quyển sách, thu lợi bán sách được trang trải cho những chuyến công du HĐ của cụ. Cũng giống như tất cả các lãnh tụ HĐ sau nầy, cụ không có lương bổng để lo chuyện HĐ.
Năm 1938, sức khỏe yếu kém, B-P trở lại Phi Châu hưu trí tại Byeri, Kenya. Tuy vậy cụ vẫn viết nhiều sách và hoạt họa.
Ngày 8 tháng 1 năm 1941 cụ qua đời lúc 83 tuổi. Cụ đã được chôn tại một ngôi mộ đơn giản ở Nyeri gần đỉnh núi Kenya. Bia mộ có khắc chữ “Robert Baden-Powell, thủ lãnh của phong trào HĐ thế giới” với rất nhiều huy hiệu HĐ của nam và nữ HĐ từ khắp mọi nơi. Đến nay ấn tượng của B-P vẫn khắc sâu trong trái tim của hàng triệu trẻ em và người lớn, nam lẫn nữ.


Chief Scout of the World
The first international Scout Jamboree took place at Olympia, London in 1920. At its closing scene, B.-P. was unanimously acclaimed as Chief Scout of the World. Successive international gatherings, whether of Scouts or Rovers (now called Venture Scouts), proved that this was not an honorary title, but that he was truly regarded by them all as their Chief. The shouts that heralded his arrival, and the silence that fell when he raised his hand, proved beyond any doubt that he had captured the hearts and imaginations of his followers in whatever country they owed allegiance
At the 3rd World Jamboree, held in Arrowe Park, Birkenhead, to celebrate the 21st Anniversary of the publication of Scouting for Boys, the Prince of Wales announced that B.-P. had been created a Peer. He took the title of Lord Baden-Powell of Gilwell - Gilwell Park being the International Training Centre for Scout Leaders.

Scouting was not B.-P.'s only interest, for he also excelled at pig-sticking and fishing, and favoured polo and big game hunting. He was also a very good black & white and watercolour artist and took an interest in cinephotography and sculpture. B.-P. wrote no less than 32 books, the money from which helped to pay for his Scouting travels. As with all his successors, he received no salary as Chief Scout.

In 1938, suffering from ill-health, B.-P. returned to Africa, which had meant so much in his life. He decided to live in semi-retirement in Nyeri, Kenya. Even here he found it difficult to curb his energies - he still produced many books and sketches.

On January 8, 1941, Baden-Powell died. He was 83 years of age. He is buried in a simple grave at Nyeri within sight of Mount Kenya. On his headstone are the words, 'Robert Baden-Powell, Chief Scout of the World' surmounted by the Boy Scout and Girl Guide Badges. His memory remains for all time in the hearts of millions of men and women, boys and girls.

  • Điều kiện:

Khóa sinh nộp cho trưởng 200-250 chử sơ lược những gì B-P đã làm lúc còn nhỏ đã giúp cho B-P được thành công sau nầy. Cho hai câu kết luận là HĐS đã học được gì qua tiểu sử của B-P. Đánh chữ 1 hàng.

  • Expectation:

For this requirement, Scout is to give the unit leader 200-250 words summary of the significance of B-P youth that contributed to his latter success in life. Give two sentences of what Scout learn from B-P biography. Type in single space.




10

Biết tên đội/tuần, cờ và tiếng hô của Đội/Tuần

Know the patrol/crew/troop name, flag and yell

Mỗi Đội/Tuần đều có tên, cờ và tiếng hô. Tất cả tượng trưng cho tinh thần, đồng đội và sức mạnh của đội/tuần của mình. Biết ý nghĩa của đội/tuần và tôn trọng cờ đội/tuần vì nó là chính mình và tất cả mọi người trong đội/tuần. Hô khẩu hiệu của đội/tuần lúc tập họp hay sinh hoạt. Tiếng hô phải được to, đều và hãnh diện. Lúc thi đua với đội/tuần khác, tiếng hô của mình sẽ cho đối phương biết mình có sẵn sàng hay không.


Every patrol has a name, flag and yell. They show the spirit, teamwork, and strength of your patrol. Know the meaning of your patrol name and respect your patrol flag because it represents you and your team. Give yell when your patrol is named at assembly and games. The yell should be in sync, proud, and loud. During competition with other patrols, your yell should tell others how good your team is.




  • Điều kiện:

  • Biết tên đội/hay tuần và ý nghiã.

  • Biết như thế nào là tôn trọng lá cờ.

  • Biết tiếng hô và quan trọng của nó.

  • Expectation:

  • Know the patrol name and meaning.

  • Know how to respect the patrol flag.

  • Know the patrol yell and its importance.





11

Cứu thương

First Aid

Một người bạn trợt chân té bị bể đầu, mình phải làm sao? Em mình ở nhà bỗng nhiên ngã bệnh và một lọ thuốc đổ gần đó, mình nghĩ em đã uống bậy nhưng phải như thế nào? Mình vô ý bị đứt tay, làm sao để tự cứu thương? Nếu là một người hướng đạo, mình biết phải làm gì vì ta đã học cứu thương và sắp sẵn để cứu giúp.

A friend slips, falls, and breaks his head. What can we do? A younger sibling suddenly falls sick and there is a vial of medication spilling on the floor nearby. We believe it could be medication overdose but what should we do? Because we are a Scout, we know what to do; we learn first aid and should be prepared to help others.







Cứu thương là gì? Mục đích của cứu thương:

  • Ngăn chặn những nguy hiểm thiệt hại tính mạng

  • Không để cho nạn nhân bị nguy hiểm thêm

  • Giúp cho nạn nhân được chữa trị chu toàn

What is First Aid? the purpose of First Aid:

  • Stop life threatening dangers.

  • Keep the victim safe from further harm.

  • Get proper medical help for the victim.







Tự tin-quang cảnh của một nơi xảy ra tai nạn thường rất ghê sợ vì người ta có thể la hét và khóc lóc. Những người khác mất hồn không biết phải làm gì. Chúng ta cần phải bình tĩnh và cố gắng hết sức để giúp người khác với khả năng của mình.

Nếu người có kinh nghiệm cứu thương hơn chủ động, cho họ biết mình là HĐ và có thể giúp. Họ có thể nhờ ta giúp tìm vật dụng cứu thương, xem chừng một người khác, đi kêu cứu, hay cần đứng sang một bên. Với vai trò nào cũng được, ta phải lạc quan. Sự tự tin của chính ta sẽ giúp cho người chung quanh quên đi lo sợ.



Confident- The scene of a bad accident can be scary. Injured people may be screaming. Witnesses could be too stunned to help. Try to stay calm and use the skills you have in the best way you can.

If more experienced first-aiders take charge, tell them you are a Scout and are ready to help. They may ask you to gather first aid supplies, look after people who are not injured, go for help, or simply stay out of the way. Whatever your role, be positive. Your confidence could help keep others calm.





Cẩn thận- antoàn của chính mình và những người chung quanh là trên hết. Nơi đụng xe, coi chừng những xe đang chạy trên đường. Nơi rừng núi để ý đá rơi, trơn trợt, vách sâu v.v…Nơi người mê man đang nằm, nên xem có những hơi của hoá chất độc hay dây điện rơi chung quanh hay không trước khi đến gần.
Phòng ngừa toàn bộ :

  • Phải coi tất cả máu và nước từ cơ thể đều có thể chứa vi khuẩn. Không bao giờ dùng tay không đụng tới máu; luôn mang găng tay cứu thương, rửa tay bằng nước và xà bông sau khi cứu thương. Có những vật dụng như sau trong hộp cứu thương cá nhân:

  • Găng tay nhựa-dùng khi cầm máu và băng bó.

  • Mặt nạ che- dùng khi cho hô hấp nhân tạo.

  • Kính che nhựa- dùng để che mắt để phòng máu và các chất nước của nạn nhân bắn vào mắt.

  • Thuốc khử vi trùng- dùng để lau da khi không có xà phòng và nước.

Approach Carefully- Look around to see what caused the accident, then make sure you don’t get hurt as you approach the victim. Be aware of slippery footing, steep slopes, electrical wires, traffic…Where there are unconscious victims, watch for chemical fumes or fallen electrical lines.
Universal precaution:

  • Treat all blood and bodily fluid as it was carried air-borne viruses.Do not use bare hands to stop blood. Wear latex gloves and wash exposed area with plenty of water and soap after treating the victim. Have the following equipment in first aid kits

  • Latex glove -to stop bleeding and to dress wounds.

  • Face shield- to give CPR

  • Plastic goggles- to shield eyes from splashes of blood and bodily fluid.

  • Antiseptic- to wipe skin when water and soap not available.


tải về 404.89 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương