¤n V¡N 11-P1: Nh÷ng bµi v¨n chän läc



tải về 0.61 Mb.
trang10/11
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích0.61 Mb.
#12788
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

-Nguyễn Công Trứ lớn lên giữa lúc Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn lên thay, đang tích cực củng cố địa vị thống trị của mình, xã hội có vẻ ổn định.

-Không vướng mắc với tư tưởng trung thần bất sự nhị quân, những năm tuổi trẻ nhà thơ đã hăm hở bước đi dưới triều đại mới, lòng đầy hoài bão về sự nghiệp. Hoài bão ấy đã để lại một dấu ấn rất đậm trong thơ ông. Ðọc thơ ông người ta thấy có một khái niệm thường trở đi trở lại như một điệp khúc, đó là chí nam nhi”.

*Nội dung của chí nam nhi.

-Nguyễn Công Trứ quan niệm rằng kẻ làm trai sống ở đời nhất thiết phải làm những việc có ích cho đời, không thể "tiêu lưng ba vạn sáu.


-Nhiều lần trong thơ Nguyễn Công Trứ đã đặt vấn đề;


Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
(Chí nam nhi).

Ðã mang tiếng trong trời đất


Phải có danh gì với núi sông.
(Ði thi tự vịnh)

Vũ trụ giai ngô phận sự


Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn.
(Nợ tang bồng)

-Cái công danh trong thơ Nguyễn Công Trứ thực ra không phải là cái danh hão, không phải là một quan niệm hưởng thụ, là cái bã vinh hoa tầm thường. Xét trong toàn bộ cuộc đời và thơ văn của ông chúng ta thấy quan niệm công danh của nhà thơ trước hết có ý nghĩa là nhiệm vụ của kẻ làm trai. Kẻ làm trai sống ở trên đời nhất thiết phải chiếm lấy một địa vị để trên cơ sở đó làm những việc có ích cho đời. Nguyễn Công Trứ có đề cao cá nhân nhưng nội dung chủ yếu là đòi hỏi phải đóng góp cho xã hội. Nhà thơ coi nhiệm vụ đó như một món nợ lần phải trả.

-Tang bồng là cái nợ
Làm trai chi sợ áng công danh.
(Quân tử cố cùng I)

-Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái


Cái công danh là cái nợ lần
(Nợ nam nhi)

-Có một điều đáng quý là trong khi khẳng định nhiệm vụ của kẻ làm trai, Nguyễn Công Trứ đồng thời rất ý thức được tài năng của bản thân vì thế mà nhà thơ có một niềm tin lạc quan, một niềm tin mãnh liệt vào hoài bão của mình. Suốt thời kỳ tuổi trẻ, mặc dù sống trong cảnh nghèo, ông vẫn hăm hở đi học, đi thi mãi tới năm 41 tuổi mới đậu nhưng vẫn không nản.

-Mộng công danh đó, niềm tin mãnh liệt đó, lòng hăng say đó của Nguyễn Công Trứ sẽ có ý nghĩa tích cực, sẽ có lợi cho dân cho nước biết bao nếu như ông sống trong một triều đại phong kiến tích cực, tiến bộ. Nhưng đáng tiếc ông sống vào giai đoạn lịch sử mà giai cấp phong kiến thống trị đã đi vào phản động, đã đi ngược lại với quyền lợi của nhân dân. Vì thế mà lý tưởng nam nhi của ông không khỏi nhuốm màu hình thức chủ nghĩa. Nguyễn Công Trứ đã vận dụng lý tưởng tốt đẹp của nhà nho vào một hoàn cảnh xã hội không còn tiền đề tồn tại cho nó nữa.

-Trải qua thực tế dần dần nhà thơ cũng đã nhận thức ra tính chất xấu xa, tàn bạo của chế độ nhà Nguyễn và tinh thần lạc quan ban đầu ấy của nhà thơ cũng dần dần bị sụp đổ và thay vào đó là một thái độ cực đoan. Ðó là sự bất mãn đến chua chát đối với chế độ xã hội và một tinh thần bi quan có tính chất hư vô chủ nghĩa.

-Ôi nhân sinh là thế đấy
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao

Cuộc đời đối với ông không còn nghĩa lí gì. Thậm chí có những lúc nhà thơ ao ước đừng bao giờ trở lại làm người mà chỉ làm cây thông đứng giữa trời mà reo

-Con người tích cực hoạt động ấy, con người say sưa với lí tưởng, công danh ấy cuối cùng đã phải rút lui khỏi quan trường, sống một cuộc đời ẩn dật, ngông nghênh. Cuộc đời nhà thơ vì vậy cũng đã có ý nghĩa tố cáo chế độ phản động nhà Nguyễn.

2.Tâm sự trong cảnh nghèo và thế thái, nhân tình.

-Buổi đầu nhà thơ say sưa với chí nam nhi, trải qua nhiều năm tháng làm quan cho nhà Nguyễn, va chạm với nhiều thực tế, dần dần Nguyễn Công Trứ nhận ra bản chất phản động của triều đaiû đương thời, ông đâm ra chán ghét nó. Cũng nhờ vậy mà Nguyễn Công Trứ đã có được những nhận thức khách quan về xã hội, về con người. Ðó cũng là nguyên nhân làm cho thơ của ông mang nhiều chất hiện thực.

-Ông tố cáo thói đen bạc trong xã hội phong kiến đã làm cho những người nghèo khổ không thể ngóc đầu dậy được.

-Gớm chết nhân tình thế thái
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy
(Nhân tình thế thái)

-Thế thái nhân tình gớm chết thay!


Lạt nồng, trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không điều lợi, khôn thành dại,
Ðã có đồng tiền dở cũng hay
(Vịnh nhân tình thế thái)

-Nhà thơ tố cáo sức tàn phá của đồng tiền đối với nhân cách, đạo đức con người:

Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi
(Thế thái bạc bẽo)

-Ông phê phán bọn quan lại bâït tài, bọn giá áo túi cơm nhưng lại tàn bạo hay hại người:

Tuổi tác càng già càng xốp xáp
Ruột gan không có, có gai chông.

Những câu thơ viết về thế thái, nhân tình đậm thấm cảm xúc sâu sắc của một con người từng trải cho nên mặc dù phần nào có trừu tượng, chung chung, thiếu những hình ảnh sinh động của cuộc sống nhưng chúng vẫn có sức lay động mạnh đối với người đọc.

-Thơ văn Nguyễn Công Trứ cũng đã ghi lại được tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông đồng thời cũng là tình cảnh của các nho sĩ lớp dưới đương thời. Tình cảnh ấy được thể hiện tập trung trong bài phú Nôm Hàn nho phong vị phú (Bài phú về phong vị cảnh nghèo của một nhà nho chưa đậu đạt). Bài phú là một bức tranh sinh động về cái nghèo. Ngòi bút của nhà thơ có màu sắc trào lộng nhẹ nhàng. Tuy nhiên tác giả chưa thấy được nguyên nhân của sự nghèo khổ nên đi đến giải thích sai lệch. Ông cho khổ là bởi tại trời, tại số mạng. Vì vậy thái độ của nhà thơ vẫn là thái độ cam chịu, chờ đợi.

3.Triết lí hưởng lạc

-Ngay từ đầu, Nguyễn Công Trứ đã có chủ trương con người có quyền hưởng lạc. Ông xếp nó trở thành một mục trong chương trình sống lí tưởng của mình. Thời kì đầu ông cho rằng con người chỉ được hưởng lạc khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Con người chỉ có thể thảnh thơi với thơ phú, với bầu rượu khi nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo. Nhà thơ quan niệm hành lạc là một thứ đãi ngộ, là phần thưởng cho kẻ anh hùng, cho người hành động. Nội dung hành lạc thời kì đầu cũng rất thanh sạch; du lãm trong thiên nhiên với thơ, với rượu, với đàn.

-Về sau, ông lại nâng quan niệm hành lạc ấy lên thành một triết lí sống. Ông kêu gọi mọi người ăn chơi, hành lạc:

Nhân sình bất hành lạc
Thiên tuế diệc vi thương.

Nội dung của hành lạc trong giai đoạn này cũng không còn là cuộc sống tiêu dao trong thiên nhiên với rượu, với đàn, với thơ mà còn cả gái đẹp đi theo. Ðẩy hành lạc lên thành một triêt lí sống đó là một bước sa đọa về phương diện tư tưởng của Nguyễn Công Trứ. Thực chất đó cũng là cách nhà thơ phản ứng lại xã hội, phản ứng lại triều đình nhà Nguyễn nhưng phản ứng này lại mang tính chất cá nhân, tiêu cực.

III.NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN CÔNG TRỨ

-Hoạt động thơ văn không phải là hoạt động chính, hoạt động chủ yếu của cuộc đời Nguyễn Công Trứ (hoạt động chính là quân sự, chính tri, kinh tế). Thơ văn cũng chỉ nhằm phục vụ cho sự nghiệp kinh bang tế thế của ông. Vì thế nhà thơ ít chú trọng gia công về nghệ thuật nên thơ ông có cái mộc mạc, nôm na.

-Ông rất kiên trì sáng tác chữ Nôm.

-Nhà thơ thành công nhất với thể ca trù (là loại bài hát phổ nhịp cho các cô đào hát trong các hành viện), ông nâng nó thành một thể thơ dân tộc độc đáo.

IV.TỔNG KẾT

-Ðiều giá trị nhất trong thơ văn Nguyễn Công Trứ là nhà thơ đã tuyên dương một lý tưởng sống tích cực .

-Con người Nguyễn Công Trứ là con người hành động, ý thức được tài năng, phẩm chất của mình.

( Sưu tầm )

Bài ca ngất ngưởng

Bài liên quan : Tìm hiểu tác phẩm Bài ca ngất ngưởng

I.Giới thiệu chung

1.Tác giả

Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) Hiệu là Hi Văn quê ở Uy Viễn, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. học giỏi, giàu chí khí, tài hoa, đỗ thủ khoa. Văn võ toàn tài, nhiều thăng trầm trên đường công danh, hoan lộ. Giàu lòng yêu nước thương dân. Lấn biển, khai hoang, di dân lập ra 2 huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Năm 80 tuổi vẫn xin vua cần quân ra trận đánh Pháp (1858).

Thơ văn để lại: Trên 50 bài thơ, trên 60 bài hát nói và một bài phú nôm nổi tiếng “Hàn nho phong vị phú”, một số câu đối nôm rất thâm thúy. Đi thi tự vinh, Nợ tang bồng, Nợ công danh, Chí nam nhi, Trên vì nước, dưới vì nhà, Bài ca ngất ngưởng… là những bài thơ rất nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ.

2.Xuất xứ, chủ đề

“Bài ca ngất ngưởng” viết sau năm 1848 – là năm Nguyễn Công Trứ về trí sĩ ở Hà Tĩnh quê nhà.

- Như một lời tự thuật cuộc đời, qua đó Nguyễn Công Trứ tự hào về tài năng và công danh bày tỏ một quan niệm sống tài tử, phóng khoáng… ngoài vòng kiềm tỏa.

3.Bố cục bài hát nói

- Khổ đầu (4 câu): Có tài danh nên ngất ngưởng.

- Khổ giữa (4 câu): Có danh vọng, về trí sĩ càng ngất ngưởng.

- Hai khổ dôi (8 câu tiếp): Một cuộc sống tài tử, phóng túng ngất ngưởng.

- Khổ xếp (3 câu cuối)

II.Nội dung

* Ngất ngưởng: Không vững ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (từ điển tiếng Việt). Ở bài thơ này, nên hiểu là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người.

1.Khổ đầu

Câu 1, 2 đối lập giữa phận sự mang tầm vóc cũ trụ lớn lao với cảnh ngộ đã vào lồng” rất chật hẹp tù túng. Thế mà ông Hi Văn đây - tự xưng rất đỗi kiêu hãnh tự hào - vẫn thi thố được tài năng, học giỏi, thi hương đỗ giải nguyên (thủ khoa) làm quan võ là tham tán, làm quan văn là Tổng đốc Đông. Là một con người có tài thao lược nên ta (ông Hi Văn) đã nên tay ngất ngưởng, một con người khác đời, khác thiên hạ, và bất chấp mọi người. Câu 3, 4 với cách ngắt nhịp (3 – 3 – 4 – 3 – 3 – 2) đã tạo nên một giọng nói điệu hào hứng:

“Khi thủ khoa/ khi tham tán/ khi tổng đốc Đông/
Gồm thao lược/ đã nên tay/ ngất ngưởng”

2.Khổ giữa:

Tác giả khẳng định mình là một con người có tài hình bang tế thế, lúc loạn thì giúp nước “bình Tây cờ đại tướng”, lúc bình thì giúp vua làm “phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là việc đã qua, còn nay ta đã về trí sĩ, nên ta sống ngất ngưởng bất chấp mọi người:

“Đô môn giải tố chi niên


Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”

Nay đã trả áo mũ cho triều đình, ta về quê không cưỡi ngựa mà là cưỡi bò vàng; con bò vàng của ta cũng đeo đạc ngựa, đó là một sự ngất ngưởng, rất khác người.

3.Khổ dôi (hai khổ 3, 4)

Nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa là một danh tướng (tay kiếm cung) thế mà nay rất từ bi hiền lành, bình dị. Đi vãn cảnh chùa chiền, đi thăm cảnh đẹp (Rú Nài): “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã mang theo “một đôi dì” (một hai nàng hầu). Và do đó “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”. Bụt cười hay thiên hạ cười, hay ông Hi Văn tự cười mình? Chuyện “được, mất” là lẽ đời như tích “thất mã tái ông” mà thôi, chẳng bận tâm làm gì! Chuyện “khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai như ngọn gió đông (xuân) thổi phơi phới qua.

Không quan tâm đến chuyện được, mất, bỏ ngoài tai mọi lời khen, chê thị phi, ông đã sống những tháng ngày thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà vẫn trong sạch, thanh cao. Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng trắc) lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp đã tạo nên câu thơ giàu tính nhạc, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, chẳng vướng chút bụi trần:

“Khi ca/ khi tửu/ khi cắc/ khi tùng


Không Phật/ không tiên/ không vướng tục”

4.Khổ xếp

Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung trong đạo “vua tôi” chẳng kém gì những Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Rồi ông đĩnh đạc tự xếp vị thế của minh trong lịch sử:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú


Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

Hai so sánh xa gần, ngoại, nội, Bắc sử và trong triều (Nguyễn) tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng “ông” vang lên đĩnh đạc hào hùng.

Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, phải có thực tài, phải có thực danh phải “vẹn đạo vua tôi” thì mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được và cách sống ngất ngưởng của ông thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, “không vướng tục” cũng không thoát li.

5.Nghệ thuật độc đáo

- Cái nhan đề, thi đề rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của ông Hi Văn cũng rất độc đáo.

- Chất thơ, chất nhạc hài hòa, phối hợp tài tình. Các câu 3, 4, 15, 16 là tuyệt cú.

- Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… là những nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ hào hùng, chất tài tử hòa nhịp với chí anh hùng, đó là cốt cách, là bản sắc những bài thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ.

BÀI CA NGẤT NGƯỞNG


( Nguyễn Công Trứ )

I.Tìm hiểu chung


1.Tác giả.

- NCT ( 1778 – 1858 ), xuất thân trong một gia đình Nho học, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.


- 1819 thi đỗ giải nguyên và được bổ nhiệm làm quan.
- Là người có tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực: văn hoá, xã hội, kinh tế, quân sự.
- Con đường làm quan không bằng phẳng.
- Ông sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm. Thể loại ưa thích là Hát nói.

NCT là một người có chí lớn, chí “kinh bang tế thế” ( trị nước giúp đời), tung hoành ngang dọc. Chí làm trai theo ông thì “Đã mang tiếng…núi sông”, hay “ không công danh thà nát với cỏ cây”, nhưng con người sống với lí tưởng cao đẹp ấy luôn đối mặt với “thế thái nhân tình gớm chết thay, lạt nồng trong chiếc túi vơi đầy”, vì vậy đôi khi ông thấy: “chen chúc lợi danh đà chán ngắt, cúc tùng phong nguyệt mới vui sao”, ông còn là người cả đời vì dân vì nước.

2.Bài thơ

- Thời điểm sáng tác: Sau năm 1848, là năm ông cáo quan về hưu.

- Thể loại: Hát nói - Là một trong những thể điệu của ca trù. ( Ca trù do người con gái hát thì gọi là hát ả đào). Một bài hát nói gồm hai phần: phần mưỡu và hát nói. Phần hát nói đúng thể cách gồm 11 câu, chia làm 3 khổ: khổ đầu 3 câu, khổ cuối 3 câu, khổ giữa có thể khuyết hoặc dôi)

II. Phân tích.


1.Cảm hứng chủ đạo của bài thơ

Từ “ngất ngưởng” xuất hiện 5 lần.

Nghĩa thực của từ “ngất ngưởng” là : Trạng thái của một đồ vật có chiều cao trong tư thế ngả nghiêng, không vững chắc, lúc lắc, chông chênh, gây khó chịu cho mọi người )

“Ngất ngưởng” chính là sự ngang tàng, phá cách, phá vỡ khuôn mẫu hành vi “khắc kỉ, phục lễ” của nhà nho để hình thành một lối sống thật hơn, dám khẳng định chính mình, khẳng định bản lĩnh cá nhân bắt nguồn từ ý thức về tài năng và nhân cách của bản thân.

=> Đó chính là nội dung xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, làm nổi bật cá tính con người ông.

Trên cơ sở ý thức về tài năng và nhân cách cảu bản thân, NCT trong “bài ca ngất ngưởng” đã phô trương, khoe sự ngang tàng, sự phá cách trong lối sống của ông, lối sống ít phù hợp với khuôn khổ của đạo Nho. Ngất ngưởng chính là sự ngang tàng, phá cách, phá vỡ khuôn mẫu hành vi “khắc kỉ, phục lễ” của nhà nho để hình thành một lối sống, thật hơn, dám là chính mình, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân…


Ngất ngưởng đối lập với lễ, danh giáo.

2.Những lời tự thuật


a.Quãng đời làm quan

Trong thời gian làm quan, NCT đã thể hiện thái độ “ngất ngưởng” của mình rất nhiều trong các tp của ông, như: ông cho rằng kẻ làm trai là phải mang lấy cái nợ và phải tung hoành ngang dọc để trả cho trọn cái nợ ấy

“ Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây
Cho phỉ sức vẫy vủng trong bốn bể” ( Chí anh hùng )

Tuy nhiên, đối với NCT, công danh không chỉ là vinh mà còn là nợ, là trách nhiệm, vì vậy ông coi đó là sự dấn thân tự nguyện đem tự do, tài hoa nhốt phù hợp với tâm trạng của con người đã trải qua bao nhiêu(vào vòng trói buộc. phiền luỵ chốn quan trường.

- Câu 1 “Vũ trụ …phận sự”: Mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải là phận sự của ta.

=> Thái độ tự tin, ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm và tài năng của bản thân.

- Câu 2 “ông Hi văn tài…vào lồng”

=> Ông coi việc nhập thế làm quan như một trói buộc, giam hãm vào lồng.=> phù hợp với nhân cách của ông

Ông coi việc làm quan là mất tự do vậy mà vẫn ra làm quan : Vì ông coi việc làm quan là một điều kiện, một phương tiện để thể hiện hoài bão vì dân vì nước và tài năng của mình. điều quan trọng là trong một môi trường có nhiều trói buộc, ông vẫn thực hiện được lí tưởng xã hội của mình và vẫn giữ được bản lĩnh, cá tính.

Lối sống “ ngất ngưởng” của NCT được ông thể hiện ngay đoạn đời từ khi ra làm quan, đoạn đời đó được ông tóm gọn trong 4 câu: 3, 4, 5, 6.

- Câu 3, 4, 5, 6 Liệt kê tất cả các sự việc lớn nhỏ, các chức phận ông đã trải qua.

=> Ông có tài năng thực sự và tận tâm với sự nghiệp, không hề luồn cúi để vinh thân phì gia.

+ Nghệ thuật: Hệ thống từ Hán Việt uy khẳng định tài năng lỗi(nghiêm trang trọng, âm điệu nhịp nhàng, nhiều điệp ngữ lạc, địa vị xã hội vẻ vang, xứng đáng một con người xuất chúng.

b. Khi cáo quan

- Câu 7, 8 : Năm cáo quan là một sự kiện lạ, phong cách khác người.

Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ lúc này như thế nào so với lúc ông sđang làm quan tại triều? (đậm nét hơn, vì đã được “tháo củi sổ lòng” thoát khỏi chốn quan trường).

Ngày “đô môn giải tổ” của ông rất đặc biệt : NCT làm một việc ngược đời, đối nghịch. Người ta tán lọng, ngựa xe nghiêm trang, còn ông thì ngất ngưởng trên lưng con bò. Đã là một giống vật thấp kém, bò mà lại bò cái, nhưng lại được trang sức bằng đạc ngựa - đồ trang sức quý của loài vật cao cấp ( ngựa). Song ông còn buộc mo cau vào đuôi bò ở cái chỗ cần che nhất với một tuyên ngôn ngạo ngược: để che miệng thế gian =>trêu ngươi khinh thị cả thế gian kinh kì.

- Câu 9 – 12: Cách sống phóng khoáng, thảnh thơi.

+ Dẫn các cô gái trẻ lên chơi chùa, đi hát ả đào và tự đánh giá cao các việc làm ấy.

+ Ông có quyền ngất ngưởng vì ông về hưu trong danh dự, sau khi đã làm được nhiều việc có ích cho dân…

+ “ Kìa núi nọ…mây trắng”: câu thơ trữ tình gợi một chút bâng khuâng, ý vị chua chát, những làn mây trắng trên đỉnh núi rất trắng, đậm ý nghĩa tượng trưng, gợi liên tưởng.

+ “Tay kiếm cung …từ bi”: cương vị, chức phận, cuộc sống đã thay đổi. Tay kiếm cung - dạng từ bi: dáng vẻ tu hành, trái hẳn(một ông tướng có quyền sinh quyền sát với trước.

- Câu 13 – 16: Quan niệm sống:

+ Không quan tâm được mất

+ Không bận lòng khen chê

+ Vui vẻ, không vướng tục


Câu 13 – 16, ông là người không quan tâm đến chuyện được mất, không bận lòng vì sự khen chê, có những khi hành lạc: uống rượu, cô đầu, con hát, nhưng ông không phải là người của phật, mà vẫn là con người của cuộc đời, duy có điều: không vướng tục

Một nhân cách, một bản lĩnh cao, chấp tất( cả, không để luỵ và khinh tất cả những gì của thói thường.

Câu 17, 18: Tổng kết cuộc đời mình, NCT cho rằng hai điều quan trọng nhất đối với kẻ nam nhi là trách nhiệm “kinh bang tế thế” và đạo nghĩa vua tôi. Ông đã giữ được trọn vẹn, đã thực hiện một cách xuất sắc.

- Khi làm quan trong triều, ông cũng không chấp nhận sự khom lưng, uốn gối hay thói quỵ luỵ thường thấy “ trong triều Tấm lòng và(ai…như ông”Khẳng định tài năng, phẩm giá, lòng trung nghĩa vua tôi. lời thề của tác giả suốt đời vì dân vì nước.

- Câu cuối: vừa hỏi vừa khẳng định: trong triều không có ai sống ngất ngưởng như ông cả.

=(> Bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống.

III. Tổng kết

Bài ca ngất ngưởng đã thể hiện một quan niệm của một danh sĩ đầu thế kỉ XX, dựa trên phẩm chất và bản lĩnh thực sự.

( Sưu tầm )

Tìm hiểu tác phẩm Hai đứa trẻ ( Thạch Lam)

Bài liên quan :

Hai đứa trẻ
Phân tích nghệ thuật trong Hai đứa trẻ
Thạch Lam

I/Tìm hiểu chung

1/Tác giả

Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi là Nguyễn Tường Lân). Nhà văn, nổi tiếng về truyện ngắn. Viết xúc động về người nghèo, những em bé nhà nghèo. Văn nhẹ nhàng, tinh tế với tấm lòng xót thương, nhân hậu. Chất thơ man mác trong văn xuôi.

Tác phẩm - Các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1977), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Tập tuỳ bút Hà Nội 36 phố phường…

2/Xuất xứ, chủ đề

- Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” rút trong tập “Nắng trong vườn” (1938)

- Tác phẩm nói lên lòng xót thương đối với những kỷ niệm và ước mơ bình dị, cảm động của những em bé nơi phố huyện nghèo ngày xưa.

II/Phân tích

1. Phố huyện nghèo và những người nghèo

- Phố huyện là một thị trấn nhỏ và nghèo. Xung quanh là cánh đồng và xóm làng. Gần bờ sông. Có đường sắt chạy qua, có một ga tàu. Chiều hè tiếng ếch nhái râm ran. Đên xuống, phố vắng, tối im lìm. Rất ít đèn.

- Chợ chiều vãn. Chỉ có vài đứa bé lang thang đi lại nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre… bóng chập chờn.

- Chị Tí mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước dưới gốc bàng; dọn hàng từ chập tối cho đến đêm “chả kiếm được bao nhiêu?”. Thằng cu bé con chị Tí - xách điếu đóm và khiêng 2 cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra trông thật tội nghiệp.

- Bà cụ Thi hơi điên, cười khanh khách, ngửa cổ ra đàng sau, uống một hơi cạn sạch cút rượu, lảo đảo lần vào bóng tối.

- Vợ chồng bác xẩm “tiếng đàn bầu bần bật”, thằng con bò ra đất…

- Bác phở Siêu gánh hành đi trong đêm, tiếng đòn gánh kĩu kịt, bóng bác mênh mang,… Phở của bác là món quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được.

- Phố tối, đường ra sông tối, cái ngõ vào làng lại sẫm đen hơn. Một vài ngọn đèn leo lét… Ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát, ngọn đèn của Liên từng hột sáng lọt qua phên nứa…

Tóm lại, phố nghèo, yên tĩnh và đầy bóng tối. Con người phố huyện âm thầm, lạnh lẽo. “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ? Cách viết nhẹ nhàng, đầy xót thương, thấm một nỗi buồn thấm thía. Đó là tình cảm nhân đạo của Thạch Lam.

2. Chị em Liên:

- Gia cảnh sa sút nghèo. Cha mất việc. Cả nhà bỏ Hà Nội về quê. Mẹ làng hàng sáo. Chị em Liên được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, phên nứa dán giấy nhật trình.

- An ngây thơ. Liên cảm thấy cô đã lớn, đảm đang, kiêu hãnh vì cái dây xà tích bạc ở thắt lưng “vì nó tỏ ra chỉ là người con gái lớn và đảm đang”.

- Gian hàng tối âm thầm, đầy muỗi. Đêm nào hai chị em Liên và An cũng ngồi dưới gốc bàng, trên cái chõng tre để đợi chuyến tàu đêm. Để bán hàng theo lời mẹ dặn. Còn là một niềm vui nhỏ nhoi.

- An trước lúc ngủ còn dặn chị đánh thức khi tàu đến. Đợi tàu là đợi ánh sáng. Con tàu từ Hà Nội về mang theo. Con tàu gợi nhớ kỷ niệm tuổi thơ: ngày bố còn đi làm, mẹ nhiều tiền được hưởng những thức quà ngon lạ, được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.

- Đợi tàu là đợi những mơ tưởng. Với Liên, trong ký ức và hiện tại “Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Thế giới ấy khác hẳn đối với cuộc đời của Liên, của dân nghèo phố huyện, khắc hẳn vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.

- Giấc ngủ của Liên, lúc đầu mờ dần đi “giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết…” về sau “mặt chị nặng dần”, chìm dần vào “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh,… tĩnh mịch và đầy bóng tối”.

Tóm lại, ngòi bút của Thạch Lam tả ít mà gợi nhiều, nhỏ nhẹ, làm xúc động người đọc trước những số phận, những cảnh đời vui ít buồn nhiều, âm thầm, lặng lẽ và đầy bóng tối. Có mơ ước nhỏ nhoi, bình dị trước một cái gì vừa thuộc về quá vãng, vừa hướng tới tương lai.

III/Kết luận

Truyện “Hai đứa trẻ” vừa hiện thực vừa mang màu sắc lãng mạn. Cảnh đợi tàu thật xúc động. Một ngồi bút tinh tế tạo ra những trang văn xuôi nhẹ nhàng đầy chất thơ. Một trái tim đầy tình người. Văn Thạch Lam cho ta nhiều nhã thú, đúng như nhà văn Nguyễn Tuân đã nói.








§
Tác giả Nguyễn Đình Chiểu


I. GIỚI THIỆU VỀ CUỘC ÐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

1.Cuộc đời:

Nguyễn Ðình Chiểu là người mở đầu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XIX, tên tuổi ông là tượng trưng cho lòng yêu nước của nhân dân miền Nam, và thơ văn ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta.(*)

Nguyễn Ðình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương phủ Tân Bình, Gia Ðịnh và mất ngày 3-7-1888 tại Ba Tri, Bến Tre.

Cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu sớm trải qua những chuỗi ngày gia biến và quốc biến hải hùng đã tác động đến nhận thức của ông.

Ngay từ nhỏ, Nguyễn Ðình Chiểu đã theo cha chạy giặc. Từ một cậu ấm con quan, bỗng chốc trở thành một đứa trẻ thường dân sống trong cảnh chạy loạn, trả thù, chém giết. Lớn lên, bị bệnh mù mắt, bị gia đình giàu có bội ước, công danh dang dở. Mặc dù cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu gặp nhiều bất hạnh nhưng lúc nào ông cũng gắn bó với nhân dân. Tuy sống trong cảnh mù lòa nhưng Nguyễn Ðình Chiểu đã tiến thân thành danh bằng con đường hành đạo của mình. Ông đã mở lớp dạy học, viết văn và hốt thuốc chữa bệnh cho dân. Lúc nào ông cũng quan tâm lo lắng cho chiến sự. Ở đâu ông cũng làm cùng một lúc ba nhiệm vụ của ba người tri thức để cứu dân, giúp đời.

Nguyễn Ðình Chiểu có nhiều nghị lực và phẩm chất, phải có nghị lực phi thường và khí phách cứng cỏi thì Nguyễn Ðình Chiểu mới vượt qua những bất hạnh của cá nhân và thời cuộc để đứng vững trước cơn binh lửa hãi hùng của lịch sử mà không sờn lòng, nản chí. Nguyễn Ðình Chiểu là hiện thân của nhiều phẩm chất cao đẹp làm người. Trong ứng xử cà nhân, Ðồ Chiểu là tấm gương sáng về đạo hiếu nghĩa nhân từ. Tất cả cô đúc lại thành khí tiết của nhà nho yêu nước Việt Nam tiêu biểu cho giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

2.Sự nghiệp văn chương:

2.1.Quá trình sáng tác:

Văn chương chưa phải là toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Ðùnh Chiểu. Sự nghiệp của ông còn lớn hơn nhiều. Ông không chỉ là nhà văn mà còn là nhà giáo, người thầy thuốc và là một nhà tư tưởng. Nhưng văn chương của ông đồ sộ đủ đứng thành sự nghiệp riêng.

Nguyễn Ðình Chiểu bắt đầu viết văn sau khi mù, hầu hết các tác phẩm đều viết bằng chữ Nôm. Căn cứ vào nội dung có thể chia ra thành hai thời kỳ sáng tác:

-Trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ: Tác phẩm Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu tay, có tính chất tự truyện.

- Pháp xâm lược Nam Kỳ :

+ Tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu có ý kiến cho rằng tác phẩm được viết trước khi Pháp xâm lược cũng có ý kiến ngược lại, mục đích của tác giả là dạy đạo Khổng cho học trò và sau này được sửa lại cho phù hợp với tình hình.

+ Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp chủ yếu nói về các phương thuốc và nghề làm thuốc nhưng tràn đầy tinh thần yêu nước.

+ Các bài thơ Ðường luật, các bài hịch, văn tế… tiêu biểu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc(1861), Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Ðịnh(1864), Mười bài thơ điếu Phan Tòng(1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh(1874), Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch đánh chuột chưa xác định thời điểm sáng tác.

Với những tác phẩm nổi tiếng của mình, Nguyễn Ðình Chiểu trở thành người có uy tín lớn. Bọn thực dân nhiều lần tìm cách mua chuộc ông nhưng ông vẫn một mực từ chối các ân tứ. (Có nhiều giai đoạn về thái độ bất hợp tác của Nguyễn Ðình Chiểu với kẻ thù).

Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ mù Nam Bộ là một bài học lớn về lòng yêu nước, về việc sử dụng ngòi bút như một vũ khí đấu tranh sắc bén. Tấm gương Nguyễn Ðình Chiểu theo thời gian vẫn không mờ đi chút nào.

2.2.Quan điểm văn chương:

Nguyễn Ðình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm văn dĩ tải đạo của ông khác với quan niệm của nhà nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà nho quan niệm Ðạo là đạo của trời, còn Ðồ Chiểu cũng nghĩ đến nhưng có khác:

Ðạo trời nào phải ở đâu xa


Gẫm ở lòng người mới thấy ra

Trên nguyên tắc đạo trời được đề cao nhưng trong thực tế đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Ðó là quan niệm bao trùm văn chương Ðồ Chiểu.

Quan điểm văn chương Ðồ Chiểu tuy không được tuyên ngôn nhưng đây là quan điểm tiến bộ và gần gũi với văn chương dân tộc: Văn chương chiến đấu, vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái.

II. NỘI DUNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU

1.Tác phẩm Luc Vân Tiên:

1.1.Tóm tắt cốt truyện:

Ðây là câu truyện thơ lục bát dài 2082 câu. Cốt truyện được tóm tắt như sau:

-Lục Vân tiên gặp Kiều Nguyệt Nga (Câu 1-186)

-Lục Vân Tiên bị tai nạn dồn dập và được cứu giúp (Câu 187-1264)

-Kiều Nguyệt Nga bị cống Phiên (Câu 1265-1664)

-Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga nên nghĩa vợ chồng (câu 1665-2082)

1.2. Lục Vân Tiên thể hiện Ðạo làm người trong cuộc đời thường:

a. Ðạo đức nhân nghĩa trong tác phẩm Lục Vân Tiên.

Khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Ðình Chiểu bắt nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa của nho giáo và trong thâm tâm, ông từng khẳng định và ca ngợi đạo nho Theo đường nhân nghĩa chi bằng đạo nho.

Viết tác phẩm Lục Vân Tiên, tác giả có nêu lên những tấm gương về luân lý, đạo đức kiểu Nhị thập tứ hiếu nhằm mục đích giáo huấn, cải tạo xã hội:

Trai thời trung hiếu làm đầu


Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.

Quan niệm này xuất hiện rải rác trong toàn bộ tác phẩm thông qua hành động và tính cách các nhân vật (Vân Tiên, Nguyệt Nga, Tiểu Ðồng…) dễ làm ta nghĩ đến những quan niệm phong kiến Nam nữ thụ thụ bất thân, về lòng trung thành, về chữ trung, chữ tiết phong kiến.

Nhưng trong khi thực hiện đạo đức nhân nghĩa, Nguyễn Ðình Chiểu đã nhào nặn lại tư tưởng của đạo nho, đã tiếp thu một cách sáng tạo phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Trong tác phẩm có đặt ra vấn đề trung, hiếu, tiết, nghĩa nhưng không còn theo lý thuyết nho giáo gò bó, áp đặt, cứng nhắc, cực đoan theo kiểu phong kiến mà được khúc xạ đến mức khó nhận ra.

b. Các nhân vật không thấy mình bị gò bó bởi một nguyên lý đạo đức nào.

Vân Tiên nghe theo lệnh vua đi chống giặc Ô Qua là để cứu dân. Ðó là hành động trung quân hay ái quốc cũng được. Tư tưởng trung quân của Nguyễn Ðình Chiểu là trung quân có điều kiện, trung với lẽ phải, trung với nước. Nhưng đối với những ông vua xấu, vua ác thì ông phê phán:

Quán rằng: ghét việc tầm phào


Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm.
Ðể dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời Thúc quý phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng hại dân…

c. Hành động tự trầm của Nguyệt Nga cũng là thái độ phản kháng đối với chữ trung.

Nghĩa tình nặng cả hai bên.
Lấy mình báo chúa, lấy lòng sự phu.

Nguyễn Ðình Chiểu là một nhà nho sống dưới thời nhà Nguyễn là thời kỳ nho giáo được đề cao. Nhưng có được một quan niệm đạo đức như thế rõ ràng là tiến bộ. Như vậy, tuy tác phẩm có đề cao trung , hiếu tiết, hạnh nhưng không phải hoàn toàn thuộc quan niệm phong kiến mà có nhiều yếu tố nhân dân.

Ðứng trên lập trường nhân dân, ông ca ngợi những người hành động vì nhân nghĩa và họ xem đó là một nhu cầu mà không hề nghĩ đến lợi danh, không cần báo đáp.

- Ðó là những người rất hào hiệp, nghĩa khí Giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha Vân Tiên Tả xung hữu đột đánh cướp cứu Nguyệt Nga, Hớn Minh bẻ giò con quan tri huyện để cứu người bị ức hiếp thế cô.

- Họ còn là những người tốt, giàu lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người khác không nghĩ đến thân, quên mình vì nghĩa. Ông Ngư hết lòng chăm sóc cho Vân Tiên trong lúc hoạn nạn:

Hối con vầy lửa một giờ


Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Ngư rằng: lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu nhân nghĩa chi sờn lòng đây.

Tất cả việc làm vì nghĩa của các nhân vật chính diện trong tác phẩm Lục Vân Tiên đều thể hiện được một quan điểm nhất quán của Ðồ Chiểu về cuộc sống, cũng như về đạo đức.

Ðể khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, một mặt, ông ca ngợi cái chính nghĩa mặt khác ông phê phán cái phi nghĩa. Các nhân vật trong tác phẩm được sắp xếp thành hai tuyến nhân vật rất rõ. Một bên là những con người chính nghĩa và bên kia là những kẻ bất nhân bất nghĩa như gia đình họ Võ ăn ở hai lòng, như Trịnh Hâm tính tình đố kỵ nhỏ nhen; như Bùi Kiệm dâm ô, dốt nát và hàng loạt những tên lang băm, phù phép, bối toán nhiễu đời, hại dân cùng với những tên sâu dân mọt nước như tên Vua Sở, tên Thái Sư trong truyện. Tất cả những nhân vật phản diện này đều tiêu biểu cho cái xấu, cái ác nên cuối cùng đều bị trừng trị thích đáng.

Cách xử lý của tác giả rất gần với quan niệm của nhân dân Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Ðó cũng chính là đạo lý, là ước mơ của nhân dân.

2.Lục Vân Tiên thể hiện bản chất đạo lý nhân dân:

Vấn đề đạo lý còn được thể hiện qua các quan hệ khác trong tác phẩm: Cha con, chồng vợ, thầy trò, bạn bè… Nguyễn Ðình Chiểu đã đặt ra những tình huống xử thế trong các mối quan hệ đời thường, gia đình và xã hội. Nó rất gần gũi và cần thiết với cuộc sống hàng ngày và bao trùm hơn cả là mối quan hệ giữa con người với con người.

Mối tình Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga được vun đắp từ vấn đề ân nghĩa. Khi nghe tin Vân Tiên mất, nàng kiên quyết thủ tiết thờ chồng. Nỗi đau buồn của nàng khi được lệnh cống Ô qua: Trong dạ như bào, canh chày chẳng ngủ, những thao thức hoài… và lấy cái chết để giữ tình phu phụ. Vân Tiên cảm phục tấm lòng sắt son chung thủy của người yêu nên đã không ngần ngại Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn. Vân Tiên đã làm một việc mà đạo đức phong kiến không cho phép. Cũng giống như Nguyệt Nga, nàng đã vượt qua lễ giáo phong kiến tự ý đính ước với Vân Tiên.

Các nhân vật chính diện trong tác phẩm sống rất hồn nhiên, cởi mở. Họ sống có tình, có nghĩa, giản dị, chân chất. Tình thầy trò giữa Tôn Sư và Vân Tiên, tình cảm bạn bè giữa Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh; Tình nghĩa chủ tớ giữa Vân Tiên với Tiểu Ðồng; giữa Nguyệt Nga và Kim Liên được miêu tả giống với cuộc sống và quan niệm của nhân dân. Ðoạn Vân Tiên bày tiệc tế Tiểu Ðồng rất cảm động, nhưng Tiểu Ðồng còn sống, gặp lại nhau tớ thầy vui mừng không xiết:

Trạng nguyên khi ấy mừng vui
Tớ thầy sum hiệp tại nơi Ðại đề
Ðoạn thôi xe trở ra về…

Vân Tiên cùng các bạn là Hớn Minh, Tử Trực vẫn thân thiết như ngày trước:

Hai người gặp lại hai người
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.

Bản chất nhân dân còn thể hiện qua đặc điểm tính cách của nhân vật. Quan điểm thương ghét của Ông Quán rất rõ ràng, dứt khoát tiêu biểu cho tính cách của người dân Nam bộ, quan điểm này cũng xuất phát từ tấm lòng thương yêu trìu mến Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương. Hớn Minh là người nghĩa khí, hành động bẻ giò con quan tri huyện ỷ thế giàu sang làm càng là tiêu biểu cho hào khí của người dân lục tỉnh. Cũng như Tử Trực được miêu tả là một người trực tính, không màng danh lợi, sống có tình có nghĩa, rất mực yêu quý bạn, nghe tin Vân Tiên mất chàng than khóc:

Nghe qua Tử Trực chạnh lòng
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.

Nhưng tiêu biểu nhất là nhân vật Lục Vân Tiên, chàng là mẫu ngưỡi lý tưởng nên hội đủ các điều kiện mà nhân dân mơ ước: trọng nghĩa khinh tài, phò đời giúp nước, đối nhân xử thế đều theo quan điểm nhân dân.


1.3.Lục Vân Tiên từ dáng dấp một tự truyện, một giấc mơ đến lý tưởng xã hội:

a.Từ dáng dấp một tự truyện, một giấc mơ:

Lục Vân Tiên là một câu chuyện mang tính chất tự truyện. Tính chất tự truyện thể hiện qua những chi tiết có tính chất bề nổi và bề sâu của tác phẩm. Chính nội dung tự thuật này đã bao quát toàn bộ cốt truyện và thể hiện suốt chiều dài tác phẩm.

Lục Vân Tiên thể hiện giấc mơ Ðồ Chiểu. Người thanh niên bị phụ tình đã ước mơ một mối tình chung thủy. Chàng ước mơ những cử chỉ anh hùng, mơ ước trả nợ nước non và tâm sự ấy chàng đã gửi vào Tử Trực, vào Hớn Minh, nhất là vào Vân Tiên. Vân Tiên cũng bị mù nhưng sẽ có thuốc tiên chữa cho sáng mắt ra. Vân Tiên sẽ thực hiện cái chí bình sanh của Nguyễn Ðình Chiểu(*)

Ngoài giấc mơ riêng tư còn là giấc mơ chung về cuộc đời rộng lớn mà tự nó đã thể hiện ý nghĩa xã hội sâu sắc.

2.Ðến một lý tưởng xã hội:

-Lục Vân Tiên là cả một xã hội, tất nhiên là xã hội phong kiến với đầy đủ các hạng người: Vua quan, thứ dân, đứa ở, kẻ sĩ… Một xã hội với đầy đủ những người tốt, kẻ xấu. Nguyễn Ðình Chiểu đã dựng ra cả một cuộc đời để gửi gấm lý tưởng xã hội của mình.

-Nhà thơ đã xây dựng những mẫu người lý tưởng, qua những nhân vật lý tưởng, ông muốn xây dựng một xã hội lý tưởng. Ở đó, cái tốt đẹp được coi trọng và ngưỡng mộ, người tài đức được trọng dụng, các oan khuất được giải minh. Tóm lại, đó là xứ sở của điều thiện, lẽ sống công bằng và lòng nhân ái.

-Bên cạnh đó, nhà thơ phê phán những bất nhân, bất nghĩa. Qua diễn tiến và kết cục của số phận nhân vật phản diện trong tác phẩm, Nguyễn Ðình Chiểu muốn nói lên rằng muốn xây dựng một xã hội lý tưởng phải tiêu diệt những hạng người xấu xa, độc ác.

Cách xử lý này tuy có phần ảo tưởng và thỏa hiệp nhưng có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó thể hiện sự cao thượng và càng làm cho tính cách của nhân vật chính diện càng lý tưởng hơn, thể hiện được tư tưởng lạc quan của nhân dân: Cái ác, cái xấu dẫu được người tha, thì vẫn là Trời không dung, đất không tha.

-Tác phẩm có xây dựng các yếu tố thần kỳ: Giao long, phật bà, du thần, hai đạo bùa… Các yếu tố thần kỳ này đã được sự tiếp tay, tiếp sức cho chính nghĩa, thể hiện khát khao công lý và nhân ái của nhân dân.

1.4.Vài đặc điểm về nghệ thuật:

a. Kết cấu:

Kết cấu không khác mấy so với truyện thơ Nôm giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, là vẫn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau nhưng trong Lục Vân Tiên sự đối lập được thể hiện trong từng cặp nhân vật một: Hớn Minh >< Trịnh Hâm; Tử Trực >< Bùi Kiệm; Kiều Nguyệt Nga >< Võ Thể Loan> xây dựng kiểu kết cấu này giúp tác giả trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình.

b. Sự chuyển ý:

Lục Vân Tiên là một tác phẩm được sáng tác để kể hơn là để xem nên cách chuyển ý rất đơn giản và thoải mái. Từng chương, mục trong tác phẩm không đòi hỏi sự liền mạch và nhất quán vì ở mỗi chương, mục là một nội dung, là một câu chuyện riêng. Ta vẫn có có thể đọc từng hồi, từng thứ, từng đoạn nhưng vẫn hiểu mục đích và nội dung của tác phẩm. Chẳng hạn như đoạn thương ghét của ông Quán, sự triết lý của ông Quán, ông Ngư, ông Tiều về sự đời, hay những đoạn chế giễu sự khoác lác, bịp bợm của bọn lang băm, thầy bói, thầy pháp… đều gây ấn tượng mạnh mẽ:

Pháp rằng: án đã cao tay


Lại thêm phù chú xưa nay ai bì
Qua sông cá thấy xếp vi
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lại thưa

Cuối cùng cũng lộ rõ mục đích thực dụng của chúng:

Có ba lạng bạc trao sang


Thì Thầy sắm sửa lập đàn chạy cho.

c. Ngôn ngữ:

Tác phẩm này được sáng tác trong hoàn cảnh mù lòa nên nhiều chỗ còn thô vụng. Tuy nhiên ngôn ngữ trong Lục Vân Tiên phục vụ đắc lực cho việc kể. Phần nhiều là những lời thơ nôm na, mộc mạc, chất phác, dễ nhớ, dễ truyền miệng trong dân gian.

d. Sử dụng thành ngữ, ca dao:

Thành ngữ, ca dao đã tham gia hình thành Lục Vân Tiên khá độc đáo. Thí dụ như đoạn đối đáp của ông quán với Trịnh Hâm…

e. Ðiển cố:

Ðiển cố được lấy từ tích các truyện Tàu, là những điển tích quen thuộc với nhân dân. Ví dụ như đoạn Tử Trực mắng cha con Võ Thể Loan; đoạn thương ghét của ông Quán…

f.Xây dựng tính cách nhân vật:

Trong tác phẩm Lục Vân Tiên có đoạn nhà thơ đặt chân vào hoàn cảnh có kịch tính, có nhiều chỗ nhân vật cần bộc lộ tâm trạng nhưng nhà thơ chưa thể hiện hết tâm trạng đó. Vì vậy, tâm lý nhân vật còn nhiều khô khan, gò bó, gượng gạo. Ðoạn Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga, đoạn sum họp.

Lục Vân Tiên là tác phẩm cuối cùng kết thúc một giai đoạn văn học. Tác phẩm đã kế thừa nhiều mặt truyền thống củ văn học nhân gian, của truyện thơ Nôm bình dân, đã thể hiện trữ tình đạo đức và tính nhân dân sâu sắc.


Hình ảnh nông dân trong Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc


I. Mở bài:

Thế kỷ XIX là thời ký lịch sử “đau thương nhưng vĩ đại” của dân tộc ta . Ở Thế kỷ ấy , có một nhà thơ mù nhưng tròng lòng sáng như gương ,người đã thấy kết những gì mà bao nhiêu người mắt sáng không nhận ra .Người đó là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu .Và, trong văn họ Việt Nam ,cho đến Nguyễn Đình Chiểu ,chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ tử trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông.

II. Thân bài:

Nói đúng ra ,trước Nguyễn Đình Chiểu ,con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam .Tuy nhiên , đó hoặc là những ngư phủ ,tiều phu hình bóng thấp thoáng ,khi xa khi gần trong thơ bà Huyện Thanh Quan ,hoặc là đám đông lố nhố ,hằng ngày là cục đất củ khoai ,khi có dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.

Ngưòi nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn .Họl thật sự là những người bình thường ,là “dân áp , dân lân” , “ngoài cật có một manh áo vải” .Bản tính lại hiền lành ,chất phác ,quanh năm duốt tháng “côi cút làm ăn ,toan lo nghèo khó” .Bên trong luỹ tre làng, họ “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”,thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc cầy ,việc bừa ,việc cấy , tay vốn làm quen.Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này ,họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ ,nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ / họ để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ. Đó chính là tấm lòng yêu nước ,trương nghĩa của người nông dân .

Khi nghe tin quân giặc đến ,dù là dân thường nhưng những người nông dân lòng đầy sốt ruột .Trong xã hội xưa ,những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan .Dân nghe theo quan mà làm dân .Dân nhìn thấy quan mà theo >Vì thế ,họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa .Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ:

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp ,muốn tới ăn gan;ngày xem ống khói chạy đen sì,muốn ra cắn cổ.

Lòng yêu nước không độc quyền của ai .Huống chi ,với những người nông dân chân chất ,khi “mùi tinh chiến vấy vá đã ba năm” thì họ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” .vì thế ,dù là dân ấp ,dân lân ,trong tay chỉ còn một tầm vông ,họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả:

Hoả mai đánh bằng rơm con cúi , cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay,cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc nhằn quan quản gióng trống kỳ ,trống giục , đạp rào lướt tới ,coi giặc như không;nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ , đạn to ,xô cửa xông vào ,liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang ,người chém ngựơc ,làm cho mã tà ,ma ní hồn kinh;bọn hè trước ,lũ ó sau ,trối kệ tàu thiếc ,tàu đồng đung nổ.

Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức .Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tựgiác đúng lên ,không có ai tổ chức ( ai đòi ,ai bắt ) ,chẳng có binh thư ,binh pháp .còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản ,có quy mô , quy củ.Họ thất thế khi xing trận mà ngoài cật có một manh áo vải ,trong tay cầm ngon tầm vông ,còn kẻ thù lại có tàu sắt tàu đồng , đạn nhỏ , đạn to.Song chí căm thù ,lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc,tàu đồng súng nổ ,liều mình như chẳng có ai.Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó:

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh ,nào hay da ngựa bọc thây;trăm năm âm phủ ấy chữ quy,nào đợi gươm hùm trao mộ.

Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” ( Phạm Văn Đồng ) .Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng.Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng:Thác mà trả nước non rồi nợ ,danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ ,tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

III. Kết bài:

Sự gắn bó ,lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng ngưòi nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng .Hình tượng ấy sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo”và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai – Gia Định .Những người anh hùng “sống đánh giặc , thác cũng đánh giặc”.Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong ký ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.



tải về 0.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương