¤n V¡N 11-P1: Nh÷ng bµi v¨n chän läc



tải về 0.61 Mb.
trang2/11
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích0.61 Mb.
#12788
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng


Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt

Hoặc cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa đói khổ:


Dở trời mưa bụi còn hơn rét,
Nếm rượu tượng đình được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác,
Nợ nần năm trước hỏi lung tung.
(Chợ đồng)

3.2.2. Tình cảm đối với gia đình, bạn bè làng xóm:

Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn bè, làng xóm. Những tình cảm tưởng chừng như bình thường ấy đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến với một giá trị chân thật, đáng quý.

- Ðối với vợ, ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà Câu đối khóc vợ là một tiếng khóc chân thành của ông đối với vợ.


-
Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay làm, hay làm thắt lưng có que,xắn váy quai cồng, tất cả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ, vất vưởng búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm

- Ðối với con,ông rất thương yêu và quý trọng các con. Lo lắng khuyên nhủ các con sống làm người hữu ích cho xã hội, thấy các con lơ là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí tình:

Hoàn cư bất mãn cửu cao thổ,
Tố nghiệp thư tha nhất thúc thư.
Nhi tào hoặc khả thừa ngô chí,
Bút nghiêng vô hoang đạo, thúc, sơ.
(Xuân nhật thị chư nhi (I) )

Dịch nghĩa:


Khu nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất,
Nghiệp cũ chẳng có gì ngoài một bó sách
Các con nối chí cha nên biết
Bút nghiêng đừng quên lúa, đậu, cà
(Ngày xuân dặn các con (I) )

- Ông không chỉ viết về gia đình mà còn làm câu đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn... Bài nào cũng chân tình giản dị.

- Ông còn viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ hết những khuôn sáo cầu kỳ, lời thơ xuúat phát từ tấm lòng thành của ông (Khóc Dương Khuê, Nước lụt thăm bạn ... ). Trước cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ thể hiện tâm trạng đau xót của mình:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,


Tôi lại đau trước bác vài ngày.
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời!
Ai chả biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mãi lên tiên?
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền, không mua
(Khóc Dương Khuê)

III.NGHỆ THUẬT THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN:


1. Ngôn ngữ
1.1. Ðặc điểm chung:

Ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyến rất phong phú không những trong cách nói mà còn rất mỹ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả.

Nguyễn Khuyến còn có biệt tài khai thác khả năng diễn tả của từ ghép rất độc đáo:Thấp le te, đóm lập lòe, tẻo teo, ve ve, tênh nghếch, làng nhàng, khỏe khoe…

Năm gian nhà cỏ thấp le te


Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
(Thu ẩm)

Nhiều danh từ, những cách nói, những thành ngữ, tục ngữ được dùng ở nông thôn được ông sử dụng khá thành thạo: xôi bánh trâu heo, anh em làng xóm,văn dai như chão, người ba đấng, của ba loài.

Ông có làm một bài thơ cùng tên với câu tục ngữ dân gian Nhất vợ nhì trời để lý giải vì sao như vậy:
Trời dẫu yêu nhưng vì có phận
Vợ mà vụng dại đếch ăn ai.
Cớ sao vợ lại hơn trời nhỉ?
Vợ chỉ hơn trời có cái chai!

Ông tiếp tục truyền thống học tập ca dao, tục ngữ của những nhà thơ Nôm các thế kỷ trước, nhưng ông có lối sáng tạo riêng.

Ca dao có câu Gái có chồng như gông đeo cổ thì nhà thơ làm bài thơ Muốn lấy chồng phát triển cái tứ ngược lại:
Mới biết có chồng như có cánh
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.

1.2. Ngôn ngữ trào phúng:

Ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm hỉnh, nhiều cung bậc. Trào phúng của Nguyễn Khuyến có nét riêng không giống như Hồ Xuân Hương hay Tú Xương là đánh một cái cho biết. Cái cười của ông đối với kẻ thù tuy có cay nhưng không độc địa bốp chát, mặc dù ông ông có so sánh cờ nước Pháp với váy phụ nữ:
Ba vuông phất phới cờ bay dọc
Một bức tung hoành váy xắn ngang
(Lấy Tây)

Ông có biệt tài, cường điệu và chơi chữ rất tài tình:


Văn hay chữ tốt ra tuồng
Văn dai như chão chữ vuông như hòm
Vẽ thầy như vẽ con tôm
Vẽ tay ngoái cám, vẽ mồm húp tương.
(Ðùa chế ông Ðồ Cự Lộc)

Hoặc cái dí dỏm của câu đối tết viết dùm người hàng thịt:


Tứ thời bát tiết canh chung thủy
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang

Các bài thơ tiêu biểu: Than già, Bác đến chơi nhà, Tự trào, Bóng đè cô đầu, Tạ lại gnười cho hoa trà, Lấy tây, Ðùa chế ông đồ Cự Lộc, Câu đối tết… đều là những vần thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến.

1.2. Ngôn ngữ tả cảnh:

Nguyễn Khuyến rất thành công trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Thơ du vịnh và thơ bốn mùa không chỉ tả cảnh mà còn miêu tả tâm trạng của nhà thơ.

Ngôn ngữ tả cảnh rất chính xác, cách chọn chữ , dùng từ thích hợp, từ ngữ thường lấp láy giàu nhạc điệu, có khả năng gợi tả cao.

Sử dụng vốn ngôn ngữ bình dân nhưng không hề rơi vào sự thông tục hóa, cảnh nào cũng được vẽ, được chạm khắc thần tình đạt đến mức nghệ thuật.

2. Hình ảnh:

Hình ảnh sử dụng thường đơn sơ, khêu gợi thể hiện qua những chi tiết thật bình dị, sống động. Nó có giá trị nâng các câu thơ làm tăng sức biểu cảm. Hình ảnh hoa nở, trăng trôi, chiếc thuyền thấp thoáng, bé tẻo teo, ngõ trúc quanh co, thấp le te, đóm lập lòe… đầy sức sống.

Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và màu sắc gợi cảm giác vừa xem tranh thủy mặc vừa nghe thơ Ðường.

Aâm thanh của tiếng muỗi, tiếng dế, tiếng gnỗng, tiếng trâu thở, tiếng hạc bay, tiếng chó sủa, tiếng sóng vỗ đã lột tả được đặc điểm của ngoại cảnh và tâm lý:

Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà
(Vịnh lụt)

Màu sắc tuyệt diệu có khả năng gợi tả cao: Màu xanh của nước, màu xanh của trời, xanh, xanh của ngọc, xanh của tre, xanh của bèo, màu đỏ hoe của mắt, màu sương chiều, màu sáng của trăng đã tạo nên màu sắc đậm nhạt, mờ ảo thanh đạm, lặng lẽ. Làn ao lóng lánh bóng trăng loe dễ gây ấn tượng thị giác.

Nguyễn Khuyến là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh nhất là trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam vì những cảnh, người, vật qua cảm nhận của ông đều đậm đà phong vị của quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến đã có những cống hiến quan trọng làm cho ngôn ngữ đi sát với đời sống và ông đã thành công trong việc chuyển cái tinh túy của đời thường thành thơ.

IV.KẾT LUẬN:

Nguyễn Khuyến là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt. Thơ trào phúng của ông bao giờ cũng tự nhiên, tươi tắn tạo nên những nụ cười nhẹ nhàng, thanh nhã, ý vị; Thơ tả cảnh tả tình có cái nhẹ nhàng, mềm mại thanh thoát, ý tứ gần gũi, chất liệu lấy từ cuộc sống nông thôn.

Nguyễn Khuyến đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông xứng đáng là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam.

(Sưu tầm)

Tìm hiểu bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương




TỰ TÌNH( Bài II )


- Hồ Xuân Hương -

I.Tìm hiểu chung


1.Tác giả.
a.Cuộc đời.

- HXH (?- ? ) là một trong những nữ sĩ tài ba bậc nhất của văn học trung đại VN đầu tk XIX. Quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- Là người rất thông minh, không được học nhiều, nhưng giao thiệp rộng. Đường tình duyên lận đận, ngang trái: hai lần lấy chồng đều hai lần làm lẽ, rồi chồng chết, lại sống độc thân.

b. Sự nghiệp sáng tác

- Hồ Xuân Hương sáng tác cả chữ Nôm lẫn chữ Hán.Theo giới nghiên cứu, hiện có khoảng 40 bài thơ Nôm tương truyền là của bà. Ngoài ra còn có tập Lưu Hương kí gồm có 24 bài thơ bằng chữ Hán và 26 bài thơ chữ Nôm.

- Nổi bật trong những sáng tác của bà là tiếng nói thương cảm đối với những phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp của họ.

HXH nổi tiếng chủ yếu với những sáng tác bằng chữ Nôm, người ta gọi bà là “bà chúa thơ Nôm”.Mảng thơ tạo sắc màu riêng trong thơ bà chính là mảng thơ viết về cảnh ngộ riêng tư, đó là cảnh ngộ của một người phụ nữ có bản lĩnh, đầy sức sống, hết mực tài hoa nhưng cuộc đời riêng tư lại là một chuổi bất hạnh. Ngoài ra mảng thơ viết về thiên nhiên cũng rất độc đáo và ấn tượng.

- Nghệ thuật thơ của bà rất độc đáo, cảnh thiên nhiên được miêu tả rất sinh động. Những âm thanh, màu sắc hình ảnh, hoạt động được bà đưa vào thơ thường mộc mạc, trần tục, với bút pháp châm biếm, trào phúng, ngôn ngữ phổ thông…


2.Tác phẩm: bài thơ nằm trong chùm thơ tự tình ( I, II, III )


a.Thể loại: TNBCĐL
b.Bố cục: 4 phần: đề, thực, luận, kết.
c.Chủ đề:

Bài thơ là nỗi thương mình trong cô đơn lẽ mọn, khao khát hạnh phúc, tuổi xuân. Đồng thời thể hiện thái độ bứt phá, vùng vẫy, muốn thoát ra khỏi cảnh ngộ, muốn vươn lên giành hạnh phúc nhưng vẫn rơi vào bi kịch.

II.Phân tích.

1.Hai câu đề.

- Mở đầu bài thơ là điểm thời gian canh khuya, khi con người đối diện thật nhất với mình cũng là lúc XH nhận ra tình cảnh đáng thương của mình.Sự cô đơn trơ trọi được đặt trong thời gian.

- Tiếng trống canh được cảm nhận trong cái tỉnh lặng, trong sự phấp phỏng như sợ bước chuyển mau lẹ của thời gian. Đối diện với thời gian ấy là “cái hồng nhan”. Chữ “trơ” được đặt ở đầu câu nhấn mạnh nỗi đau của sự cô đơn, của sự bất hạnh trong tình duyên.

Thông thường, giữa không gian rợn ngợp con người cảm thấy bé nhỏ, cô đơn, ở đây HXH lại cảm nhận sự cô đơn trước thời gian. Thời gian cũng vô thuỷ vô chung…, “đêm khuya…dồn”: cái nhịp gấp gáp liên hồi của trống vừa là sự cảm nhận vừa là sự thể hiện bước đi liên hồi của thời gian và sự rối bời của tâm trạng. Khi trăm mối tơ lòng không thể gỡ mà thời gian gấp gáp cứ trôi đi thì còn lại là sự bẽ bàng…

- "Trơ” đặt đầu câu có tác dụng nhấn mạnh. “trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó hai chữ “hồng nhan” là để nói về dung nhan thiếu nữ mà lại đi với từ “cái” thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” trơ với nước non không chỉ là dãi dầu mà còn là cay đắng, vì vậy nỗi xót xa càng thấm thía, càng ngẫm lại càng đau.

- Nhịp điệu câu thơ: 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng.

Tuy nhiên bên cạnh nỗi đau là bản lĩnh Xuân Hương, bản lĩnh ấy thể hiện ngay trong chữ “trơ”. Trong văn cảnh câu thơ, chữ “trơ” không chỉ là bẽ bàng mà còn là thách thức. Chữ trơ kết hợp với từ nước non để thể hiện sự bền gan thách đố.


2.Hai câu thực

Trong khoảnh khắc của canh khuya ấy là một con người cùng đối diện với rượu và trăng, mượn trăng làm bạn, mượn rượu vơi sầu. Nhưng rượu không thể say, trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Đó là một nỗi niềm chất chứa thấm lan vào cảnh vật. Ngậm ngùi thân phận con người, tuổi xuân qua mau mà duyên vẫn còn chưa trọn vẹn.

Cụm từ “say lại tỉnh” → vòng luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận. Câu thơ là ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa tăng và người. Trăng sắp tàn ( “bóng xế”) mà vẫn “khuyết chưa tròn”, tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Hương rượu để lại vị đắng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn phận hẩm duyên ôi…

3.Hai câu luận.

Hai câu thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên, cũng là tâm trạng của con người.

Các động từ mạnh: xiên, đâm kết hợp với những bổ ngữ: ngang, toạc thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh, phẫn uất, một tâm trạng khác thường, khác người.

Hai câu thơ gợi cảnh thiên nhiên và cảnh được cảm nhận qua tâm trạng như cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật nhỏ bé, hèn mọn như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu, nó phải mọc xiên, lại xiên ngang mặt đất. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”. biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng chính là sự phẫn uất của tâm trạng con người. Các đt mạnh: xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ: ngang, toạc → bướng bỉnh, ngang ngạnh, phẫn uất, rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây như vạch đất, trời mà hờn oán, không chỉ là phẫn uất mà còn là phản kháng…


4.Hai câu kết.

“Ngán” là chán ngán, ngán ngẩm . Từ “lại” cũng có 2 nghĩa.

HXH đã quá ngán ngẩm nỗi đời éo le, bạc bẽo. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại với thiên nhiên, nhưng với con người thì mùa xuân qua không bao giở trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân.

Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ - tí – con con. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ thành ra ít ỏi, chỉ còn tí con con, nên càng xót xa tội nghiệp

→ Nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, với họ, hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp.

III.Tổng kết.

1.Nội dung:

Qua lời tự tình, bài thơ nói lên cả bi kịch và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của HXH. Trong buồn tủi, người phụ nữ gắng vựơt lên trên số phận nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch.

2.Nghệ thuật.

Sử dụng từ ngữ giản dị mà đặc sắc (trơ, xiên ngang, đâm toạc,…), hình ảnh giàu sức gợi cảm ( trăng khuyết chưa tròn, rêu xiên ngang,…) để diễn tả các biểu hiện phong phú, tinh tế của tâm trạng.





§Hồ Xuân Hương-Bậc cao thủ về câu đối


HỒ XUÂN HƯƠNG - BẬC CAO THỦ VỀ CÂU ĐỐI


Hồ Xuân Hương, con ông Hồ Sĩ Danh (1706-1783), em cùng cha khác mẹ với quận công Hồ Sĩ Đống (1738-1786), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông Hồ Sĩ Danh đậu cử nhân năm 1732, không ra làm quan, bỏ quê ra dạy học ở vùng Hải Dương, Kinh Bắc, rồi lấy con gái họ Hà làm vợ lẽ, sinh ra Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương sinh trong khoảng những năm 1745 đến 1780 và mất khá lâu trước năm 1842. Có thể hồi nhỏ, bà từng sống ít năm ở quê cha, nhưng từ khi cha mất, bà sống với mẹ ở Thăng Long, lúc đầu ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, sau chuyển đến thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội). Lúc trưởng thành, bà thường ở một ngôi nhà riêng gần Hồ Tây, đặt tên là Cổ Nguyệt Đường (do chiết tự chữ Hồ thành hai chữ Cổ và Nguyệt); đây có thể là phòng văn hay nơi dạy học, cũng là nơi diễn ra các cuộc bình thơ, thù tiếp bạn bè.

Hồ Xuân Hương không những nổi tiếng là "bà chúa thơ Nôm", mà còn là một bậc cao thủ về câu đối. Trong thời gian theo cha về Sơn Dương dạy học, Hồ Xuân Hương được nhiều cậu Tú, anh Nho ngấp nghé chuyện riêng tư. Một hôm, nhân ngày Tết Nguyên đán, cậu Tú Kình cùng một số thư sinh đem biếu quà Tết cho cụ đồ Hồ Sĩ Danh, thân sinh Hồ Xuân Hương, bị Hồ Xuân Hương ra câu đối:

- Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới.

Tú Kình đối lại:

- Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào.

Có sách nói cả hai vế câu đối trên là của Hồ Xuân Hương với nội dung:

- Tối ba mươi, khép cánh kiền (càn) khôn, ních chặt lại kẻo ma vương bồng (đưa) quỷ tới.

- Sáng mồng một, lỏng then tạo hoá, mở toang ra cho thiếu nữ bế (rước) xuân vào.

Chiêu Hổ, một viên quan lại thời bấy giờ, một hôm đến chơi nhà Hồ Xuân Hương, khi đi qua sân, đụng phải quần áo của nàng đang phơi. Hồ Xuân Hương xuất thần đọc:

- Tán vàng, lọng tía, che đầu nhau mỗi khi nắng cực.

Chiêu Hổ đối lại:

- Thuyền rồng, mui vẽ, vém buồm lên rồi sẽ lộn lèo.

Khi tiếp chuyện một ông đồ tên là Bút ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Hồ Xuân Hương (có một thời cùng gia đình sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, nay là vùng vườn Bách Thảo, Hà Nội), ra vế đối:

- Gái Khán Xuân, xuân xanh tuổi mười ba, khép cửa phòng xuân còn đợi nguyệt.

Ông đồ Bút đối lại:

- Trai Đình Bảng, bảng vàng treo đệ nhất, chờ khi chiếm bảng trúng khôi khoa.

Có lần, Hồ Xuân Hương giặt quần áo dưới sông, trên cầu có võng quan đang đi qua, ứng khẩu đọc:

Võng đào ông lớn đi trên ấy;
Váy rách bà con vỗ dưới này.

Hồ Xuân Hương khi du ngoạn qua cửa Gió ở Đèo Ngang, đã viết:

- Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá.

- Gớm con tạo lừa cơ tem hẻm, rút nút nuôi cho lọt khách cổ kim.

Hồ Xuân Hương còn tức cảnh:

Giơ tay với thử trời cao thấp;


Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài.

Khi Gia Long diệt được nhà Tây Sơn, tiến ra Bắc Hà, bắt dân chúng treo đèn kết hoa, chào đón tân triều. Viên khâm sai lúc bấy giờ được lệnh đi kinh lý các tỉnh. Các quan chức gặp Hồ Xuân Hương để xin câu đối. Nữ sinh tài hoa liền viết:

Thiên tử tinh kỳ đương bán diện;
Tướng quân thanh thế áp tam thuỳ.

Tạm dịch như sau:


Che nửa mảnh rực cờ thiên tử;
Trấn ba góc, rõ tài tướng quân.

Câu đối trên có nghĩa đen là: Cờ xí của nhà vua treo khắp mọi nơi, che nửa mặt người. Uy danh của vị khâm sai rất to lớn, bao trùm cả ba cõi.

Hồ Xuân Hương vốn là một nhà thơ tinh nghịch. Câu đối bằng chữ Hán của nữ sinh tài hoa này dễ gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh: "Chành ra ba góc da còn méo" trong bài thơ Vịnh cái quạt của bà. Câu đối nói trên được nhiều người hiểu rằng, cờ của vua Gia Long là loại cờ nửa mảnh và cái tài của vị khâm sai chỉ là cái tài áp vào ba góc mà thôi!...

Ông Chiêu Hổ đi làm quan xa, nhận được thư thăm của Hồ Xuân Hương. Trong thư hồi âm, ông Chiêu Hổ có hai câu:

Nay đã mần cha thằng xích tử;
Rầy thì đù mẹ cái hồng nhan.

Hồ Xuân Hương tức giận, viết một câu gửi cho ông Chiêu Hổ với lời lẽ mỉa mai:

- Mặc áo Giáp, dải cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khen mình rằng Quý
(Theo Nguyễn Xuyến )





§Thơ Tú Xương - những hiện vật thời cuộc vô giá


Năm 2005 là năm kỷ niệm lần thứ 135 ngày sinh của nhà thơ Trần Tế Xương. Những dấu tích của cuộc đời ông dường như đã mai một rất nhiều, cần nhanh chóng thu thập, phục hiện để lưu giữ như những tài sản quý báu cho thế hệ sau.

Còn ngót hai năm nữa (2007) là ngày giỗ thứ một trăm nhà thơ dân tộc Trần Tế Xương. Năm nay (2005) kỷ niệm 135 năm ngày sinh.

Thơ Tú Xương là một đặc sản của thời cuộc. Thời cuộc buổi Tây sang, đánh cướp được nước ta rồi, họ hạ trại tính chuyện ăn ở lâu dài và khai thác các nguồn lợi. Họ du nhập áp đặt lối sống của họ. Họ tạo ra một thứ người Việt tôi tớ. Làm tôi tớ mà lại dị hợm. Dị hợm vì cơm thừa canh cặn, cũng dị hợm với lối sống học mót ngoại bang, từ nói năng xì xồ nói ít tiếng Tây, đến ăn uống sáng rượu sâm banh tối sữa bò.

Đấy là bọn quan lại tay sai phủ, huyện, tổng đốc, nhưng đông hơn, gặp chan chát ngoài đời và tạo nên nét đổi thay cả xã hội, lại là lớp công chức ăn lương Pháp, ấy là các thứ thông, ký, phán, tham… cho đến các thầy cẩm, thầy cò. Lớp người này sống ở các thành thị, làm nên nét đặc trưng của phố phường thời ấy.

Cái bối cảnh xã hội nhố nhăng tủi nhục ấy đã lọt vào tầm cảm hứng của Tú Xương, một người sinh và sống ở phố phường Nam Định. Xã hội Nam Định cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi hiện lên, cụ thể, chi tiết là hiện từ thơ Tú Xương. Và chỉ trong thơ Tú Xương nó mới phong phú, sinh động đủ cho hôm nay ta đọc mà còn như được chung khóc cười với tác giả.

Thơ Tú Xương thành một bảo tàng nhan nhản những hiện vật thời cuộc của riêng Nam Định và cũng là của chung điển hình cho cả nước trong cái thời bi phẫn đó. Đạo lý băng ngoại, đồng tiền lên ngôi, chất người xuống giá. Tú Xương ngửa mặt kêu trời cho cái mảnh đất Phố phường tiếp giáp với bờ sông:

Có đất nào như đất ấy không?


(…) Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam miệng thở những hơi đồng
Tú Xương bi phẫn trong bài thơ Đau mắt:
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ
Giương mắt trông chi buổi bạc tình

Từ bệnh đau mắt đã thành nỗi đau con mắt lúc trông đời. Ông còn đau trong trái tim. Đau khi đêm vắng trong tâm trí nghe vọng tiếng gọi đò trên con sông đã lấp.

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

Sông Lấp ấy là của Nam Định, nhưng tiếng gọi đò thì đã thành tiếng gọi hồn sông núi của con dân cả nước. Cái giật mình Tú Xương là cái giật mình thân phận của cả một dân tộc.

Tú Xương là nhà thơ đặc sắc của toàn dân, của mọi địa phương. Các thế hệ học trò đều học và nhớ thơ ông.

Trong các nhà thơ viết bằng thứ chữ vuông tượng hình, ông là người đầu tiên và cũng là cuối cùng, đã đưa được không khí thị dân tiền tư bản vào thơ. Ông đã mang được chất liệu, lẫn cảm xúc hiện đại của thế kỷ XX vào các câu thơ được gọi là cổ điển.

Nguyễn Khuyến, nhà thơ lớn cùng thời với ông, sinh trước ông 35 năm và mất sau ông hai năm, tài thơ cũng cao, nhưng không giàu chất sống hiện thực bằng ông, không đủ gay gắt việc đời như ông. Nguyễn Khuyến là ông đại khoa không có được cái cay đắng Trần Tế Xương, hay chữ mà lều chõng đến tám khoa, từ 1885 đến 1906, chỉ được cái tú tài.

Nỗi từng trải ấy đẻ ra cái nhìn hiện thực trào lộng vỗ mặt vào thứ khoa cử cuối mùa, đào tạo tôi tớ cho thực dân xâm lược:

Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng

Đầu đối với đít là nhục thì lấy động từ ngỏng mà trả thù. Hiện thực ấy là hiện thực của thành Nam, nó nhỡn tiền đối với Tú Xương, nơi có trường thi lôi thôi sĩ tử.

Một tỷ lệ lớn thơ Tú Xương là thơ nói việc đi thi, hỏng thi, gắn nhiều tên đất, tên người của Nam Định. Tú Xương khi trữ tình thì còn tiêu tao ước lệ Tam Đảo Ngũ Hồ, chớp bể mưa nguồn chứ Tú Xương khi đã hiện thực thì nhân chứng vật chứng cụ thể lắm, chi tiết đủ độ tin cậy làm hồ sơ cho lịch sử:

Ở phố hàng Song thật lắm quan


Thành thì đen kịt, Đốc thì lang

Rồi những ông lang Xán, chú ích Sinh, kẹo Thiều Châu, bánh Hanh Tụ…

Nguyên liệu tạo nên thơ Tú Xương là Nam Định. Từ Nam Định hồn thơ ông đã ôm và đất nước, bao quát một giai đoạn lịch sử. Tú Xương hộ khẩu thường trú ở phố hàng Nâu, ở phố hàng Nâu có phỗng sành.

Phố hàng Nâu bây giờ là phố Minh Khai, căn nhà số 280. Gia đình ông Trần Ngọc Thành đã ở đây từ năm 1952, căn nhà sửa chữa nhiều lần, giờ đây lại xây một căn mới phía trước. Nhưng vẫn còn giữ được căn nhà gác hai tầng của Tú Xương nằm khuất phía sau. Khách thăm xin phép vẫn được gia chủ rộng lòng cho vào thăm. Nhưng phải là người biết, chứ khách vãng lai đi qua ngoài phố không ai biết đây là nơi ăn ở của Tú Xương. Căn gác đã ọp ẹp lắm. Phải chăng người chủ thổ cư này chưa phá đi xây lại là vì trong lòng một cư dân Nam Định cũng còn lưu luyến chút hơi hướng Tú Xương.

Thơ Tú Xương đã tạo nên phần đặc sắc cho một giai đoạn thơ ca dân tộc và độc đáo hơn, nó đã thành tâm hồn của phố phường Nam Định. Những dấu tích còn lại của cuộc đời ông đã thành phần tài sản quý báu của thành phố, thành sức thu hút, thành nơi chiêm ngưỡng của đồng bào cả nước khi về Nam Định. Thời gian càng lùi xa, đời sống văn hóa của dân ta càng được nâng cao, những dấu tích ấy càng trở nên vô giá.

Nghĩ vậy nên mong muốn ủy ban tỉnh, ngành văn hóa nên mua lại căn nhà 280 Minh Khai, chỉ có 102 mét vuông đất, để rồi tôn tạo, phục hồi giữ lại nguyên dạng căn nhà cũ, gắn biển kỷ niệm, gìn giữ cho đồng bào cả nước di tích của nhà thơ và cũng là dấu vết kiến trúc một Nam Định cái thời Trời đất xoay ra phố cả làng.

Đối diện với căn nhà ở của ông Tú, bên kia đường, còn gian nhà ông ngồi dạy học. Gian nhà giột nát, người ta đã phải trùm tấm tôn lên một nửa mái ngói, nhưng vẫn còn tường vách rui mè cũ và phía trước, cuối cái sân con, còn một bức phù điêu vôi vữa hình cuộn thư, có chữ triện. Mưa nắng phôi pha nhưng vẫn đủ gợi bâng khuâng thương nhớ người xưa.

Phục chế lại nhà cửa, phục hiện và sưu tầm lại nghiên bút, lều chõng, thi cử thuở xưa, biến đây thành bảo tàng Tú Xương, bảo tàng thơ và bảo tàng việc học. Đấy không chỉ là tấm lòng chúng ta ghi ơn nhà thơ mà còn dấy nên niềm tự hào của con dân Nam Định về truyền thống hiếu học tự bao đời.

Tiếng gọi đò trong bài thơ Sông Lấp của Tú Xương làm xao xuyến mọi lòng dân Việt bởi cái âm hưởng như gọi hồn đất nước. Theo tôi đấy là bài thơ hay nhất của Tú Xương, và cũng là bài thơ của một giai đoạn lịch sử, của hồn vía Việt Nam sâu nặng.

Hai câu thơ trích từ bài này đã được các nhà quản lý văn hóa khắc trên bia mộ Tú Xương, nơi vườn hoa Vị Xuyên. Ngôi mộ được di dời từ những năm đất nước còn gian khổ. Ngày ấy có người kêu, trách ngành văn hóa: ép cụ Tú rời xa đồng ruộng, vào nằm nơi bụi bậm thị thành, vườn hoa bóng liễu, trai gái trăng hoa. Bây giờ nhìn cả quần thể kiến trúc nơi đây, một vùng trang trọng nhất của thành phố, nơi mọi du khách đều đến thăm viếng, mới thấy việc chuyển mộ Tú Xương năm ấy là có lý. Chỉ tiếc trong hai câu thơ trích, khắc quốc ngữ trên bia, có một chữ sai, nên sửa.

Trở lại bài thơ Sông Lấp, bài thơ mang hồn ông Tú. Nam Định ta nên cố định dáng vẻ tâm hồn gọi đò đêm này bằng một bức tượng Tú Xương, y phục dân tộc, chới với gọi đò. Bức tượng nhìn ra sóng nước sông Đào, bên chỗ Cầu Đò Quan thoáng đãng. Tú Xương gọi hồn nước. Chúng ta gọi hồn ông. Chúng ta tự hào truy lĩnh tài sản tâm hồn ông để lại và qua bức tượng chúng ta cũng bàn giao lòng biết ơn Tú Xương với mai sau.

Báo Tiền phong




tải về 0.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương