Ứng phó VỚi biếN ĐỔi khí HẬu và NƯỚc biển dâNG


Thích ứng với biến đổi khí hậu trên nguyên tắc phát triển bền vững



tải về 0.58 Mb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích0.58 Mb.
#38253
1   2   3   4

5. Thích ứng với biến đổi khí hậu trên nguyên tắc phát triển bền vững


Việt Nam được đánh giá là một trong những nước chịu tác động mạnh mẽ của BĐKH. Hậu quả tác động của BĐKH đối với kinh tế - xã hội và môi trường chưa thể lường hết được, song chắc chắn BĐKH là nguy cơ hiện hữu đối với mục tiêu xóa đói giảm nghèo và là nguy cơ tiềm tàng đối với sự phát triển bền vững và việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Ứng phó với biến đổi khí hậu, vì thế, phải được tiến hành trên nguyên tắc phát triển bền vững, tổng hợp, ngành/liên ngành, vùng/liên vùng.

Nhận thức rõ tác động của BĐKH, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai nhiều chương trình, dự án liên quan, trong đó có nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu tình hình diễn biến khí hậu, tác động của chúng, các giải pháp ứng phó, chương trình phòng chống thiên tai, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, BĐKH là một vấn đề phức tạp, nhận thức của các tầng lớp xã hội còn rất hạn chế. Mặt khác, cơ sở hạ tầng ở nhiều vùng có nguy cơ cao về tác động của BĐKH còn rất thấp, trình độ khoa học, công nghệ còn hạn chế, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp. Nền kinh tế phát triển nhanh nhưng khó bền vững trong điều kiện BĐKH.

Nghiên cứu về thích ứng trong Thông báo quốc gia đầu tiên là nghiên cứu toàn diện nhất cho tới giờ về khả năng thích ứng của quốc gia đối với BĐKH toàn cầu. Mặc dầu vậy, những chiến lược thích ứng được đề xuất cho những vùng và lĩnh vực kinh tế dễ bị tổn thương nhất mới chỉ ở mức định tính và còn rất chung chung do sự giới hạn đáng kể trong hiểu biết về những ảnh hưởng tiềm ẩn lâu dài của BĐKH đối với quốc gia. Những nghiên cứu sau này sẽ phải trả lời những câu hỏi:

Những khu vực nào sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất của BĐKH?

Những ngành kinh tế nào sẽ chịu ảnh hưởng xấu? Có những hoạt động nào thu được lợi ích từ những hậu quả tiềm tàng của BĐKH?

Những biện pháp nào có thể giảm được nhiều nhất tính dễ bị tổn thương?

Làm thế nào để lồng ghép sự thích ứng vào những chiến lược phát triển ưu tiên khác?

Chúng ta đã có truyền thống hàng nghìn năm đương đầu và chống chọi với thiên tai. Những biện pháp truyền thống đối phó với BĐKH như xây dựng hệ thống đê, mương, các công trình làm chậm và chuyển hướng lũ, dự báo thời tiết... vẫn sẽ được khai thác tích cực.

BĐKH sẽ tác động mạnh mẽ không chỉ trong sự gia tăng tính bất ổn của khí hậu mà còn trong cường độ và tần suất của những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, có thể sẽ gây thiệt hại to lớn cho sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước. Những chiến lược thích ứng về BĐKH sẽ thay đổi khái niệm về sự thích ứng từ bị động đối phó thành chủ động phòng ngừa, đưa những ảnh hưởng tiềm ẩn của BĐKH như là một chỉ dẫn quan trọng cho việc hoạch định chính sách, khác với kiểu thích ứng “trông và chờ” truyền thống. Trọng tâm nhất của những phương án thích ứng được nhằm vào những lĩnh vực dễ bị ảnh hưởng nhất của đất nước do BĐKH trong tương lai, bao gồm cả tài nguyên nước, nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, vùng ven biển, năng lượng, giao thông vận tải, và y tế.

Những chọn lựa thích ứng cho các khu vực và lĩnh vực dễ bị thiên tai sẽ được phát triển dựa trên những đánh giá về BĐKH ở Việt Nam và những kế hoạch phát triển ở cấp tỉnh, cấp quốc gia và ở cấp ngành. Bởi vậy những chọn lựa thích ứng cụ thể có thể là rất đa dạng ở những lĩnh vực và cấp độ khác nhau và phụ thuộc rất nhiều vào những chính sách ưu tiên cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực hiện có. Nhìn chung, một “chính sách đưa việc thích ứng vào trong kế hoạch phát triển quốc gia” ở cấp trung ương có thể dẫn đến sự thành công trong xây dựng những chiến lược thích ứng mức địa phương/khu vực nhằm củng cố khả năng thích ứng của đất nước trong mối liên kết với những ưu tiên khác.

Do đường bờ biển nước ta dài và tập trung đông dân cư cũng như vai trò thiết yếu của miền duyên hải trong việc phát triển kinh tế đất nước, những chiến lược thích ứng cho vùng ven biển vì thế sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu để giảm những ảnh hưởng tiềm ẩn của BĐKH ở nước ta. Một chương trình mục tiêu thích ứng với BĐKH là một bước đi quan trọng cho quá trình hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội có tính toán đến tác động của biến dổi khí hậu.



Tài liệu tham khảo

  1. Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước Khung của Liên hiệp quốc về BĐKH, Hà Nội 2003;

  2. Adaptation to climate change: Theory and Assessment, Cambridge University Press;

  3. IPCC, “Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change”: WGI: "The Physical Science of Climate Change", WGII: "Impacts, Adaptation & Vulnerability", WGIII: "Mitigation of Climate Change", 2007;

  4. Burton I., Smith J. B., and Lenhart S., Adaptation to Climate Change: Theory and Assessment, UNEP/IVM Handbook, Version 2.0, October 1998.


BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG

GS.TSKH. Nguyễn Đức Ngữ

Nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Khí tượng Thủy văn

TS. Nguyễn Văn Thắng

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng Khí hậu


  1. Biến đổi khí hậu toàn cầu - Mối quan tâm lớn của toàn thế giới

Trong thời gian gần đây, nhất là từ khi Ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu công bố Báo cáo đánh giá lần thứ 3 (IPCC, 2001), cung cấp các thông tin và những bằng chứng khoa học về sự can thiệp nguy hiểm của con người vào hệ thống khí hậu trái đất như là đầu vào cho các nhà lập chính sách, nhằm quyết định các giải pháp để ngăn ngừa sự can thiệp nguy hiểm đó và là cơ sở để đặt vấn đề biến đổi khí hậu trong khuôn khổ của sự phát triển bền vững và hơn nữa, còn là một trong những thách thức lớn nhất đối với mục tiêu này, Biến đổi khí hậu trở thành chủ đề của nhiều Diễn đàn và Hội nghị cấp cao trên thế giới. Nhiều Hội nghị đã ra tuyên bố về biến đổi khí hậu như Hội nghị cấp cao Á - Âu lần thứ 6 (ASEM 6) họp tháng 11 năm 2006 tại Copenhagen (Đan Mạch), Hội nghị thượng đỉnh các nước công nghiệp phát triển (G8) họp tháng 6 năm 2007, Hội nghị cấp cao APEC họp tháng 9 năm 2007 tại Úc, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc họp tháng 9 năm 2007, Hội nghị quốc tế về Biến đổi khí hậu họp tại Bali (Inđônêxia) tháng 12 năm 2007, và gần đây nhất là Hội nghị diễn đàn kinh tế thế giới họp tại Đa vốt (Thụy Sĩ) tháng 1 năm 2008 v.v... Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon phát biểu trong thông điệp gửi Chính phủ các nước rằng "Biến đổi khí hậu cũng khiến nhân loại phải đối mặt với những đe dọa to lớn như chiến tranh", rằng "Biến đổi khí hậu không chỉ là vấn đề môi trường, mà còn là mối đe dọa toàn diện, ảnh hưởng đến sức khỏe con người, đến tình trạng cung cấp lương thực toàn cầu, đến vấn đề di dân và đe dọa nền hòa bình và anh ninh thế giới". Nhiều nước đã thành lập các tổ chức để chỉ đạo và điều phối các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng các chương trình, chiến lược hoặc kế hoạch hành động quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.

Ở trong nước, gần đây dư luận cũng quan tâm nhiều hơn đến biến đổi khí hậu, nhất là sau báo cáo của Ngân hàng thế giới, công bố tháng 2 năm 2007 về ảnh hưởng của mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu đối với Việt Nam. Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương có bài đăng trên báo Nhân dân số ra ngày 14 tháng 3 năm 2007 với tiêu đề "Hiểm họa của Biến đổi khí hậu toàn cầu đối với Việt Nam và nhìn từ Việt Nam". Ngày 03 tháng 12 năm 2007, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP về việc giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Thực ra, ngay từ đầu những năm 1990, những bằng chứng về sự biến đổi khí hậu, tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng lên đã được Ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu đưa ra tại Hội nghị Khí hậu thế giới lần thứ 2 họp tại Geneve (Thụy Sĩ) năm 1990 và là cơ sở cho nhiều cuộc hiệp thương liên Chính phủ để tiến tới Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu, được 155 nước và vùng lãnh thổ ký tại Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển họp ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992.

Tuy nhiên, phải mất 5 năm (1997), Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước mới được thông qua. Nghị định thư này như một cam kết có tính pháp lý để thực hiện Công ước, theo đó, các nước công nghiệp hóa phải giảm các phát thải tổng hợp khí nhà kính ít nhất 5% so với mức năm 1990 của nước mình vào thời kỳ 2008 - 2012.

Mặc dù vậy, phải mất thêm 8 năm nữa (2005), Nghị định thư Kyoto mới có hiệu lực thi hành sau khi nó được phê chuẩn bởi 55 Bên của Công ước, bao gồm các nước phát triển chiếm tới ít nhất 55% tổng lượng phát thải đioxit cacbon năm 1990 từ nhóm các nước công nghiệp hóa. Trong khi đó, các số liệu quan trắc cho thấy hàm lượng các khí nhà kính trong khí quyển tiếp tục tăng lên và đạt mức cao nhất từ trước đến nay, nhiệt độ không khí và đại dương trung bình toàn cầu tiếp tục tăng lên chưa từng có, băng và tuyết trên phạm vi rộng lớn của trái đất tiếp tục tan chảy và mực nước biển trung bình toàn cầu tiếp tục dâng lên, thiên tai và những thiệt hại do các hiện tượng khí hậu cực đoan ngày càng gia tăng ở nhiều nơi, đe dọa sự phát triển và an ninh thế giới...

Người ta nhận ra rằng, trên thực tế, cộng đồng thế giới hầu như chưa làm được gì để hướng tới mục tiêu của Công ước là ngăn ngừa sự can thiệp nguy hiểm của con người dẫn tới sự biến đổi của khí hậu.

Biến đổi khí hậu tác động đến mọi quốc gia, mọi người, song không một quốc gia riêng lẻ nào, dù có tiềm lực lớn bao nhiêu, một mình có thể giải quyết được vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu.

Nhận thức và nhất trí về viễn cảnh của thế giới trong tình trạng trái đất nóng lên và những hiểm họa tiềm tàng của nó, cho đến nay có thể nói là đã đạt được trên quy mô toàn cầu (tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về BĐKH, không một thành viên tham dự nào tỏ ý nghi ngờ vấn đề này), song quy kết nguyên nhân, xác định và chia sẻ trách nhiệm thì khó khăn hơn nhiều, chung quy cũng vì lợi ích riêng và vì cả những lý do chính trị.

Dù sao, việc đạt được những thỏa thuận như Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH và Nghị định thư Kyoto để giải quyết một vấn đề toàn cầu phức tạp này đã là một thành công to lớn của nhân loại.


  1. Thực trạng biến đổi khí hậu toàn cầu và nước biển dâng.

Ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) đã đưa ra 4 báo cáo đánh giá tình hình BĐKH toàn cầu:

Báo cáo đánh giá lần thứ nhất (1990) là cơ sở để Liên Hiệp Quốc quyết định thành lập Ủy ban Hiệp thương liên Chính phủ về một Công ước khí hậu và đã tiến tới Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu được ký kết tháng 6 năm 1992.

Báo cáo đánh giá lần thứ hai (1994) là cơ sở để thảo luận và thông qua Nghị định thư Kyoto tại Hội nghị lần thứ 3 các Bên Công ước (1997).

Báo cáo đánh giá lần thứ ba (2001), sau 10 năm thông qua Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu.

Báo cáo đánh giá lần thứ tư (2007), sau 10 năm thông qua Nghị định thư Kyoto và một năm trước khi bước vào thời kỳ cam kết đầu tiên theo Nghị định thư (2008 - 2012), để chuẩn bị cho việc thương lượng về thời kỳ cam kết tiếp theo.

Mỗi lần đánh giá đều có những tiến bộ mới về nguồn số liệu và phương pháp, làm giảm đáng kể những điều chưa chắn chắn tồn tại trước đây, do đó, nâng cao rõ rệt mức độ tin cậy của những kết luận về biến đổi khí hậu trong quá khứ cũng như trong tương lai.



Sau đây là những kết luận chính trong báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC được công bố tháng 2 năm 2007.

  1. Sự nóng lên toàn cầu của hệ thống khí hậu hiện nay là chưa từng có và rất rõ ràng từ những quan trắc nhiệt độ và đại dương trung bình toàn cầu, sự tan chảy của băng và tuyết trên phạm vi rộng lớn và sự dâng lên của mực nước biển trung bình toàn cầu:

  • Xu thế tăng nhiệt độ trong chuỗi số liệu 100 năm (1906 - 2005) là 0,740C; Xu thế tăng nhiệt độ trong 50 năm gần đây là 0,130C/1 thập kỷ, gấp 2 lần xu thế tăng của 100 năm qua.

  • Nhiệt độ trung bình ở Bắc cực đã tăng với tỷ lệ 1,50C/100 năm, gấp 2 lần tỷ lệ tăng trung bình toàn cầu, nhiệt độ trung bình ở Bắc cực trong 50 năm cuối thế kỷ 20 cao hơn bất kỳ nhiệt độ trung bình của 50 năm nào khác trong 500 năm gần đây và có thể là cao nhất, ít nhất là trong 1300 năm qua.

  • Nhiệt độ trung bình ở đỉnh lớp băng vĩnh cửu ở Bắc bán cầu đã tăng 30C kể từ năm 1980.

  • 11 trong số 12 năm gần đây (1995 - 2006) nằm trong số 12 năm nóng nhất trong chuỗi quan trắc bằng máy kể từ năm 1850.

  1. Mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng với tỷ lệ trung bình 1,8mm/năm trong thời kỳ 1961 - 2003 và tăng nhanh hơn với tỷ lệ 3,1mm/năm trong thời kỳ 1993 - 2003. Tổng cộng, mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng lên 0,31m trong 100 năm gần đây.

Chính sự tan băng ở Greenland, Bắc cực và Nam cực đã làm cho mực nước biển tăng nhanh hơn trong thời kỳ 1993 - 2003. Ngoài ra, nhiệt độ trung bình của đại dương toàn cầu tăng lên (ít nhất là tới độ sâu 3000m) cũng góp phần vào sự tăng lên của mực nước biển.

  1. Số liệu vệ tinh cho thấy, diện tích biển băng trung bình năm ở Bắc Cực đã thu hẹp 2,7%/thập kỷ. Riêng mùa hè giảm 7,4%/thập kỷ. Diện tích cực đại của lớp phủ băng theo mùa ở Bắc bán cầu đã giảm 7% kể từ năm 1990, riêng trong mùa xuân giảm tới 15%.

Mới đây, tại Hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu họp ở Bruxen (Bỉ), các báo cáo khoa học cho biết, ở Bắc cực, khối băng dày 2 dặm (khoảng trên 3km) đang mỏng dần và đã mỏng đi 66cm. Ở Nam Cực, băng cũng đang tan với tốc độ chậm hơn và những núi băng ở Tây Nam cực đổ sụp. Những lớp băng vĩnh cửu ở Greenland tan chảy. Ở Alaska (Bắc Mỹ, trong những năm gần đây nhiệt độ đã tăng 1,50C so với trung bình nhiều năm, làm tan băng và lớp băng vĩnh cửu đã giảm 40%, những lớp băng hàng năm dày khoảng 1,2m đã giảm 4 lần, chỉ còn 0,3m. Báo cáo cũng cho biết, các núi băng trên cao nguyên Thanh Hải (Trung Quốc) ở độ cao 5000m mỗi năm giảm trung bình 7% khối lượng và 50 - 60m độ cao, uy hiếp nguồn nước của các sông lớn ở Trung Quốc. Trong 30 năm qua, trung bình mỗi năm, diện tích lớp băng trên cao nguyên Tây Tạng bị tan chảy khoảng 131km2, chu vi vùng băng tuyết bên sườn cao nguyên mỗi năm giảm 100 - 150m, có nơi tới 350m. Diện tích các đầm lầy trong khu vực này cũng giảm 10%. Tất cả đang làm cạn kiệt hồ nước Thanh Hải, một hồ lớn nhất Trung Quốc, đe dọa hồ sẽ bị biến mất trong vòng 200 năm tới. Nếu nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng, khối lượng băng tuyết ở khu vực cao nguyên sẽ giảm 1/3 vào năm 2050 và chỉ còn 1/2 vào năm 2090.

  1. Nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu hiện nay.

  1. Biến đổi khí hậu trong thời đại địa chất.

Khí hậu trái đất đã trải qua nhiều lần biến đổi. Khoảng 45 triệu năm về trước, một thiên thạch khổng lồ va vào trái đất làm bề mặt trái đất bị bao phủ một lượng khói bụi dày đặc, và trái đất bị chìm trong bóng tối một thời gian dài do không có ánh sáng mặt trời. Trái đất bị lạnh đi và loài khủng long bị tiêu diệt.

Khoảng 2 triệu năm trước công nguyên, trái đất cũng trải qua nhiều lần băng hà lạnh lẽo và gian băng ấm áp, với chu kỳ mỗi lần khoảng 100 nghìn năm. Chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa kỳ băng hà và gian băng khoảng 5 - 70C, riêng ở vùng cực khoảng 10 - 150C.

Thời kỳ gian băng khoảng 125 nghìn đến 130 nghìn năm trước công nguyên, nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất cao hơn thời kỳ tiền công nghiệp (1750) khoảng 20C và mực nước biển trung bình cao hơn trong thế kỷ 20 từ 4 đến 6m.

Thời kỳ băng hà cuối cùng kết thúc cách đây khoảng 10 -15 nghìn năm. Sau thời kỳ này, trái đất ấm dần lên, các sinh vật mới dần dần phát triển. Sa mạc Sahara trong khoảng 12 nghìn đến 4 nghìn năm trước công nguyên có cây cỏ và chim muông. Khoảng 5 - 6 nghìn năm trước công nguyên, nhiệt độ trái đất cao hơn hiện nay.

Đầu thế kỷ 14, Châu Âu trải qua một kỷ băng hà nhỏ kéo dài khoảng vài trăm năm. Những khối băng khổng lồ hình thành và những mùa đông khắc nghiệt làm cho mùa màng thất bát, dẫn đến nạn đói, nhiều gia đình phải di cư đi nơi khác.

Những biến đổi khí hậu xảy ra trong thời kỳ địa chất đều do các nguyên nhân tự nhiên, trong đó chủ yếu là sự chuyển động của trái đất, các vụ phun trào của núi lửa và hoạt động của mặt trời.



  1. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu trong thời kỳ hiện đại.

Nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu hiện nay, tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định là do hoạt động của con người. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính, làm tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất.

Những số liệu về hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các lõi băng được khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và gian băng (khoảng 18 nghìn năm trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển chỉ khoảng 180 - 200ppm (phần triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp (280ppm). Từ khoảng năm 1800, hàm lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con số 300ppm và đạt 379ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với thời kỳ tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua.

Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH4), ôxit nitơ (N2O) cũng tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên 1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất khí chlorofluoro cacbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn gấp nhiều lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ô zôn bình lưu, chỉ mới có trong khí quyển do con người sản xuất ra kể từ khi công nghiệp làm lạnh, hóa mỹ phẩm phát triển.

Đánh giá khoa học của IPCC cho thấy, việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng v.v... đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9%, các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là các hoạt động khác (chôn rác thải v.v...).

Từ năm 1840 đến năm 2004, tổng lượng phát thải khí CO­ của các nước giàu chiếm tới 70% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và Anh, trung bình mỗi người dân phát thải 1100 tấn, gấp khoảng 17 lần ở Trung Quốc và 48 lần ở Ấn Độ.

Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO2­­ của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn (lấy tròn), bằng khoảng 20% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu. Trung Quốc là nước phát thải lớn thứ 2 với 5 tỷ tấn CO2(1), tiếp theo là Liên Bang Nga 1,5 tỷ tấn, Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật Bản 1,2 tỷ tấn, CHLB Đức 800 triệu tấn, Canada 600 triệu tấn, Vương quốc Anh 580 triệu tấn. Các nước đang phát triển phát thải tổng cộng 12 tỷ tấn CO, chiếm 42% tổng lượng phát thải toàn cầu so với 7 tỷ tấn năm 1990 (29% tổng lượng phát thải toàn cầu), cho thấy tốc độ phát thải khí CO­2 của các nước này tăng khá nhanh trong khoảng 15 năm qua. Một số nước phát triển dựa vào đó để yêu cầu các nước đang phát triển cũng phải cam kết giảm phát thải như là điều kiện để họ thực hiện các cam kết của mình theo Công ước khí hậu.

Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2 (không kể các khí nhà kính khác). Năm 2004, phát thải 98,6 triệu tấn CO, tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn một năm (trung bình của thế giới là 4,5 tấn/năm, Xingapo 12,4 tấn, Malaixia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn, Inđônêxia 1,7 tấn, Philippin 1,0 tấn, Myanma 0,2 tấn, Lào 0,2 tấn)(2). Như vậy, phát thải các khí CO2­­ của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15 năm qua, song vẫn ở mức rất thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong khu vực. Dự tính tổng lượng phát thải các khí nhà kính của nước ta sẽ đạt 233,3 triệu tấn CO­ tương đương vào năm 2020, tăng 93% so với năm 1998(3)

Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi các nước giàu chỉ chiếm 15% dân số thế giới, nhưng tổng lượng phát thải của họ chiếm tới 45% tổng lượng phát thải toàn cầu; các nước Châu Phi và cận Sahara với 11% dân số thế giới chỉ phát thải 2%, và các nước kém phát triển với 1/3 dân số thế giới chỉ phát thải 7% tổng lượng phát thải toàn cầu.

Đó là điều mà các nước đang phát triển nêu ra về bình đẳng và nhân quyền tại các cuộc thương lượng về Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto.

Chính vì thế, một nguyên tắc cơ bản, đầu tiên được ghi trong Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu là "Các Bên phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của các thế hệ hiện nay và mai sau của nhân loại, trên cơ sở công bằng, phù hợp với những trách nhiệm chung nhưng có phân biệt và Bên các nước phát triển phải đi đầu trong việc đấu tranh chống Biến đổi khí hậu và những ảnh hưởng có hại của chúng"

Trong Nghị định thư Kyoto (Điều 10) còn ghi "Tất cả các Bên, có xem xét những trách nhiệm chung nhưng có phân biệt và các tình huống, mục tiêu và những ưu tiên phát triển đặc biệt của quốc gia và khu vực, không đưa thêm bất kỳ cam kết mới nào cho các Bên không thuộc Phụ lục I" (tức Bên các nước đang phát triển).


  1. Khí nhà kính và hiệu ứng nhà kính

Trong thành phần của khí quyển trái đất, khí nitơ chiếm tới 78% khối lượng khí quyển, khí oxy chiếm 21%, còn lại khoảng 1% là các khí khác như acgon, đioxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ, nêôn, hêli, hydro, ôzôn v.v... và hơi nước. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, các khí vết này, đặc biệt là khí điôxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ và CFCs, một loại khí chỉ mới có trong khí quyển từ khi công nghệ làm lạnh phát triển, là những khí có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên trái đất. Trước hết, đó là vì các chất khí nói trên có khả năng hấp thụ bức xạ hồng ngoại do mặt đất phát ra, sau đó, một phần lượng bức xạ này lại được các chất khí đó phát xạ trở lại mặt đất, qua đó hạn chế lượng bức xạ hồng ngoại của mặt đất thoát ra ngoài khoảng không vũ trụ và giữ cho mặt đất khỏi bị lạnh đi quá nhiều, nhất là về ban đêm khi không có bức xạ mặt trời chiếu tới mặt đất.

Các chất khí nói trên, trừ CFCs, đã tồn tại từ lâu trong khí quyển và được gọi là các khí nhà kính tự nhiên. Nếu không có các chất khí nhà kính tự nhiên, trái đất của chúng ta sẽ lạnh hơn hiện nay khoảng 330C, tức là nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất sẽ khoảng -180C. Hiệu ứng giữ cho bề mặt trái đất ấm hơn so với trường hợp không có các khí nhà kính được gọi là "hiệu ứng nhà kính". Ngoài ra, khí ôzôn tập trung thành 1 lớp mỏng trên tầng bình lưu của khí quyển có tác dụng hấp thụ các bức xạ tử ngoại từ mặt trời chiếu tới trái đất và qua đó bảo vệ sự sống trên trái đất.

Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp về trước, ít nhất khoảng 10 nghìn năm, nồng độ các khí nhà kính rất ít thay đổi, trong đó khí CO2 chưa bao giờ vượt quá 300ppm. Chỉ riêng lượng phát thải khí CO2 do sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng hàng năm trung bình từ 6,4 tỷ tấn cacbon (~ 23,5 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990 lên đến 7,2 tỷ tấn cacbon (~ 45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ 2000 - 2005.

Sự tăng lên của các khí nhà kính dẫn đến gia tăng hiệu ứng nhà kính của lớp khí quyển đã tạo ra một lượng bức xạ cưỡng bức với độ lớn trung bình là 2,3w/m2, làm cho trái đất nóng lên.

Các nhân tố khác, trong đó có các sol khí (bụi, cacbon hữu cơ, sulphat, nitrat...) gây ra hiệu ứng âm (lạnh đi) với lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng trực tiếp là -0,5w/m2 và gián tiếp qua phản xạ của mây là -0,7 w/m2; thay đổi sử dụng đất làm thay đổi suất phản xạ bề mặt, tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng được xác định bằng -0,02 w/m2; trái lại, sự tăng khí ôzôn trong tầng đối lưu do sản xuất và phát thải các hóa chất và sự thay đổi trong hoạt động của mặt trời trong thời kỳ từ 1750 đến nay được xác định là tạo ra hiệu ứng dương với tổng lượng bức xạ cưỡng bức lần lượt là 0,35 w/m2 và 0,12 w/m2.

Như vậy, tác động tổng cộng của các nhân tố khác, ngoài khí nhà kính, đã tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức âm. Vì thế, trên thực tế, sự tăng lên của nhiệt độ trung bình toàn cầu quan trắc được trong thời gian qua đã bị triệt tiêu một phần, nói cách khác, sự tăng lên của riêng hàm lượng khí nhà kính nhân tạo trong khí quyển làm trái đất nóng lên nhiều hơn so với những gì đã quan trắc được, và điều đó càng khẳng định sự biến đổi khí hậu hiện nay là do các hoạt động của con người mà không thể được giải thích là do các quá trình tự nhiên.



  1. Nguyên nhân của nước biển dâng

Nước biển dâng là sự dâng mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó không bao gồm triều, nước dâng do bão… Nước biển dâng tại một vị trí nào đó có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với trung bình toàn cầu vì có sự khác nhau về nhiệt độ của đại dương và các yếu tố khác. Mực nước biển có đo được thông qua hệ thống thiết bị đo triều ký đặt tại các trạm Hải văn hoặc các máy đo độ cao từ vệ tinh.

Theo Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của Ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC), “sự nóng lên của hệ thống khí hậu đã rõ ràng được minh chứng thông qua số liệu quan trắc ghi nhận sự tăng lên của nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước biển trung bình toàn cầu, sự tan chảy nhanh của lớp tuyết phủ và băng, làm tăng mực nước biển trung bình toàn cầu”.

Mực nước biển tăng phù hợp với xu thế nóng lên do có sự đóng góp của các thành phần chứa nước trên toàn cầu được ước tính gồm: Giản nở nhiệt của các đại dương, các sông băng trên núi, băng Greenland, băng Nam cực và các nguồn chứa nước trên đất liền.


  1. Xu thế biến đổi khí hậu và nước biển dâng trên thế giới trong thế kỷ 21.

Theo Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của Ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu, đến cuối thế kỷ 21, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển sẽ đạt 540 - 970ppm theo các kịch bản khác nhau về phát thải khí nhà kính, nghĩa là tăng ít nhất gấp đôi so với thời kỳ tiền công nghiệp, và như vậy, nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ tăng lên tương ứng là 2,0 - 4,50C (1,1 – 6,4oC), mực nước biển trung bình toàn cầu sẽ tăng lên từ 0,18 đến 0,59m so với cuối thế kỷ 20.

Tuy kịch bản mực nước biển dâng còn chưa chắc chắn, vì có nhiều điều không biết rõ về sự đóng góp của băng Greenland và Nam cực. Nhưng thực tế, các nghiên cứu gần đây đưa ra tốc độ tăng mực nước biển cao hơn, là từ 0,5 đến 1,4m vào cuối thế kỷ 21.

Tình hình trên đây có thể coi là bất khả kháng, ít nhất trong thế kỷ 21, cho dù hàm lượng các khí nhà kính được giữ ổn định ở mức năm 2000, thì nhiệt độ trung bình toàn cầu vẫn tăng và mực nước biển trung bình toàn cầu vẫn dâng cao hơn, tương ứng 2oC và 0,1-0,25m/thế kỷ.


  1. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam.

Theo số liệu quan trắc, trong khoảng 70 năm qua (1931 - 2000):

  • Nhiệt độ không khí trung bình năm đã tăng trung bình 0,7­0C;

  • Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm rõ rệt trong 2 thập kỷ gần đây, từ 29 đợt mỗi năm trong các thập kỷ 1971 - 1980, 1981 - 1990 xuống còn 24 đợt mỗi năm trong thập kỷ 1991 - 2000, đặc biệt trong các năm 1994 và 2007, chỉ có 15 - 16 đợt mỗi năm;

  • Số cơn bão hoạt động trên Biển Đông và ảnh hưởng đến Việt Nam có xu thế giảm trong 4 thập kỷ qua: ở Biển Đông, từ 114 cơn trong thập kỷ 1961 - 1970 xuống còn 103 cơn trong thập kỷ 1991 - 2000; Ở Việt Nam, từ 74 cơn trong thập kỷ 1961 - 1970 xuống còn 68 cơn trong thập kỷ 1991 - 2000, số cơn bão mạnh có chiều hướng tăng lên, mùa bão kết thúc muộn hơn, quỹ đạo bão có vẻ dị thường hơn và số cơn bão ảnh hưởng tới khu vực Nam Bộ có phần tăng lên trong những năm gần đây;

  • Số ngày mưa phùn ở miền Bắc giảm một nửa, từ trung bình 30 ngày mỗi năm trong thập kỷ 1961 - 1970 xuống còn 15 ngày mỗi năm trong thập kỷ 1991 - 2000;

  • Lượng mưa biến đổi không nhất quán giữa các vùng. Riêng trong hai thập kỷ gần đây, lượng mưa năm ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có xu hướng giảm đi, trong khi ở Đà Nẵng có xu hướng tăng lên;

  • Hạn hán có xu hướng mở rộng ở hầu hết các vùng, đặc biệt là cực Nam Trung Bộ, dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc hóa;

  • Mực nước biển trung bình đã tăng 25 - 30cm trong khoảng 50 năm qua;

  • Hiện tượng El Nino và La Nina ảnh hưởng đến nước ta mạnh mẽ hơn trong vài thập kỷ gần đây, gây ra nhiều kỷ lục có tính dị thường về thời tiết như nhiệt độ cực đại, nắng nóng và hạn hán gay gắt trên diện rộng, cháy rừng khi có El Nino, điển hình là năm 1997 - 1998; mưa lớn, lũ lụt và rét hại khi có La Nina như năm 2007.

  1. Xu thế biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong thế kỷ 21

Theo các kịch bản biến đổi khí hậu, ở Việt Nam, nhiệt độ trung bình năm sẽ tăng thêm 20C vào năm 2050 và 2,50C vào năm 2070 so với trung bình thời kỳ 1961 - 1990. Dự tính đến năm 2100, nhiệt độ sẽ tăng khoảng 30C. Nhiệt độ trung bình tăng sẽ làm tăng số đợt nắng nóng và số ngày nắng nóng hàng năm.

Mực nước biển trung bình có thể tăng 35cm vào năm 2050, 50cm vào năm 2070 và dự tính đến năm 2100, có thể tăng khoảng 1m.

Lượng mưa mùa mưa ở phần lớn các vùng, nhất là Trung Bộ tăng 5 - 10% vào các mốc thời gian nói trên, nhưng lượng mưa mùa khô ở nhiều vùng có thể giảm 0 - 5%, vì thế tình hình lũ lụt trong mùa mưa và hạn hán trong mùa khô ở một số vùng có thể nghiêm trọng hơn, nhất là trong những điều kiện có sự xuất hiện của El Nino và La Nina. Sự nóng lên toàn cầu và tan băng ở các vùng cực và trên núi cao tác động đến hoàn lưu khí quyển và hoàn lưu biển. Về cơ bản, gió mùa nhiệt đới sẽ yếu đi do hoàn lưu kinh hướng suy giảm vì chênh lệch nhiệt độ giữa vĩ độ cao và vĩ độ thấp giảm đi. Điều đó dẫn đến phân bố lại nhiệt độ và lượng mưa, cũng như thời tiết các mùa ở nước ta.

Đại dương là một kho giữ nhiệt khổng lồ của trái đất. Một sự thay đổi nhỏ về nhiệt của đại dương cũng có thể gây ra biến đổi lớn về thời tiết toàn cầu. Nhiệt độ nước biển tăng lên còn làm tăng sự trao đổi nhiệt và ẩm giữa khí quyển và đại dương, qua đó điều chỉnh lại phân bố năng lượng giữa các vùng trên trái đất thông qua hoàn lưu khí quyển, đồng thời các hoạt động đối lưu mạnh mẽ hơn dẫn đến những biến động về thời tiết, nhất là mưa, tố, lốc ở nhiều nơi. Nhiệt độ nước biển tăng làm mở rộng các vùng biển có điều kiện nhiệt độ thích hợp cho việc hình thành bão và áp thấp nhiệt đới, trong đó có khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông, có thể dẫn đến tăng tần số và cường độ của bão ảnh hưởng đến nước ta.

Hiện tượng El Nino có thể xảy ra thương xuyên hơn, với cường độ mạnh hơn và thời gian kéo dài hơn. Như vậy, ngoài biến đổi khí hậu với sự tăng lên của nhiệt độ và mực nước biển trung bình diễn ra một cách từ từ, có tác động lâu dài, tính cực đoan và dị thường của thời tiết, khí hậu, đặc biệt là thiên tai cũng trở nên lớn hơn, có thể gây ra những tổn thất lớn về người và tài sản và làm cho công tác dự báo, phòng tránh trở nên khó khăn hơn.

Tài liệu tham khảo


  1. Biến đổi khí hậu. Chủ biên: GS. TSKH. Nguyễn Đức Ngữ, NXB KHKT, Hà Nội, tháng 5/2008. Kết quả dự án “Nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực cho địa phương trong việc thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu, góp phần thực hiện Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc và Nghị định thư Kyoto về biến đổi khí hậu”. Mã số: VN/05/009.

  2. Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước Khung của Liên hiệp quốc về BĐKH, Hà Nội 2003.

  3. IPCC, “Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change”: WGI: "The Physical Science of Climate Change", WGII: "Impacts, Adaptation & Vulnerability", WGIII: "Mitigation of Climate Change", 2007.

  4. Nerem, R. Steven. New developments in Presen-day Sea Level Change, Unviversity of Colorado at Boulder, USA.




tải về 0.58 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương