Ứng phó VỚi biếN ĐỔi khí HẬu và NƯỚc biển dâNG


TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỚI TỰ NHIÊN VÀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI



tải về 0.58 Mb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích0.58 Mb.
#38253
1   2   3   4

TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỚI TỰ NHIÊN VÀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI


GS.TSKH. Trương Quang Học

Đại học Quốc gia Hà Nội,

Chương trình Hợp tác Việt Nam-Thuỵ Điển (SEMLA),

Bộ Tài nguyên và Môi trường

TS. Trần Hồng Thái

Giám đốc Trung tâm Tư vấn Khí tượng Thủy văn và Môi trường (HMECC)


ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với hàng lọat các vấn đề môi trường bức súc trên phạm vi toàn cầu, bao gồm: Sự biến đổi khí hậu (BĐKH), Suy thoái đa dạng sinh học (ĐDSH), Suy thoái tài nguyên nước ngọt, Suy thoái tầng ôzôn, Suy thoái đất và hoang mạc hóa, Ô nhiễm các chất hữu cơ độc hại khó phân hủy v.v.

Những vấn đề này có mối tương tác lẫn nhau và đều ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống con người cũng như sự phát triển của xã hội. Trong đó, dù ở mức độ quốc gia hay toàn cầu thì biến đổi khí hậu (BĐKH) luôn được xem là vấn đề môi trường nóng bỏng nhất và hơn thế nữa còn được coi là một vấn đề quan trọng tác động tới tiến trình Phát triển bền vững (PTBV) hiện nay trên toàn thế giới.

BĐKH mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng được cho là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong Thế kỷ 21. Chính vì vậy, trong những thập kỷ gần đây, Liên Hợp Quốc (LHQ) đã rất quan tâm và trực tiếp tham gia điều hành nhiều hoạt động liên quan tới BĐKH.

Chủ đề của Ngày Môi trường Thế giới hai năm gần đây đều liên quan tới BĐKH: năm 2007 là “Băng tan - một vấn đề nóng bỏng” và năm 2008 là :Hãy thay đổi thói quen – Hướng tới một xã hội ít các bon”.

Nhiều hội nghị quốc tế lớn về BĐKH đã được tổ chức: ở Bangkok (30.4.2007), ở Viên (8.2007), New York (9.2007), Bali (3-15/12/2007), Honolulu - Hawaii (30.01.2008), New York (11-12.02.2008) và Bangkok (31.3 - 04.4.2008) để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các cam kết quốc tế quan trọng đã được ký kết (Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu, 1992 - UNFCCC; Nghi định thư Kyoto, 1997, Lộ trình Bali, 2007) nhằm cố gắng ổn định nồng độ khí nhà kính trong khi quyển, ứng phó với BĐKH trên phạm vi toàn cầu.

Theo đó, nhiều nước đã xây dựng Kế hoạch hành động Quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu – NAPA: Bangladesh (2005), Bhutan (2007), Burundi (2007), Cambodia (2006), Comoros (2006), Djibouti (2006), Eritrea (2007), Guinée (2007), Haiti (2006), Kiribati (2007), Lesotho (2007), Madagascar (2006), Malawi (2006), Mauritania (2004), Mali (2007), Niger (2006), Congo (2006), Rwanda (2006), Samoa (2005), Sénégal (2006), Sudan (2007), Tomé E Príncipe (2006), Tuvalu (2007), Tanzania (2007), Zambia (2007) và Trung Quốc (Chương trình Quốc gia về Biến đổi khí hậu, 2007).

Việt Nam đã ký Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC) (1992), Nghị định thư Kyoto (KP) (1998) và Tham gia Hội nghị Bali (2007). Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) được giao làm Cơ quan đầu mối của Chính phủ Việt Nam tham gia và thực hiện UNFCCC, KP. Chính phủ đã ban hành các Chỉ thị, Quyết định, Nghị quyết giao Bộ TN&MT và các bộ, ngành, địa phương có liên quan triển khai thực hiện các cam kết này.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã tham gia nhiều hoạt động của khu vực và toàn cầu về BĐKH và có quan hệ hợp tác thường xuyên với Ban Thư ký UNFCCC, Ban Chấp hành Quốc tế về Cơ chế phát triển sạch (CDM, KP), Ban liên Chính phủ về BĐKH, với các nước và các tổ chức quốc tế về các vấn đề có liên quan. Việt Nam cũng đã triển khai một số chương trình nghiên cứu, dự án về BĐKH, CDM có kết quả.

Hiện nay, theo tinh thần của Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ, Bộ TN&MT đã xây dựng và đang trình Chính phủ phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (CTMTQG). Khi được phê duyệt, Chương trình sẽ trở thành định hướng và chiến lược cơ bản của Nhà nước để ứng phó với BĐKH. Trên cơ sở này, các bộ, ngành và địa phương sẽ xây dựng các kế hoạch hành động của mình để phối hợp triển khai thực hiện.

Để xây dựng các kế hoạch hành động cụ thể, có hai vấn đề cần phải giải quyết trước tiên: (i) Xây dựng các kích bản BĐKH cho từng vùng trong từng giai đoạn, và (ii) Đánh giá tác động của các kịch bản này đối với từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể.

Bài viết này tập trung vào vấn đề thứ hai, giới thiệu tóm tắt một số thông tin về tác động của BĐKH tới tự nhiên và đời sống xã hội dựa trên cơ sở phân tích và tổng hợp những tài liệu có được ở trong nước và trên thế giới.

1. KHÁI QUÁT VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

1.1. Khái niệm về biến đổi khí hậu

Sau cuộc tranh luận kéo dài hơn 30 năm, cho đến nay, các nhà khoa học đã có sự nhất trí cao và cho rằng trong những thập kỷ gần đây, những hoạt động phát triển kinh tế xã hội với nhịp điệu ngày một cao trong nhiều lĩnh vực như năng lượng, công nghiệp, giao thông, nông - lâm nghiệp và sinh hoạt đã làm tăng nồng độ các khí gây hiệu ứng nhà kính (N2O, CH4, H2S và nhất là CO2) trong khí quyển, làm Trái đất nóng lên, làm biến đổi hệ thống khí hậu và ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu (Al Gore, 2006).

Nhiệt đô trung bình của Trái đất đã tăng 0,740C so với năm 1850 và dự đoán có thể tăng thêm đến 1,40C (Kịch bản B1) – 4,00C (A1F1) vào năm 2100. Lượng mưa tăng khoảng 5-10%. Hậu quả là các băng ở hai cực, ở các dãy núi cao, sẽ tan ra và làm mực nước biển dâng lên khoảng 70-100cm/ 100 năm và có thể dâng lên tới khoảng 0, 18 -0,38 m (B1) và 0,26-0,59 (A1F1) thâm chí có thể tới 1m hoặc hơn vào năm 2100; Các hiện tương cực đoan của khí hậu/ thiên tai như sóng thần, bão, lũ, hạn hán sẽ xẩy ra vời cường độ, tần xuất và độ bất thường cao hơn (Bộ TNMT, 2007, 2008).

1.2. Biển hiện của Biến đổi khí hậu

Một cách khái quát, BĐKH được thể hiện ở ba đặc trưng chủ yếu như sau:

a. Nhiệt độ trung bình, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu tăng lên;

b. Mực nước biển dâng lên do sự tan băng ở các Cực và các đỉnh núi cao;

c. Các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực đoan (nắng nóng, giá rét, bão, lũ lụt, hạn hán...) xẩy ra với tần xuất, độ bất thường và có thể cả cường độ tăng lên.

2. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

BĐKH tác động lên tất cả các lĩnh vực: tài nguyên, môi trường, kinh tế -xã hội và sức khoẻ con người trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, mức độ tác động của BĐKH có khác nhau tuỳ thuộc vào những đặc trưng về điều kiện đia lý, trình độ phát triển và các hành động ứng phó của từng vùng, miền, từng quốc gia cụ thể.

2.1. Bức tranh chung toàn cầu

Theo dự đoán, nhiều thành phố của các quốc gia ven biển đang đứng trước nguy cơ bị nước biển nhấn chìm do mực nước biển dâng - hậu quả trực tiếp của sự tan băng ở Bắc và Nam Cực. Trong số 33 thành phố có qui mô dân số 8 triệu người vào năm 2015, ít nhất 21 thành phố có nguy cơ cao bị nước biển nhấn chìm toàn bộ hoặc một phần và khoảng 332 triệu người sống ở vùng ven biển và đất trũng sẽ bị mất nhà cửa vì ngập lụt.

Mức độ rủi ro cao về lãnh thổ bị thu hẹp do nước biển dâng theo thứ tự là Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Việt Nam, Indonesia, Nhật Bản, Aicập, Hoa Kỳ, Thái Lan và Philippines.

Nước biến dâng lên còn kèm theo hiện tượng xâm nhập mặn vào sâu hơn trong nội địa và sự nhiễm mặn của nước ngầm, tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và tài nguyên nước ngọt.

Tài nguyên nước và sản xuất nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo dự đoán, đến năm 2080, sẽ có thêm khoảng 1,8 tỷ người phải đối mặt với sự khan hiếm nước, khoảng 600 triệu người sẽ phải đối mặt với nạn suy dinh dưỡng do nguy cơ năng xuất trong sản xuất nông nghiệp giảm.

Bên cạnh đó còn có khuynh hướng làm giảm chất lượng nước, sản lượng sinh học và số lượng các loài động, thực vật trong các hệ sinh thái nước ngọt, làm gia tăng bệnh tật, nhất là các bệnh mùa hè do vectơ truyền (IPCC 1998). Trong thời gian 20-25 năm trở lại đây, có thêm khoảng 30 bệnh mới xuất hiện. Tỷ lệ bệnh nhân, tỷ lệ tử vong của nhiều bệnh truyền nhiễm gia tăng, trong đó sẽ có thêm khoảng 400 triệu người phải đối mặt với nguy cơ bị bệnh sốt rét (Al Gore, 2006).

Số lượng và tổn thất do thiên tai gây ra tăng liên tục trong những thập ký vừa qua (Hình 2). Theo số liệu thống kê, thiệt hại về kinh tế do thay đổi thời tiết và lũ lụt đã tăng gấp 10 lần trong vòng 50 năm qua. Số nạn nhân của lũ lụt do ảnh hưởng của BĐKH trong 5 năm 1983-1987 là 31 triệu người, tăng lên đến 130 triệu người trong 5 năm của thập kỷ sau 1993-1997 (WWC, 2003; Hotz, 2006). Riêng cơn bão Mitch (1999) đã làm chết 11.000 ở trung Mỹ; cơn bão Katrina (2005) đã làm chết hơn 1.800 người ở hai bang ven biển phía Nam của Hoa Kỳ và gây tổn thất lên tới 300 tỷ USD.

Gần đây nhất, cơn bão có tên đâu tiên của năm 2008 tại khu vực Bắc Ấn độ dương, bão Nargis tại đồng bằng châu thổ Irrawaddy, Myanma đã làm hơn 60.000 người chết (dự đoán có thể lên tới 100.000 người), 1.400 người bị thương và 37.000 người mất tích (theo bản tin tối 11.5.2008 của ĐPT Myanma).

Theo Nicolas Stern (2007) – nguyên chuyên gia kinh tế hàng đầu của Ngân hàng Thế giới, thì trong vòng 10 năm tới, chi phí thiệt hai do BĐKH gây ra cho toàn thế giới ước tính khoảng 7.000 tỷ USD; nếu chúng ta không làm gì để ứng phó thì thiệt hại mỗi năm sẽ chiếm khoảng 5-20% GDP, còn nếu chúng ta có những ứng phó tích cực để ổn định khí nhà kính ở mức 550ppm tới năm 2030 thì chi phí chỉ còn khoảng 1% GDP.

Một yếu tố quan trọng trong đánh giá hậu quả của BĐKH là độ trơ của hệ thống khí hậu: sự thay đổi của khí hậu xảy ra từ từ và khi sự thay đổi đáng kể xảy ra thì khó đạt lại trạng thái ban đầu. Do đó, thậm chí khi nồng độ các chất gây ra hiệu ứng nhà kính đã được ổn định thì sự ấm lên của trái đất vẫn tiếp tục xảy ra trong vài thập kỷ và mực nước vẫn tiếp tục tăng lên trong hàng thế kỷ tiếp sau (theo Võ Quý, 2005).

Hậu quả của BĐKH gây ra không đồng đều trên thế giới: nghiêm trọng ở các vùng có vĩ độ cao và ít hơn tại các vùng khác, sẽ lớn hơn ở các nước nhiệt đới, nhất là các nước đang phát triển công nghiệp nhanh ở châu Á. Trong đó, những người nghèo, những người it góp phần gây ra BĐKH nhất thì lại phải chịu những thiệt hại sớm nhất và nghiêm trọng nhất về phát triển con người do BĐKH gây ra (Crutzen, 2005).

Tác động tích cực của biến đổi khí hậu

BĐKH, ở những mức độ nhất định và những khu vực nhất định cũng có những tác động tích cực:



  • Là một cơ hội để thúc đẩy các nước đổi mới công nghệ, phát triển các công nghệ sạch, công nghệ thân thiện với môi trường và các họat động R&D nói chung có liên quan;

  • Phát triển trồng rừng để hấp thu CO2 / giảm phát thải khí nhà kính, v.v...

  • Ở một số nước ôn đới, khi nhiệt độ tăng lên sẽ thuận lợi hơn để phát triển nông nghiệp; Năng lượng để sưới ấm cũng được tiết kiệm hơn...

2.2. Tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Việt Nam, theo dự đoán, là một trong số ít nước sẽ phải chịu hậu quả năng nề nhất của BĐKH (Dasgupta et al., 2007).

Đối với nước ta, mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp rộng lớn - các hệ sinh thái đất ngập nước của các đồng bằng lớn nhất cả nước – nơi ở của các cộng đồng dân cư lâu đời, cái nôi của nền văn minh lúa nuớc, vùng có tiềm năng sản xuất nông nghiệp lớn nhất và các sinh cảnh tự nhiên của nhiều loài bản địa bao gồm cả các khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển.

Nếu nhiệt độ tăng 20C, mực nước biển dâng 1m, có thể làm mất 12,2% diện tích đất là nơi cư trú của 23 % dân số (khoảng 17 triệu người). Riêng với đồng bằng sông Cửu Long, nếu mực nước biển dâng như dự báo vào năm 2030 sẽ khiến khoảng 45% diện tích đất của khu vực này có nguy cơ bị nhiễm mặn cực độ và gây thiệt hại mùa màng nghiêm trọng do lũ lụt và úng. Nếu mực nước biển dâng 1m, mà không có các hoạt động ứng phó, phần lớn ĐBSCL sẽ hoàn toàn ngập trắng nhiều thời gian dài trong năm, và thiệt hại tài sản ước tính lên tới 17 tỷ USD (Van Urk and Misdorp, 1996; Pilgrim, 2007).

BĐKH còn ảnh hưởng đến các thuỷ vực nội địa (sông, hồ, đầm lầy...) qua sự thay đổi nhiệt độ nước và mực nước làm thay đổi lớn tới thời tiết (chế độ mưa, bão, hạn hán, cháy rừng, elino…), tới lưu lượng, đặc biệt là tần suất và thời gian của những trận lũ và hạn hán lớn sẽ làm giảm sản lượng sinh học bao gồm cả các cây trồng nông, công và lâm nghiệp, và sự diệt vong của nhiều loài động, thực vật bản địa, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế.

Bão, sóng nhiệt, lũ lụt, hỏa họan và những thay đổi điều kiện sinh thái khác sẽ dẫn tới các thảm họa chết người, ốm đau, thương tích, suy dinh dưỡng và các bệnh dịch mới, nhất là các bệnh do vectơ truyền có tỷ lệ tử vong cao (Trương Quang Hoc, Trần Đức Hinh, 2008).



2.2.1. Khái quát tác động tiềm năng của biến đổi khí hậu tới các vùng, miền và các lĩnh vực dễ bị tổn thương (Bảng 2.1)

Bảng 2.1. Tóm tắt tác động tiềm năng của BĐKH tới các vùng/lĩnh vực

Tác động của BĐKH

Vùng nhạy cảm/dễ bị tổn thương

Ngành, lĩnh vực dễ bị tổn thương

Sự gia tăng nhiệt độ

  • Vùng núi: Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ

  • Đồng bằng Bắc Bộ

  • Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và nghề cá)

  • Các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học

  • Năng lượng (sản xuất và tiêu thụ)

  • Sức khỏe cộng đồng

Nước biển dâng và xâm nhập mặn

  • Dải ven biển (bao gồm cả đồng bằng châu thổ và các vùng đất ngập nước: đồng bằng và duyên hải Bắc Bộ, ĐB sông Cửu Long, duyên hải Trung Bộ)

  • Hải đảo

  • Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và nghề cá)

  • Các hệ sinh thái biển và ven biển

  • Tài nguyên nước (nước mặt, nước ngầm)

  • Nơi cư trú

  • Năng lượng

  • Cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp

  • Sức khỏe cộng đồng

Lũ lụt, tiêu thoát nước và sạt lở đất

  • Dải ven biển (bao gồm cả đồng bằng châu thổ và các vùng đất ngập nước: đồng bằng và duyên hải Bắc Bộ, ĐB sông Cửu Long, duyên hải Trung Bộ)

  • Vùng núi: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên

  • Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và nghề cá)

  • Tài nguyên nước (nước sinh hoạt và phục vụ công nghiệp)

  • Cơ sở hạ tầng

  • Nơi cư trú

  • Giao thông vận tải

  • Sức khỏe và đời sống

Bão và áp tháp nhiệt đới

  • Dải ven biển (bao gồm cả đồng bằng châu thổ và các vùng đất ngập nước: đồng bằng và duyên hải Bắc Bộ, ĐB sông Cửu Long, duyên hải Trung Bộ)

  • Hải đảo

  • Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và nghề cá)

  • Các hoạt động trên biển và ven biển

  • Cơ sở hạ tầng

  • Nơi cư trú

  • Năng lượng (dầu khí)

  • Giao thông

  • Sức khoẻ và đời sống

Hạn hán

  • Trung Bộ, đặc biệt là Nam Trung Bộ

  • Đồng bằng và trung du Bắc Bộ

  • ĐB sông Cửu Long

  • Tây Nguyên

  • Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi)

  • Năng lượng (thuỷ điện)

  • Giao thông thuỷ

  • Tài nguyên nước

Nguồn: Bộ TN&MT, 2008

2.2.2. Tác động của biến đổi khí hậu tới các lĩnh vực vùng nhạy cảm

Cũng như tình hình chung trên thế giới, đối với Việt Nam, BĐKH tác động tới tất cả các vùng, miền, các lĩnh vực về tài nguyên, môi trường và KT-XH, nhưng trong đó tài nguyên nước, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế-sức khoẻ và vùng ven biển sẽ chịu tác động mạnh nhất.



a. Tác động của BĐKH tới tài nguyên nước

Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia thiếu nước với tổng bình quân đầu người cả nước mặt và nước dưới đất trên phạm vi lãnh thổ là 4400 m3/người/ năm (so với bình quân thế giới là 7400m3/người, năm). Trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, Việt Nam có nhiều yếu tố không bền vững:

- Việt Nam có khoảng 830 tỷ m3 nước mặt trong đó lượng nước sản sinh từ ngoài lãnh thổ chiếm xấp xỉ 2/3 tổng lượng nước có được. Trong khoảng 2360 con sông có chiều dài lớn hơn 10 km thì có 10/13 lưu vực sông chính và nhánh có diện tích lớn hơn 10.000 km2 có quan hệ với các nước láng giềng tạo ra nhiều ràng buộc và khó khăn trong quản lý và sử dụng.

- Trên toàn lãnh thổ, sự phân bố của cả nước mặt lẫn nước dưới đất rất không đều theo không gian, và theo mùa, dẫn tới hiện tượng mất cân bằng trong sử dụng nguồn nước (vừa thiếu lại vừa thừa theo không gian và thời gian).

- Sự suy thoái tài nguyên nước ngày một tăng về cả số lượng và chất lượng do nhu cầu về nước ngày một lớn, sự khai thác và sử dụng lại bừa bãi, thiếu quy hoạch và sự suy giảm đến mức báo động của rừng đầu nguồn (Nguyễn Đình Tuấn, 2007).

Dưới tác động của BĐKH, khi nhiệt độ trung bình tăng, độ bất thường của thời tiết, khí hậu và thiên tai gia tăng sẽ ảnh hương rất lớn tới tài nguyên nước ngọt ở các khía cạnh sau:

- Nhu cầu nước sinh hoạt cho con người, nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, giao thông… đều tăng. Bên cạnh đấy, lượng bốc hơi nước của các thuỷ vực (hồ ao, sông, suối...) cũng tăng. Hậu quả dẫn đến là sự suy thoái tài nguyên nước cả về số lượng và chất lượng sẽ trở nên trầm trọng hơn.

- Nhưng thay đổi về mưa, sẽ dẫn tới những thay đổi về dòng chảy của các con sông và cường độ các trận lũ, tần xuất và đặc điểm của hạn hán, lượng nước dưới đất. Theo dự đoán, BĐKH sẽ làm giảm đáng kể lượng nước trong các con sông ở nhiều vùng trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

- Khi băng tuyết ở các Cực và đỉnh núi cao tan sẽ làm tăng dòng chảy ở các sông và làm tăng lũ lụt. Khi các băng trên núi cạn, lũ lụt sẽ giảm đi nhưng khi đó các dòng chảy cũng giảm đi, thậm chí cạn kiệt. Nạn thiếu nước sẽ trầm trọng hơn. Điều này rất đặc trưng cho các nước châu Á với nguồn nước sông ngòi phụ thuộc nhiều vào nước thượng nguồn (Nguyễn Đức Ngữ, 2007).

Vấn đề có thể còn nghiêm trọng hơn nếu tính tới cả các mâu thuẫn, xung đột có thể xẩy ra trong sử dụng chung nguồn nước với các quốc gia phía thượng nguồn.

- Một hậu quả nghiêm trọng khác của BĐKH tới tài nguyên nước là hạn hán gia tăng. Hạn hán không những dẫn tới hậu quả làm giảm năng xuất mùa màng, thậm chí mất trắng, mà còn là nguy cơ dẫn tới hoang mạc hóa, làm tăng nguy cơ cháy rừng gây ra nhiều thiệt hại to lớn về nhiều mặt.

Nước cần cho sự sống (cho bản thân con người và thế giới sinh vật) cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp v.v. Vì vậy, sự suy thoái tài nguyên nước sẽ là yếu tố rất quan trọng tác động trực tiếp tới đời sống con người và sự phát triển kinh tế xã hội nói chung.



b. Tác động của BĐKH tới lĩnh vực nông nghiệp

Việt Nam là một nước nông nghiệp với 75% dân số sống bằng nông nghịệp và 70% lãnh thổ là nông thôn với cuộc sống người dân còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu dựa trên các hộ cá thể, quy mô nhỏ, trình độ khoa học kỹ thuật chưa cao. Đây là một thách thức lớn dưới tác động của BĐKH.

Sản xuất nông nghiệp của chúng ta hiện nay còn phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Khi nhiệt độ, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng trọt. Sự bất thường của chu kỳ sinh khí hậu nông nghiệp không những dẫn tới sự tăng dịch bênh, dịch hại, giảm sút năng xuất của mùa màng, mà còn có thể gây ra các rủi ro nghiêm trọng khác, khó lường trước.

Sự gia tăng của thiên tai và các hiện tường cực đoan của thời tiết, khí hậu như bão, lũ lụt, hạn hán, giá rét sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ tới sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy hải sản. Trong thời gian qua, ở nhiều địa phương, mùa màng vị đã bị mất trắng do thiên tai (lũ lụt và hạn hán).

Đợt rét hại kéo dài 33 ngày vừa qua (2007-2008) là một minh chứng. Theo số liệu thống kê, đã có 33.000 con trâu bò, 34.000 hécta lúa xuân đã cấy, hàng chục ngàn hécta mạ non, nhiều đầm các tôm ở tất cả các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ đã bị chết, thiệt hai lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đấy là chưa tính tới các cây, con hoang dã ở các vùng núi cao bị băng gía trong nhiều ngày liền, liệu còn khả năng sống sót không ? và thiệt hại là bao nhiêu ?

c. Tác động tới tài nguyên đa dạng sinh học rừng và tài nguyên đất

Việt Nam có đa dạng sinh học (ĐDSH) cao (xếp thứ 16 trên thế giới, WCMC, 1992), có các hệ sinh thái (HST) đa dạng. Tuy nhiên trong thời gian qua, do những nguyên nhân khác nhau, ĐDSH, các HST, đặc biệt là các HST rừng – HST có ĐDSH cao nhất bị suy thóai trầm trọng. Diện tích rừng giảm từ 43% so với toàn lãnh thổ năm 1943 xuống còn 28,2% (1995). Rừng ngập mặn ven biển cũng bị suy thóai nghiêm trọng (giảm 80 % diện tích) do bị chuyển đổi thành các ao đầm nuôi trồng thủy hai sản thiếu quy hoạch. Trong những năm gần đây, rừng tuy có tăng lên về diện tích (37% năm 2005), nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn chỉ ở mức khoảng 8 % (so với 50% của các nước trong khu vực).

Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong ứng phó với BĐKH trong các họat động thực hiện mục tiêu năm 2010 của Công ước Đa dạng sinh học nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn và dịch vụ của các HST rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo vệ tài nguyên nước và giảm phát thải CO2.

Một trong những thành tựu quan trọng mà chúng ta đạt được trong Kế hoạch hành động quốc gia về ĐDSH (giai đoạn 1995-2005) là đã thành lập được 126 khu bảo tồn bao gồm nhiều các sinh cảnh quan trọng có ý nghĩa quốc tế. Nếu nước biển dâng cao 1m, dự đoán sẽ có 78 (27%) sinh cảnh tự nhiên quan trọng, 46 khu bảo tồn (33%), 9 khu vực có ĐDSH quan trọng (23%), 23 khu có ĐDSH quan trọng khác (21%) bị tác động nghiêm trọng (Pilgrim, 2007).

Nhiệt độ trung bình tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần xã sinh vật của nhiều HST. Ranh giới nhiệt của các HST đất ngập nước và lục địa có xu hướng dịch chuyển lên cao hơn. Các loài nhiệt đới sẽ giảm đi trong các HST ven biển và có xu hướng chuyển dịch lên các đới và vĩ độ cao hơn trong các HST trên cạn, các loài ôn đới (thường cho năng xuất sinh học cao) sẽ giảm đi, cấu trúc chuỗi và lưới thức ăn cũng thay đổi.

Nhiệt độ tăng, còn làm gia tăng khả năng cháy rừng, nhất là các khu rừng trên đất than bùn, vừa gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa tăng lượng phát thải khí nhà kính làm gia tăng BĐKH.

Ban Thư ký của Công ước ĐDSH cho biết rằng vào cuối thế kỷ này, nhiều loài và HST sẽ phải vật lộn để thích nghi với sự thay đổi của thời tiết, khí hậu và tỷ lệ tuyệt chủng các loài động thực vật sẽ tăng lên (CBD COP 9 formal documents, 2008).

Tác động của BĐKH tới tài nguyên đất

Việt Nam là một quốc gia vào lọai khan hiếm đất, bình quân đất đầu người được xếp thứ 159 và chỉ bằng khoảng 1/6 bình quân của thế giới (Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, 2004). Trong thời gian gần đây, diện tích đất nông nghiệp lại càng bị thu hẹp do sức ép dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa và bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Hiện tượng sói mòn, rửa trôi, hoang mạc hóa và ô nhiễm do hóa chất nông nghiệp ngày càng gia tăng.

Dưới tác động của BĐKH, nhất là nước biển dâng làm mất đi nơi ở của cư dân và phần đất mầu mỡ nhất cho sản xuất nông nghiệp sẽ là thách thức lớn cho ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Thiên tai, bão, lũ gia tăng sẽ làm tăng hiện tượng sói mòn, rửa trôi, sạt lở bờ sông, bờ biển, bồi lắng lòng dẫn ảnh hưởng nghiêm trọng tới tài nguyên đất.

Hiện tượng thiếu nước và hạn hán sẽ dẫn tới hoang mạc hóa, đặc biệt là các tỉnh miền Trung.

c. Tác động của BĐKH tới sức khoẻ

Báo cáo gần đây nhất của Ủy ban liên quốc gia về BĐKH (IPCC, 2007 b) đã khẳng định BĐKH gây ra chết chóc và bệnh tật thông qua:



    • Hậu quả của các dạng thiên tai như sóng nhiệt/ nóng, bão, lũ lụt, hạn hán..

    • Do nhiều bệnh sẽ gia tăng dưới tác động của sự thay đổi nhiệt độ và hoàn cảnh, nhất là các bệnh truyền qua vật trung gian như sốt rét (do muỗi truyền), sốt xuất huyết (muỗi), viêm não (muỗi) qua môi trường nước (các bệnh đường ruột), và các bệnh khác (suy dinh dưỡng, bệnh về phổi…). Những bệnh này đặc biệt ảnh hưởng lớn tới các vùng kém phát triển, đông dân và có tỷ lệ đói nghèo cao.

Nhiều công trình nghiên cứu gần đây đã chứng tỏ rằng, bệnh tật và sự chết chóc dưới tác động của BĐKH là một quá trinh liên quan với nhau thông qua nhiều cơ chế tác động và khâu cuối cùng là các nguyên nhân gây bệnh làm ảnh hưởng tới sức khỏe (ốm / tử vong) bao gồm:

    • Liên quan tới nhiệt độ cao (nhiệt độ cao quá mức sẽ làm nhiều người chết nhất là các người bị bệnh tim-mạch, người già yếu và trẻ nhỏ).

    • Những hiện tượng cực đoan của khí hậu (bão, lũ lụt, lũ quét, lũ bùn đá, hạn hán…trưc tiếp gây chết người, gây ra các dích bệnh sau lũ lụt, và mùa màng bị thất thu do thiên tai sẽ làm tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng – làm giảm khả năng kháng bệnh).

    • Liên quan đến di dân/ di cư do BĐKH: người dân di cư một mặt sẽ nhiễm những bệnh của vùng mới tới và mặt khác lại “mang” theo đến vùng mới những bênh cũ của mình. Cả hai trường hợp (đối với người mới di cư tới và đối với người dân bản địa) đều có tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong cao hơn.

    • Do ô nhiễm không khí và nước do BĐKH gây ra. Ví dụ, nhiệt độ tăng sẽ làm nồng đô ozon mặt đất tăng ảnh hưởng tới và gây ra các bệnh về phổi như bệnh Asthma; thành phần vật truyền bệnh (véc tơ) có giai đoạn sống trong nước thay đổi, dẫn tới sự thay đổi về nhịp điệu và thậm chí bản chất các dịch bệnh do véc tơ truyền.

    • Gia tăng các bệnh truyền qua môi trường nước/ nhất là sau các trận lũ lụt (đặc biệt là các bệnh đường ruột).

    • Gia tăng các bệnh do côn trùng và chuột truyền, đặc biệt là các bệnh chỉ xuất hiện ở vùng nóng sẽ phát triển ở các vùng khác khi nhiệt độ tăng cao. Nghiên cứu của WHO năm 2005 cho thấy BĐKH sẽ ảnh hưởng trực tiếp làm tăng tỷ lệ bệnh sốt rét, tiêu chảy và suy dinh dưỡng; và dự báo rằng BĐKH sẽ làm khoảng 150.000 người chết và 5 triệu người ốm mỗi năm. Nhiều bệnh vốn có tính địa phương sẽ được vùng hoặc toàn cầu hóa do sự phát tán/ mở rộng vùng phân bố của mầm bệnh và vectơ truyền bệnh (WHO, 2005).

    • Gia tăng các bệnh do thiếu nước sinh hoạt và suy dinh dưỡng.

    • Các bệnh khác (IPCC, 2007 b).

Ở Việt Nam, trong thời gia qua cũng xuất hiện một số bệnh mới ở người và động vật (tả, cúm gia cầm, bệnh tai xanh...) nhiều bệnh có diễn biến phức tạp và bất thường hơn (sốt xuất huyết) và gây ra những thiệt hại đáng kể.

d. Tác động của BĐKH tới vùng ven biển

Việt Nam là một bán đảo với đường bờ biển dài trên 3260 km, hải phận mở rộng ra đến 12 hải lý (22 km) và vùng đặc quyền kinh tế ra đến 200 hải lý; với trên 3000 hòn đảo gần bờ và hai quần đảo xa bờ.

Vùng ven biển (VVB) Việt Nam chạy dài suốt 15 vĩ độ từ bắc xuống nam qua 29/65 tỉnh thành, có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng về nhiều mặt: phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh quốc phòng. VVB vừa là vùng có nhiều tiềm năng phát triển, nhưng đồng thời cũng là vùng có nhiều biến động, thách thức và chịu những tác động mạnh nhất của tự nhiên và hoạt động của con người (Per Bertilsson và Trương Quang Học, 2007; Trương Quang Học và Per Bertilsson, 2008).


  1. Về mặt văn hóa xã hội, VVB có mật độ dân số cao, tập trung gần 60 % dân số cả nước, đời sống thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, đời sống chủ yếu dựa và tài nguyên thiên nhiên.

(ii) Về mặt phát triển kinh tế, VVB là nơi tập trung cao các họat động kinh tế-xã hội. Khoảng 50% đô thị lớn và quan trọng, hầu hết các khu công nghiệp quan trọng nằm ở VVB.

(iii) Về mặt môi trường, ô nhiễm môi trường VVB là nặng nề và phức tạp. Một mặt, do các họat động kinh tế rất đa dạng gây ra, đặc biệt là các khu công nghiệp, các vùng nuôi tôm công nghiệp, mặt khác do đời sống còn khó khăn, các biện pháp BVMT không được chú trọng đúng mức.

VVB còn chịu ảnh hưởng về ô nhiễm môi trường từ biển do các sự cố trên biển: tràn dầu, rò rỉ hóa chất, thủy triều đỏ tràn vào và chụi hậu quả về môi trường từ các lưu vực sông đổ ra qua các cửa sông. Các chất thải từ các nguồn khác nhau không được sử lý, đặc biệt là chất thải nguy hại (các muối kim lọai nặng, hóa chất bảo vệ thực vật) đổ trực tiếp ra sông, suối và cuối cùng đổ ra biển. Trên toàn VVB có tới hơn 100 cửa sông.

Tất cả các tác động của BĐKH đều rõ rệt nhất ở VVB.

VVB cũng sẽ là nơi chụi tác động nặng nề nhất của thiên tai mà trước hết là bão, sóng thần, lũ lụt gây những tổn thất năng nề về nguời và của. Chỉ tính riêng năm 2006, thiệt hai do bão gây ra ở Việt Nam lên tới 1.2 tỷ USD.



Nước biển dâng sẽ tác động chủ yếu đối với VVB:

    • Gây hiện tượng ngập lụt, mất nơi ở và diện tích sản xuất (nông nghiệp, thuỷ sản và làm muối), gây nhiễu loạn các HST truyền thống ở đây.

    • Hiện tượng xâm nhập mặn sẽ gia tăng, các HST đất ngập nước ven biển, nhất là rừng ngập mặn, môi trường sống của các loài thuỷ hải sản, bức tường chắn sóng và giảm tác động của sóng, bão, nguồn sống hàng ngày của cộng đồng địa phương sẽ bị thu hẹp nhanh chóng.

    • Các cơ sở hạ tầng nhất là các cảng, khu công nghiệp, giao thông sẽ bị tác động mạnh, thậm chí phải cải tạo, nâng cấp hoặc di dời.

    • Nước biển dâng và nhiệt độ tăng sẽ làm ánh hưởng lớn tới các rạn san hô, HST có tính đa dạng cao và có ý nghĩa quan trọng đối với tự nhiên và đời sống con người, lá chắn hiệu quả chống xói mòn bờ biển và rừng ngập mặn. San hô là các động vật rất nhạy cảm với các yếu tố sinh thái, nhất là nhiệt độ và chất lượng nước. Nhiệt độ nước biển chỉ cần tăng một vài độ san hô có thể chết hàng lọat. Hiện nay đã có khoảng 30 quốc gia báo cáo có nguy cơ bị mất san hô.





e. Tác động của BĐKH tới an ninh môi trường/an ninh quốc gia

BĐKH còn có thể ảnh hưởng tới an ninh môi trường nói riêng, an ninh quốc gia nói chung, tập trung ở những vấn đề sau:



    • Sử dụng chung nguồn nước: Việt Nam có khoảng 2/3 tổng lượng nước là từ bên ngoài lãnh thổ chảy vào. Việc sử dụng nước phía thượng nguồn, việc xây dựng các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện của các quốc gia trên thượng nguồn các sông lớn (sông Hồng, sông Cửu Long) (hiện đã có khoảng gần 30 đập – theo Nguyễn Đình Hoè và Nguyễn Ngọc Sinh, 2008, Hình 6) sẽ là một khó khăn rất lớn cho chúng ta trong sử dụng nguồn nước và bảo vệ môi trường. BĐKH sẽ làm suy thoái tài nguyên nước, khi đó nhu cầu dùng nước của các quốc gia đều tăng lên, làm tăng các bất đồng và xung đột có thể có trong sử dụng chung nguồn nước.

    • Ti nạn môi trường/ khí hậu (trong nước và quốc tế) do mất nơi ở hoặc do bệnh tật và nghèo đói. Có những cảnh báo cho răng vấn đề tị nạn khí hậu không chỉ đơn thuần là vấn đề xã hội, kinh tế mà có thể còn là vấn đề chính trị, chiến tranh (Nobber, 2007).

    • - An ninh sinh thái do sư nhiễu loạn của nhiều HST, sự xâm lấn của các sinh vật lạ và sinh vật biến đổi gen (theo Nguyễn Đình Hoè và Nguyễn Ngọc Sinh, 2008)



g. Tác động của BĐKH tới cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng ở đây được hiểu là những công trình xây dựng thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống và sản xuất như xây dựng, năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch-dịch vụ. Đặc trưng của những đối tường này là thời gian tồn tại tương đối dài, có thể hàng thế kỷ và chịu tác động trực tiếp và liên tục của khí hậu, thời tiết, và hiện nay là BBDKH với xu hướng ngày càng gia tăng (Trần Việt Liễn, 2007).

Nhìn một cách khái quát, tác động của BĐKH tới cơ sở hạ tầng thể hiện ở hai góc độ, quy hoạch xây dựng và thiết kế công trình.


    • Quy hoạch xây dựng. Quy hoạch xây dựng bao gồm không chỉ quy hoạch đô thị, nông thôn, các khu dân cư, các cụm công nghiệp mà còn cả các công trình giao thông vận tải, trong thủy lợi, y tế, giáo dục, du lịch và dịch vụ. Những quy hoạch xây dựng bao giờ cũng được tính toán một cách phù hợp với phân bố không gian và điều kiện khí hậu của từng vùng, từng địa phương, từng lọai công trình. Vì vậy, BĐKH sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các qui hoạch này, nhất là khi mực nước biển dâng, và thiên tai gia tăng.

    • Thiết kế công trình. Thiết kế công trình bao giờ cũng được tính toán phù hợp với tải trọng khí tượng, trong đó tải trọng gió và tải trọng nhiệt là quan trọng nhất đói với các nước nhiệt đới như Việt Nam.

BĐKH mà trước hết là nhiệt độ tăng, sự bất thường về khí hậu và gia tăng thiên tai sẽ tác động tới tính tiện nghi, tính hữu dụng, sức chịu tải, độ bền, độ an toàn của các công trình được thiết kế trước đó khi không được xem xét tới yếu tố BĐKH.

Vì vậy, đánh giá tác động của BĐKH cho từng lọai cơ sở hạ tầng đã có trong từng địa phương cụ thể để có các giải pháp thích ứng phù hợp là điều quan trọng.

Ví dụ, một nghiên cứu gần đây (ICEM, 2007) về đánh giá nhanh quy mô và ảnh hưởng của hiện tượng mực nước biển dâng tại Vịệt Nam đã chỉ ra rằng theo kích bản của IPCC, nếu mực nước biển dâng cao 1m vào năm 2100 thì:


    • 14,520 km2 (4,4%) diện tích của Việt Nam sẽ bị ngập vĩnh viễn;

    • Trên 60% (39/64 tỉnh ) và 6/8 vùng kinh tế sẽ bị ảnh hưởng;

    • Khoảng 20% xã (2.057/10.511 xã) trên cả nước sẽ bị ngập một phần hay toàn bộ.

    • Theo kịch bản này, BĐKH sẽ ảnh hưởng cơ sở hạ tầng như sau:

    • 4,3% (9.200km) đường bộ của cả nước sẽ bị ngập vĩnh viễn;

    • 574 km đê,

    • 90% đường bộ của đồng bằng sông Cửu Long;

    • 20 tỉnh sẽ có các cở sở sản xuất bị ngập nước, trong đó tp. HCM khoảng 500 doanh nghiệp (9%), 16 khu công nghiệp (9 bị ngập sâu); đồng bằng sông Cửu Long có 19 khu bị ảnh hưởng (13 khu bị ngập sâu).

Hiện nay, Chương trình Hợp tác Việt Nam-Thuỵ Điển về Tăng cuờng năng lực trong quản lý đất đai và môi trường (SEMLA), Bộ TN&MT, đã đề xuất Quy trình lồng ghép các vấn đề môi trường/ BĐKH vào Quy hoạch sử dụng đất và Đánh giá môi trường chiến lược. Đây là cơ sở khoa học và thực tiễn quan trọng để các bộ ngành điều chính và xây dựng các quy hoạch của mình ở các cấp cho phù hợp, đăc biệt là với các yếu tố BĐKH.

KẾT LUẬN


“Biến đỏi khí hậu là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất mà nền văn minh nhân loại từng đối mặt từ trước đến nay” (Al Gore, Giải Nobel Hoà bình 2007).

“Chúng ta đã mất 30 năm để tranh cãi xem có đúng là Trái đất đang ấm lên không. Giá như khi ấy chúng ta hành động ngay thì cái giá của cuộc tranh cãi kéo dài tới 30 năm ấy đã không quá cao như hiện nay. Bây giờ thì chúng ta không còn thời gian để tranh cãi nữa. Chúng ta không thể thiếu trách nhiệm chuyển vấn đề này cho thế hệ sau quyết định” (Achim Steiner – Giám đốc UNEP).

“BĐKH đang gây ra tình trạng suy thoái môi trường trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi thế giới phải hành động nhanh chóng hơn bao giờ hết”; “...vấn đề quan trọng nhất hiện nay là thế giới cần phải hành động ngay chứ không thể chần chừ thêm nữa” (Báo cáo triển vọng MT toàn cầu 2007 của LHQ).

BĐKH là một vấn đề phức hợp, vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa mang tình từ từ lâu dài, tác động tới tất cả các lĩnh vực, từ tự nhiên đến kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn cầu. BĐKH, thực chất là vấn đề phát triển bền vững. Vì vậy, ứng phó với BĐKH cần phải được tiến hành trong một Chương trình/ Kế hoạch Quốc gia thống nhất và trong sự hợp tác chặt chẽ với công đồng quốc tế, để cùng bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta – Trái Đất mà trên đó Con Người là vốn quí nhất.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2007. Một số văn bản quy phạm pháp luật thực hiện Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto tại Việt Nam.

  2. Bộ Tài nguyên và Môi trường , 2008. Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (Dự thảo 1).

  3. Chaudhry, P. and Ruysschaert, G., 2007. Climate Change and Human Development in Vietnam.

  4. Gore, Al, 2006. An Inconvinent True: The planetary emergency of global warming and what we can do about it. Rodale.

  5. Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, 2008. Biến đổi khí hậu và giải pháp ứng phó của Việt Nam. Hà Nội, ngày 26-29/2/2008.

  6. IPCC, 2007a. “Fourth Assessment Report of the Intergovernment Panel on Climate Change: WGI: “The Physical Science of Climate change”, WGII: “Impacts, Adaprtation & Vulnerability”, WGIII: “Mitigation of Climate Change”.

  7. IPCC, 2007b. Climate and Human Health Impacts.

  8. Ministry of Natural Resources and Environment, 2003. Viet nam Initial National Communication: Submitted to the United Nations Framwork Convention on Climate change.

  9. Ministry of Natural Resources and Environment, 2004. Viet nam National Strategy Study on Clean Development Mechanism. Final report.

  10. The impact of sea level rise in developing countries – a comparative analysis, February 2007.

  11. Truong Quang Hoc, 2007a. Biodiversity and Climate Change – General issues. ISGE Newsletter, MONRE, Vol. 8, May, 2007.

  12. Trương Quang Học, 2007b. Biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học trong mối quan hệ với đời sống và sự phát triển xã hội. Tạp chí Bảo vệ môi trường, Số 96/ tháng 5/2007.

  13. Trương Quang Học, Trần Đức Hinh, 2008. Biến đổi khí hậu và các véc tơ truyền bệnh. Báo cáo khoa học, Hội nghị Côn trùng học toàn quốc lần thứ 6, Hà Nội, ngày 9-10/ 5/2008.

  14. Trương Quang Học, 2008: Biến đổi khí hậu: Tác động và Ứng phó. Bản tin Khoa học, Kỹ thuật và Môi trường, Số 5/2008.


PHẦN II


DỰ THẢO CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG


1 Ghi chú: Tuy vậy, bình quân đầu người của Trung Quốc là 3,8 tấn CO2, vẫn thấp hơn mức trung bình toàn cầu (4,5 tấn/người/năm)

2() Nguồn: UNDP - Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008

3() Nguồn: Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH




tải về 0.58 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương