¤n V¡N 11-P1: Nh÷ng bµi v¨n chän läc



tải về 0.61 Mb.
trang5/11
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích0.61 Mb.
#12788
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối. Lo lắng. Chợt tỉnh “mùa chưa ngả chiều hôm”, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

“Chẳng bao giờ/ôi/chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi/mùa chưa ngả chiều hôm”.
Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm “thơ tiếc cảnh”:

- “Xuân xanh chưa dễ hai phen lại


Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”
(Bài số 3)

- “Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm”


(Bài số 7)

Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong “Vội vàng” về màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ. Thật yêu đời. Thật ham sống.

3. Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

- Mở đầu bài thơ là cái Tôi hăm hở: “Tôi muốn tắt nắng đi”. Kết thúc bài thơ là “TA”, là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong dòng chảy thời gian: Sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: “Ta muốn ôm”, “Ta muốn riết… Ta muốn say… Ta muốn thâu…”.

“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cách bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng”

Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật “vắt dòng” với ba từ “và” xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc: say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơ, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng… đều là khao khát của thi nhân:

“Cho chếnh choáng mùi thơ, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

III.Tổng kết

Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỷ trong hưởng thụ. “Vội vàng” thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỷ sau còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống “vội vàng” như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.

Bài thơ “Vội vàng” cho thấy một cảm quan nghệ thuật “rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. “Vội vàng” tiêu biểu nhất cho Thơ mới, thơ lãng mạn 1932-1941.

( Sưu tầm)


Gia thế ông Vũ Trọng Phụng


Ngô Tất Tố

Hình như riêng ở phương Đông, cái nghèo cũng là cái trường đúc nên văn sĩ.

Đào Tiềm, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, mấy tay văn thơ có tiếng ở Tầu ngày xưa đều ở “trường nghèo” mà ra. Nghèo nhất thì là Đỗ Phủ, Đào Tiềm... Đào đã có lúc phải đi ăn xin, Đỗ đã bị một đứa con trai chết đói.

Ở ta cũng vậy. Trong hồi gần đây, ông Trần Tế Xương, “một tuồng rách rưới con như bố”, ông Nghiêm Phúc Đồng “chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi”. Ông Nguyễn Khắc Hiếu tuy có xã hội giúp đỡ, trước khi nhắm mắt, một số đồ đạc cũng bị tịch thu vì thiếu tiền nhà.

Thì ra trong cái non nước Đông Phương, những người giàu có, không ai lọt vào cổng làng văn. Hoặc có, cũng là một số hú họa.

Cái đó không có chi lạ. Giàu thì cơm no, cật ấm, ruột gan lú lấp, người ta còn chứa học vấn, tư tưởng vào đâu?

Vậy là riêng ở phương Đông đã có đạo nhất định: Phú quý thì không thể làm nhà văn. Đã làm nhà văn thì đừng mong gì phú quý. Đạo luật đó cũng giống câu Dương Hóa nói trong Mạnh Tử: “Vi phú bất nhân, vị nhân bất phú”.

Thế cũng phải. Cái người đã có tư tưởng học vấn để làm thỏa mãn tinh thần của mình, nếu lại giàu về tiền tài, chẳng là chiếm hết hạnh phúc của nhân loại! Trong đạo thừa trừ của tạo vật, không thể có sự bất công như thế.

Bởi vì chắc có luật ấy nên tôi không hề phàn nàn điều gì về thân thế ông Vũ Trọng Phụng.

Trong các nhân vật làng văn hiện thời, ông Phụng là người nghèo lắm. Khắc hẳn những ông Trần Tế Xương và Nghiêm Phúc Đồng, cái nghèo của ông Phụng lại là thể “nghèo gia truyền”, không phải “nghèo lỏi”.

Nhưng người hiếu danh thường hay giấu giếm, gia thế, nếu như tiền nhân nhà họ không có người nào hiển đạt. Ông Phụng không có óc ấy, chính ông kể cho tôi biết tổ phụ ông chỉ làm lý trưởng, thân phụ ông chỉ là một người thường dân và đã tạ thế từ khi ông mới bảy tháng, tổ phụ ông mới ngoài sáu mươi. Ở nơi quê quán, ông không có lấy một tấc đất cắm dùi và đã lâu nay, vì khi ông bước chân tới.

“Tư tưởng xã hội của tôi nó đã kết lại từ trong mạch máu”.

Có lần ông nói với tôi như thế.

Người khác nghe những chuyện đó, có lẽ sẽ cho là ông xấu số. Nhưng tôi, tôi nhận thấy chính là cái may của ông.

Thật vậy.

Nếu được sinh trưởng vào nhà phú quý, hay được học hành thi đỗ, có một việc làm cao lương, thì ông cũng đến làm một cậu ấm phá của, hay một ông chủ xe hơi nhà lầu, xã hội ai còn biết ông là ai, tôi đâu có bạn với ông?

Nhờ về trong máu sẵn có tư tưởng xã hội, ông mới nên một nhà văn xã hội, để sản xuất cho người đời một số tác phẩm đáng khóc và đáng cười. Thế là cái nghèo gia truyền của ông có thể kể là một hòn đá tảng trong nền văn học sử của nước nhà vậy.

Tôi biết ông mới từ hồi làm báo Công dân, cách đây độ bốn, năm năm chi đó. Hồi ấy có lẽ là hồi quẫn bách nhất trong đời ông, vì rằng, ngoài báo Công dân ông không có chỗ làm nào khác, mà báo Công dân thì lại chỉ là cơ quan của một bọn anh em nhà văn nghèo dúm rau, dúm bếp làm với nhau, ít khi trả tiền in rồi, trong két được có tiền thừa mà trả cho người cầm bút.

Thế nhưng, ông cũng không tỏ ra mình cần tiền. Mỗi khi ở Gia Lâm sang nhà báo, ông cứ cặm cụi cuốc bộ đi, lại cuốc bộ về, hôm nào mỏi lắm mới lấy năm xu đi xe.

Một điều quan trọng hơn nữa là đời ông luôn luôn thấy sự túng thiếu, nhưng không lúc nào ông tự đem sự túng thiếu của mình mà làm phiền lụy người nào, dù khi túng thiếu cực điểm cũng vậy.

Từ bữa nghe ông tạ thế, chẳng riêng gì các bè bạn, phần nhiều độc giả các sách của ông đều lấy làm thương tiếc. Ngoài sự ái ngại cho cái gia đình thảm đạm của ông, người ta còn ái ngại cho cái số mệnh ngắn ngủi của ông là khác.

Đành rằng vậy. Trong một thế giới lắm người bảy tám, chín mươi, mà ông chỉ được có hai mươi tám tuổi, kể cũng thiệt thòi nhiều lắm.

Tuy vậy, vị tất ông đã chết non.

Đối với vũ trụ vô cùng vô tận, hai mươi tám tuổi với tám chín mươi tuổi không thể kể là ít với nhiều. Vì vậy, Trang Tử mới bảo Bành Tổ là yểu mà đứa trẻ con chết đẹn là thọ.

Thọ hay yểu, không quan hệ với với cái sống nhiều sống ít, nó quan hệ ở chỗ có gì để cho đời sau hay không. Xã hội chỉ thiếu những người làm nên công nghiệp, không thiếu những ông ăn nước thịt ép và bú sữa người. Ngoảnh lại mà xem, những ông bú sữa người và ăn nước thịt ép ngày xưa, đến nay còn có gì là di tích?

Ông Phụng tuy chết, mười mấy tác phẩm của ông vẫn còn sống với mai sau. Thế cũng là thọ.

Nhớ ông, thương ông, tôi cũng như các bạn của ông, nhưng không kể ông là người không thọ. Cái mà tôi lấy làm ân hận chỉ có một câu trả lời khi ông nằm trên giường bệnh.

Ông đau từ mấy năm trước. Trước khi chết độ sáu, bảy tháng, đã có một đêm nguy kịch. Sáng sớm hôm sau, ông cho gọi tôi lên nhà thăm bệnh và nói cho tôi biết rằng: Chiều hôm trước một viên bác sĩ chữa bệnh cho ông đã khuyên ông đi nhà thương. Trong đêm vừa rồi, ông đã làm sẵn mấy bản chúc thư. Ông bị đau phổi, vẫn sốt hâm hấp, ho ra đờm đặc. Từ mấy bữa trước, không thể gượng ngồi dậy được mà chỉ nằm được một bên sườn. Ho cũng đau, nói cũng đau, hễ hơi trở mình thì trong sườn nghe có tiếng nước óc ách.

Bấy giờ người ông tuy đã tiêu nước, nhưng, mạch hai tay vẫn còn có lực. Sau khi coi mạch và hỏi các chứng, tôi kê cho ông bài “nhị trần thang” hợp bài “nung thang” gia một lạng ý dĩ và dặn ông uống một ngày hai thang.

Sáng mai, tôi lại lên thăm, ông khoe với tôi bệnh đã bớt nhiều, có lẽ không chết. Từ đó ông cứ uống mãi đơn ấy, tuy thỉnh thoảng cũng thay đổi ít nhiều, những đại thể vẫn không ngoài hai phương thuốc trước.


Một tháng sau, ông dậy được, đã đến thăm tôi ở báo Thời vụ. Đau ngực, đau sườn, tiếng nước óc ách, khỏi cả, chỉ có cái sốt hâm hấp không khỏi và sắc mặt ông vẫn xanh như người hết máu.

Rồi ông nói cho tôi biết trong vài bữa nữa, ông sẽ lên nghỉ Tam Đảo, để tránh cái không khí tù hãm của đất Hà Nội. Lúc ấy tôi có khuyên ông đừng đi, bởi vì ở đó không khí ẩm thấp, không lợi cho người đau phổi. Nhưng ông không nghe.

Lên Tam Đảo được tám ngày, thì ông phải về, vì ho nhiều và hai ống chân bị bại. Bấy giờ ông mới chịu tôi nói đúng và lại bảo tôi kê đơn.
Nghĩ không còn cách gì hơn, tôi lại thêm bớt hai bài thuốc cũ để ông uống xen với bài “nhân sâm dưỡng vinh” bỏ quế và kỳ. Lần này không có công hiệu, uống năm thang thuốc, bệnh tuy không tăng, nhưng cũng không giảm, hai chân vẫn bại không đứng dậy được. Vì muốn trút trách nhiệm cho người khác, tôi cố khuyên ông hãy dùng thuốc tây. Hình như ông cũng nhận thấy ý tôi, nên mới hỏi rằng:

- Bác tưởng tôi có chết không?

Câu hỏi của ông làm cho tôi buồn vô hạn, nhưng tôi vẫn bình tĩnh mà đáp lại rằng:

- Chết làm sao được!

Tôi nói dối ông. Thực ra, bệnh trạng của ông, còn ai dám chắc rằng sống! Tôi đã nhiều lần than với bè bạn rằng ông khó mà qua được đến mùa rét.

Nhưng ông tin tôi, cho nên trong hai tháng trời thôi thuốc ta uống thuốc tây, ông vẫn cho lời tôi nói có lý.

Nghe nói mấy bữa trước ngày lâm chung, ông mong tôi lắm. Không biết mong để làm gì, hay để trách tôi nói dối.

Nếu quả thế, tôi đành phụ ông. Nhưng vì không muốn để ông trước khi từ giã cuộc đời, ngoài cái lo nghèo, lại thêm một cái lo chết. Cho nên tôi phải nói thế. Nói thế vị tất đã là nói dối. Bởi vì một chồng tác phẩm của ông còn kia.

(Theo Tao Đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, 1939)

Tư liệu: Điếu văn Vũ Trọng Phụng




Điếu văn đọc trong lễ tang Vũ Trọng Phụng


Lưu Trọng Lư

Anh Vũ Trọng Phụng,

Cái tin anh chết làm cho chúng tôi vô cùng cảm động, nhưng mà không làm tôi ngạc nhiên chút nào. Vì tôi đã biết trước rằng ngày hôm nay sẽ đến, cái ngày anh sẽ đành đoạn bỏ chúng tôi mà đi. Cái bệnh ác hại ấy đã làm tan hết bao nhiêu hy vọng mà chúng tôi gởi ở anh, trong sự nghiệp của anh, trên thân thể của anh. Không những chúng tôi là một bọn văn hữu thường ngày ở cạnh anh, mà những người khác nữa, những độc giả vô danh, xa xôi ở khắp đất nước, những người đã cảm phục anh đã yêu mến anh - mà những người ấy không phải là ít - họ đã biết tin anh ốm, rồi cái tin sầu thảm hôm nay nữa, thì họ sẽ đau đớn sẽ căm giận biết chừng nào. Mà căm giận ai? Kẻ thù của chúng ta, than ôi, bao giờ cũng là Định Mệnh. Ta là người thế nào nữa, với ta, Định Mệnh cũng chẳng nới tay. Ai cũng biết thế, tôi cũng biết thế, mọi người hôm nay theo sau linh cữu anh cũng đều biết thế cả. Nhưng hồn anh có linh thiêng, anh cũng như chúng tôi, sẽ ở với chúng tôi trong một ngậm ngùi vô hạn.

Tôi có nên thú với anh là khi tôi được báo Tao Đàn và Tiểu thuyết thứ bảy cử tôi thảo bài điếu văn này, cử chỉ thứ nhất của tôi là từ chối: tôi sợ rằng sẽ rơi vào cái khách sáo của một bài điếu tang. Mà với anh, lúc sống cũng như lúc chết, chúng tôi có thể nói được một câu khách sáo, tầm thường, một câu không phải tự lòng chân thành mà thốt ra. Nghĩ đi thì như thế, nghĩ lại thì thật không đành.

Anh Phụng ơi! anh không là một ở trong những người ấy, chết đi mà không đáng có một bài điếu văn, một bài điếu văn để tỏ rằng: anh là một nhà văn xứng đáng với sự tôn sùng của tất cả văn hữu. Những người hôm qua đây, còn không ưa anh, còn thù ghét anh nhưng hôm nay họ cũng phải cúi đầu trước mộ anh, một nhà văn mà cái thiên tài không còn nghi ngại được. Nhưng tôi chưa muốn nói vội về cái sự nghiệp văn chương của anh, tôi muốn nói cho anh hiểu: tại sao cái vinh dự được đọc bài thương tiếc anh, tiễn đưa anh lại giành riêng cho tôi. Điều ấy, là tại người cắt cho tôi phần việc ấy nghĩ rằng: chúng ta là những người đã cộng tác với nhau trong lâu năm; tên tôi đã được đứng luôn luôn ở cạnh tên anh, trên những tờ Tiến hóa, Tân thiếu niên, Hà nội báo, Đông dương và gần đây là trên tờ Tao đàn và Tiểu thuyết thứ bảy.

Cái cớ thứ hai là các bạn văn đều biết rằng, anh với tôi là hai thái cực, trong văn chương cũng như trong cuộc đời. Người ta nghĩ rằng: những người trái nhau, phản nhau, bao giờ cũng hiểu nhau hơn. Tôi cũng nghĩ như thế, nên hôm nay mới thảo bài điếu văn này.

Nhưng thưa anh, thưa các ngài, tôi không có ý trình bày ở đây một “nhân phẩm”. Tôi chỉ muốn nhân bài điếu tang này, mà nói một sự thực mà thôi: anh là vào hạng những người dễ bị hiểu lầm. Sự hiểu lầm ấy bắt đầu từ ở trong văn chương.

Tôi nhớ một bận trong một nhà khách thính ở Thanh Hóa, có nhiều người tình cờ nhắc đến tên anh, và họ nói chuyện với nhau về anh. Họ đã hình dung anh như là một người đã có tuổi, lõi đời, nhanh nhẹn, láu lỉnh, sành thạo. Một người mà họ tưởng chừng như khi đến gần thì không thể không lo sợ, không thể không ngờ vực, và không thể không đề phòng.

Nhưng sự thực có phải như thế không, tôi xin hỏi những bạn thân sơ đã ăn một bữa cơm, ngủ một đêm, ngồi một tiệc rượu với tác giả Cạm bẫy người, Giông tố, Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây, Trúng số độc đắc. Tôi chắc ai nấy sẽ trả lời rằng: Người vừa từ giã chúng ta tuy là một nhà văn tài lỗi lạc, mà than ôi! chỉ là một người bình dị, một người cha đứng đắn, một người chồng đứng đắn hơn, một người con rất hiếu, người của khuôn phép, người của nề nếp. Cái đồng hồ luôn luôn ở trong túi áo, và những kim chỉ giờ chỉ phút không bao sai lạc với đồng hồ của những người hàng phố, của tất cả những người khác trong xã hội. Sự cẩn thận, sự chu đáo của Phụng đã thành tục ngữ. Đến nỗi có người đã phải cho Phụng là một viên chức trong nghề báo. “Viên chức” ở chỗ không có một món tiền vặt nào mà không biên vào sổ, “viên chức” ở chỗ không có một đám cưới, đám ma nào mà Phụng bỏ nhãng quên cái sự thù tạc. Con người ấy không giết qua một con muỗi, nhưng kỳ diệu! văn chương người ấy đã làm cho kẻ trọc phú phải giật mình, kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh. Vì đâu có cái nguồn cảm mãnh liệt ấy mà người ta tưởng như không thể tìm được ở anh? Vì đâu cái sức sáng tạo mầu nhiệm ấy, vì đâu cái sức mạnh ấy của tâm hồn? Vì đâu cái đanh thép ấy của giọng văn? Vì đâu? Thưa các ngài, đó chỉ là bí thuật của thiên tài, và đó là sức mạnh của sự tin tưởng. Người nào bảo không tìm được ở Phụng một lòng tin, kẻ ấy đã lầm. Kẻ nào không thấy ở Phụng một sức mạnh, kẻ ấy lầm hơn nữa. Lòng tin không có ở sự tung nổ. Sức mạnh không ở sự ồ ạt, ở sự gào thét. Cái tiếng búa bổ xuống và kêu ầm ầm chắc gì mạnh hơn cái đe, chỉ âm thầm mà chịu. Cái sức mạnh của Vũ Trọng Phụng là cái sức mạnh âm thầm của cái đe vậy. Sức mạnh ấy là một sức phản động lại những cái gì đã bất công đã đồi bại, đã mục nát, cái rởm cái xấu của những ông trưởng giả. Tất cả cái sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng là phơi bày là chế nhạo tất cả những cái rởm, cái xấu, cái bần tiện, cái đồi bại của một hạng người của một thời đại. Vũ Trọng Phụng, đối với thời đại của Vũ Trọng Phụng, cũng giống như Balzac đối với thời đại của Balzac. Hai văn tài tuy có cách biệt nhưng ở đâu người ta cũng thấy một cái giọng chua chát, bực dọc ấy. Hai nhà văn kia không hề đề xướng một cái gì, chỉ có phá hoại mà thôi. Đó là một việc cần thiết trong việc gây dựng lại một nền kiến trúc mới mẻ và đẹp đẽ. Ta chỉ tiếc một điều là những cái mục nát, cái thối tha, cái gàn dở, cái rởm, cái tồi của một thời đại vẫn còn, mà nhà văn của thời đại ấy không còn nữa. Vũ Trọng Phụng đã chết rồi! Đó là một sự thực ác hại cũng như bao nhiêu sự thực đã nói ở trong các cuốn truyện Giông tố, Số đỏ, Trúng số độc đắc, v.v...

Cái chết ấy, đã để lại bao nhiêu sự tiếc thương trong hàng ngàn gia quyến của ông bạn mà tất cả những ai theo đến đây cũng không thể không tự hỏi một câu: “Người ấy mà chết vội thế ư? Đời còn cần người ấy biết chừng nào”.

Không, tương lai anh, không ai lại tin là ngắn ngủi như thế. Anh là người, như ai nấy cũng biết, sống giữa chúng tôi với cái sứ mệnh là tìm cái sự thực ở trong lòng người và trong cuộc đời - anh là một kẻ phóng viên của cuộc đời - lẽ ra, trời phải để anh đi cho cùng đường và chúng tôi còn mong đợi ở anh câu kết luận sau chót về cái sự rất rối ren này là cuộc nhân sinh. Nhưng chữ cuối cùng anh chưa kịp nói mà Trời Phật đã gọi anh về. Anh Phụng ơi! Anh có biết chăng, mất anh, chúng tôi mất đến thế nào!

Anh chưa được một nửa đời người. Văn chương còn mong đợi ở anh nhiều lắm. Với cái chết của anh, chúng tôi đã mất đi hết một nửa cái văn tài. Chúng tôi không phải là những người tham lam: muốn đòi hỏi ở anh nhiều quá. Nhưng thú thật, anh là một “mặt lạ” trong văn chương, thiếu anh, chúng tôi thiếu nhiều lắm. Nhưng như thế, không có nghĩa là chúng tôi muốn đòi hỏi ở anh nhiều quá sức anh. Anh đã thu của cuộc đời được những gì mà bắt anh hiến nhiều thế? Không, tôi biết anh là một nhà văn, chỉ là một nhà văn sống trong sự bần bạc, chết trong sự bần bạc. Và anh đã “cung hiến” nhiều hơn là “thu nhận”. Hôm nay dứt áo ra đi, tâm hồn anh có quyền được an thỏa. Không còn gì giữ vướng anh được: với mẹ, với vợ, với bạn hữu, với văn chương, với báo giới, anh đã làm tròn phận sự không ai còn trách anh được một điều gì. Nhưng có bao giờ ai lại muốn: những hoa tàn ngay trong cái giờ hoa nở. Thế mà số mệnh đã muốn anh đi ngay trong cái văn tài anh cũng vừa “nở” giữa cái hương vị đầu tiên của cuộc đời. Anh là một đóa hoa còn mơn mởn ở trên cành niên thiếu, thế mà giời ôi! Hoa đã rụng rồi!

Anh và tôi và tất cả những người chung quanh huyệt anh đây, không một ai muốn thế. Nhất là anh độ gần đây, anh lại hay tỏ ra rằng: anh rất sợ cái chết. Mỗi khi tôi xuống thăm anh, anh hết sức che đậy những dấu hiệu bất thường...

Văng vẳng tôi còn nghe giọng anh nói:

- Không, hôm nay trở trời, tôi mới ho, chứ hôm qua tôi thường lắm, tôi còn đi ra phố!

- Không, bàn tay tôi hôm nay không lạnh thế đâu. Hôm qua tôi còn ngồi sưởi nắng.

Té ra, tôi chỉ lựa những lúc bạn tôi thật ốm, tôi mới đến. Thực thì, có ngày nào khác ngày nào đâu: bạn tôi vẫn mệt, tay chân lạnh giá, và ho luôn...

Có hôm tôi muốn tỏ rằng mình trấn tĩnh đây, còn xa cái chết, bạn bảo tôi:

- Anh trả tôi những tờ Tiểu thuyết thứ bảy và Ngày nay để đủ cho tôi làm collection. Nhất là anh trả quyển Số đỏ.

Nhưng trời ơi! Tôi có muốn giả nữa, tôi sẽ giả cho ai bây giờ? Vợ con anh sẽ không muốn nhận những cái gì có thể gợi lại những hình ảnh đau khổ, những người thân anh, trong lúc đau khổ này, còn ai muốn đọc văn anh?

Không, sự trấn tĩnh của anh không thể cứu anh, cái chết một ngày một đến gần, cho tới khi cướp anh đi. Tôi biết anh đã sống từng giây từng phút kinh sợ đau đớn, trước sự hiển hiện của tử thần. Nhưng anh đã chết như một kẻ chiến sĩ đã tranh đấu đến phút cuối cùng. Tuy anh ngã, mà tất cả sự vinh quang đã về anh, sẽ về anh.

Anh là một nhà văn. Tên tuổi anh sống mãi trong sự nghiệp anh. Ở chỗ này, Tử thần đã không thể làm gì nữa. Anh đã chuyển “bại” thành “thắng”. Vâng, anh đã “thắng” vì anh sống mãi bởi văn nghiệp của anh. Thôi, xin mời anh đi, và anh nên an thỏa. Ở đây, hay ở kia, anh vẫn là một người có quyền an thỏa.

(Theo Tao Đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, 1939)


thay đổi nội dung bởi: backysinh, 11-13-2009 lúc 08:42 PM.

Tìm hiểu truyện "Chí Phèo"


Tìm hiểu truyện Chí Phèo ( Nam Cao )


I/Tìm hiểu chung


1.Tác giả

Nam Cao (1915 - 1951) là bút danh của Trần Hữu Tri. Quê ở Đại Hoàng, Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Trước 1945, dạy học, viết văn, 1943 gia nhập Hội Văn Hóa Cứu quốc. Tham gia cướp chính quyền ở địa phương, 1946 làm phóng viên mặt trận miền Nam Trung Bộ. Sau đó lên Việt Bắc làm công tác Văn nghệ, 1951 hy sinh tại vùng địch hậu Liên khu III.

Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạnh. Tác phẩm gồm có trên 60 truyện ngắn và 1 tiểu thuyết Sống mòn, Chí Phèo, Lão Hạc, Mua nhà, Đời thừa… là những truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao. Sau Cách mạng Nam Cao viết chưa được nhiều vì ông hy sinh quá sớm: truyện ngắn Đôi mắt, Nhật ký ở rừng, Chuyện Biên giới.

Nam Cao có tài kể chuyện, ngôn ngữ uyển chuyển, gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Giỏi phân tích tâm lý nhân vật. Nhiều trang văn của ông thấm đượm ý vị triết lý trữ tình. Đề tài nông dân nghèo và người trí thức tiểu tư sản được Nam Cao viết rất hay và cảm động.

2.Tác phẩm

-Xuất xứ: Lúc đầu, Nam Cao đặt tên truyện là Cái lò gạch cũ. Nhà xuất bản Đời mời năm 1941, đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946 trong tập Luống cày do Hộ Văn hóa cứu quốc xuất bản, tác giả đổi tên truyện thành Chí Phèo.

-Chủ đề; Truyện Chí Phèo nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo, lương thiện bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi không có lối thoát.

-Tóm tắt truyện:

Ở làng Vũ Đại. Một sáng tinh sương, anh thả ống lươn nhặt được đứa bé mới đẻ xám ngắt đùm trong cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Anh ta rước lấy đem về cho người đàn bà góa mù, bà này bán lại cho bác phó cối. Khi bác phó cối chết, hắn bơ vơ, mãi năm 18 tuổi hắn làm canh điền cho Bá Kiến. Vợ ba Bá Kiến bắt Chí xoa bụng đấm lưng gì đó. Bỗng một hôm Chí Phèo bị người ta giải huyện… Đi tù bảy, tám năm sau hắn trở lại làng, mặt mày trông khác hẳn, gớm chết! Về hôm trước thì chiều hôm hắn xách vỏ chai đến thẳng nhà Bá Kiến gây sự. Xô xát với Lý Cường, hắn đập vỏ chai, rạch mặt kêu trời ăn vạ. Sau cái vụ Năm Thọ, Binh chức, cụ Bá róc đời xử nhũn với Chí Phèo. Cụ mời hắn vào nhà, giết gà đãi rượu, lúc hắn ra về còn đãi một đống bạc uống thuốc.

Bốn hôm sau, Chí Phèo đốt quán bà bán rượu… Hắn mang theo một con dao nhọn đến xin Cụ Bá đi ở tù. Chỉ một câu nói khích, cụ đã sai được Chí Phèo đến nhà đội Tảo đòi 50 đồng bạc nợ cho cụ. Chẳng phải giao tranh đổ máu, hắn đã đòi được nợ đem về. Cụ bá cho hắn 5 đồng và bán cho hắn 5 sào vườn ngoài bãi sông mới cắm thuế của một người làng. Năm đó Chí 27 hay 28 tuổi, hắn bỗng thành có nhà. Hắn trở thành anh đầy tớ chân tay mới của Bá Kiến, chuyên đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ. Hắn đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say mãi, say vô tận. Hắn chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi con mẹ chết tiệt nào đẻ ra hắn cho hắn khổ. Năm đó hắn ngoài 40, cái mặt như mặt một con vật lạ. Cả làng Vũ Đại đều sợ hắn một khi hắn đi qua trước mặt.

Tình cờ một đêm trăng, Chí Phèo lần vô nhà Tự Lãng, tên hoạn lợn kiêm nghề thầy cúng, hai đứa uống hết cả 3 chai rượu. Ngứa ngáy quá, Chí lảo đảo đi về lều. Hắn gặp Thị Nở đang há hốc mồm ngủ dưới trăng, hắn ôm chầm lấy chị mà làm tình. Gần sáng Chí bị cảm, hắn được thị Nở người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn cho ăn cháo hành. Cũng là lần đầu tiên hắn được ăn cháo hành lại do bàn tay một người đàn bà cho. Hắn bâng khuâng nhớ lại một thời trai trẻ, hắn muốn cùng thị làm thành một cặp rất xứng đôi. Chí Phèo thèm lương thiện. Và hắn say thị lắm. Nhưng đến hôm thứ 6, thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã. Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt. Thị ton ton chạy sang lều trút tất cả giận dữ lên mặt nhân ngãi. Chí Phèo ngẩn mặt ra, chạy theo Thị Nở, hắn đã bị nhân tình giúi cho một cái ngã lăn khoèo xuống đất. Hắn toan đập đầu ăn vạ nhưng hắn chưa thật say. Và hắn uống, uống thêm chai nữa, càng uống càng tỉnh. Hắn đi đến nhà Bá Kiến với con dao ở thắt lưng để đòi lương thiện. Chém chết Bá Kiến, hắn đâm cổ tự sát. Cả làng Vũ đại xôn xao kéo đến xem 2 con quỷ giết nhau. Bà cô chì chiết Thị Nở. Thị nhìn nhanh xuống bụng mình, và thoáng chợt thấy một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…

II/Đọc hiểu văn bản

1. Làng Vũ Đại là hình ảnh cái xã hội thực dân phong kiến thối nát, cái ác ngự trị.

- Là nơi “quần ngư tranh thực” với các phe nghịch, đu lại với nhau để bóc lột con em. ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau: cánh Bá Kiến, cánh ông đội Tảo, cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng… Đội Tảo ngang ngược, là cựu binh “cũng có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh”. Còn Bá Kiến vô cùng xảo quyệt, biết “mềm nắn rắn buông”, biết ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn! Hãy đập bàn, đập ghế đòi cho được 5 đồng nhưng rồi thì lại vứt trả lại năm hào “vì thương anh túng quá!”. Cụ không cần than thở: trị không lợi thì cụ dùng! Cụ biết thu dụng những thằng bạt mạng để cắm thuế, cắm ruộng, đốt nhà, đâm chém… gây ra bao cảnh đổ máu, làm tan nát bao cơ nghiệp dân lành.



tải về 0.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương