MỘt số biện pháp luyệN ĐỌc cho



tải về 475.01 Kb.
trang4/5
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích475.01 Kb.
#35496
1   2   3   4   5

Người thực hiên


Nguyễn Thị Thái


IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Lê Phương Nga – Nguyễn Trí : Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 1999.
2. Lê Phương Nga – Nguyễn Trí: Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt 2 – NXB Giáo dục - 2001.
3. Lê Phương Nga: Dạy tập đọc ở tiểu học – NXB Giáo dục.
4. Đặng Thị Lanh – Hoàng Hoà Bình – Nguyễn Thị Hạnh – Lê Thị Tuyết Mai – Nguyễn Trí: Tiếng Việt 1 - tập 2 – sách giáo viên.
5. Đặng Thị Lanh – Hoàng Hoà Bình – Hoàng Cao Cương – Trần Thị Minh Phương – Nguyễn Trí: Tiếng Việt 1 - tập 2
. MỤC LỤC



STT

TIÊU ĐỀ

TRANG

1

Đặt vấn đề

Trang 1

2

Phần nội dung

Trang 4

3

Phần kết luận, kiến nghị

Trang 28

4

Tài liệu tham khảo- phụ lục

Trang 36

5

Nhận xét của hội đồng chấm SKKN

Trang 37

Qua nghiên cứu thực tế tôi thấy rằng chất lượng dạy tập đọc ở tiểu học chưa cao

nguyên nhân là do nhiều lượng kiến thức giáo viên còn áp đặt, nặng nề, truyền  đạt 
còn quen sử dụng phơng pháp truyền thống, ít gợi ý để học sinh khám phá, tìm 
hiểu.Khả năng đọc của một số giáo viên  còn hạn chế, có những cách hiểu dẫn đến 
hiệu quả đạt được trong giờ tập đọc chưa cao. Thực tế ở các trường tiểu học hiện nay 
việc học tập theo phương pháp giảng giải. Giáo viên còn dựa trên hướng thích chưa 
đúng về các bài đọc ở tiểu học. chỉ một số giờ học còn quá khô khan. 
Giáo viên dựa trên  hướng dẫn của sách giáo khoa bằng phương thức giáo viên hỏi- 
học sinh trả lời. Chính vì vậy mà đã bộc lộ được nhiều nhược điểm trong việc quản lí 
lớp. Đặc biệt là việc rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh còn hạn chế và sau một giờ, 
một bài học sinh ít có khả năng đọc hay, diễn cảm và hiểu nội dung bài một cách đầy 
đủ. Học sinh không quan tâm tới phương pháp đọc của mình. Do đó, các em yếu về 
năng lực.


Sự mong muốn lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết. Biết đọc, biết viết là cả một thế giới mở ra trước mắt các em.

 

I. PHẦN MỞ ĐẦU:

 

I.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

I.1.1. Cơ sở lý luận:

I.

       


*) Phương pháp nghiên cứu.

a. Đối với giáo viên:

        Giáo viên tự học hỏi kinh nghiệm và phương pháp truyền thụ ở những đồng nghiệp có kinh nghiệm trong giảng dạy về những điểm hợp lý và chưa hợp lý. Phải xem các giáo viên thường sử dụng phương pháp gì trong quá trình rèn đọc đúng và đọc diễn cảm.

        Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên với chương trình thử nghiệm 2000 để rút ra những phương pháp tối ưu nhất.

       Thường xuyên dự giờ thăm lớp các đồng nghiệp để học tập và rút kinh nghiệm cho bản thân.

       Tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ và tham dự các chuyên đề do trường, phòng giáo dục tổ chức để đưa ra các phương pháp cải tiến. Trên cơ sở phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy truyền thống áp dụng vào dạy học theo hướng đổi mới phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.

      Dạy một số giờ theo sách thử nghiệm để giáo viên trong tổ và chuyên môn trường dự giờ góp ý.

      Thường xuyên tiến hành khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc hàng tháng, kỳ khi mà học sinh đã được rèn đọc để so sánh thấy được hiệu quả của phương pháp mới.

b. Đối với học sinh:

       Học sinh trong lớp phải đủ sách giáo khoa Tiếng Việt tập 1 và tập 2 của chương trình Tiểu học 2000. Có đủ vở Bài tập Tiếng Việt – Bài tập Tiếng Việt nâng cao để phục vụ cho học sinh học phân môn Tập đọc.



*) Giả thiết khoa học:

       Đối với phân môn Tập đọc, muốn học tốt học sinh phải có kỹ năng đọc và hiểu nội dung bài, giá trị nghệ thuật của bài. Từ đó học sinh biết cách thể hiện cảm xúc của giọng đọc một cách đúng mức.

       Khi đã được trang bị năng lực đọc, kỹ năng đọc tốt, học sinh sẽ ham thích tìm hiểu, biết bộc lộ tình cảm một cách đúng mức trong cuộc sống xã hội.

        Ngoài ra để học tốt các em cần phải có vốn ngôn ngữ phong phú, đa dạng. Có như vậy các em sẽ có đủ điều kiện học tốt các môn học khác.

        Dạy học tốt phân môn Tập đọc còn giúp học sinh có một vốn ngữ chuẩn mực để tiếp thu tri thức khoa học và tự nhiên xã hội.

        Nhiều tài liệu và các chuyên gia nghiên cứu đã nhận định: Dạy - Học tốt phân môn Tập đọc sẽ tạo tiền đề cho các em bước vào lĩnh vực khoa học một cách vững chắc.



I.

 

 



 

 

 



 

 

 



 

 

 



 

 

 



 

 

 



II. PHẦN NỘI DUNG:

 

II.1. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

        Học sinh Tiểu học ở độ tuổi 6-12 tuổi là giai đoạn phát triển mới của tư duy. Ở lứa tuổi này trẻ em có những đặc điểm riêng, đó là tri giác của các em còn mang tính trực quan cụ thể vì kinh nghiệm sống của các em còn hạn chế. Vì thế, trẻ thường lẫn các đối tượng có hình dạng hay cách phát âm các âm, tiếng, từ na ná giống nhau, chưa biết phân biệt đâu là đúng, là sai. Ở lứa tuổi học sinh Tiểu học, các em chủ yếu học và chơi. Đây là hai hoạt động đan xen nhau. Trẻ em nặng tính hồn nhiên, ngây thơ trong sáng. Các em dễ tin và nghe lời thầy cô, tin vào khả năng học tập của chính bản thân các em, tin vào những điều nhà trường, gia đình, xã hội đã dạy dỗ các em nên người. Ở lứa tuổi này tâm lý của các em là thích được khen hơn chê, cho nên khi các em đọc bài tốt, đạt điểm cao, được thầy cô khen, bạn bè quý mến các em rất thích. Vì vậy người giáo viên Tiểu học phải nắm bắt được tâm sinh lý học sinh Tiểu học. Do đó khi nghiên cứu đề tài sử dụng phương pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 qua môn Tập đọc là rất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em.

 

II.2. CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU



II.2.1. Các thành tựu đã đạt được trong thời gian qua:

       Hội thảo Quốc gia về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học đã đề ra các quan điểm chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học, cụ thể là:

      Quán triệt và vận dụng hợp lý mục tiêu của giáo dục Tiểu học trong mọi trường học ở bậc Tiểu học.

      Trong mọi hoạt động dạy học phải đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội phát triển năng lực và sở trường của từng học sinh hay là quan điểm của dạy học cá thể hoá.

Đổi mới quá trình dạy học, phương pháp dạy học là một quá trình lâu dài nó gắn liền với đổi mới mục tiêu nội dung, cơ sở vật chất để phù hợp với điều kiện từng địa phương. Đưa các hình thức tổ chức dạy học mới vào trường Tiểu học tạo điều kiện cho giáo viên có thể tổ chức dạy học mới theo các hình thức đã và đang được triển khai ở một số địa phương.

       Với đề tài này cho phép các nhà khoa học nghiên cứu trên nhiều phương diện ở nhiều góc độ, tiếp cận trong các phạm vi lớn nhỏ, ở những địa phương có đặc thù khác nhau.

       Thông qua kết quả của việc điều tra, khảo sát chất lượng bộ môn Tập đọc lớp 1; tìm hiểu kinh nghiệm đúc kết của giáo viên trực tiếp giảng dạy thông qua việc nghiên cứu chương trình, tài liệu để có phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh các lớp 1 nói riêng đạt kết quả cao nhất.

II.2.2. Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa:

       Qua việc nghiên cứu một số tài liệu Sư phạm tôi đã rút ra một số điểm đáng lưu ý như sau:

      - Giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” trong các phương pháp dạy Tập đọc có phương pháp trực quan và phương pháp luyện tập là hết sức quan trọng. Trực quan không chỉ là tranh ảnh hay vật thực mà nó còn là giọng đọc mẫu của giáo viên - một hình thức sinh động và có hiệu quả. Giáo viên phải đọc đúng thể loại, đúng ngữ điệu, biểu hiện tình cảm qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ. Bên cạnh đó còn hình thức trực quan thứ hai là ghi các tiếng khó, câu khó, đoạn khó đọc vào bảng phụ để học sinh tri giác cụ thể hơn. Giáo viên cần chép rõ ràng và hướng dẫn tỉ mỉ. Đó chính là các hình thức trực quan rất cần thiết cho việc rèn đọc. Các em có đọc đúng thì mới có thể viết được đúng. Ở phương pháp luyện tập sẽ có các quá trình luyện tập là: đọc đúng âm, tiếng, câu; biết ngắt nghỉ đúng chỗ khi đọc. Giọng đọc phải thể hiện qua bài văn hay bài thơ và thể hiện cảm xúc qua nội dung bài đọc. Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh một cách hiểu sai nghĩa hoặc ít ra một cách đọc không để ý đến nghĩa.

        Vì vậy, đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đọc đúng nói riêng vừa là mục đích của việc dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Bài này chỉ ra cơ sở ngữ nghĩa, ngữ pháp của chỗ ngắt giọng, chỗ cần phát âm đúng. Thực tế học sinh lớp 1 luyện đọc đúng là nhiệm vụ trọng tâm bởi theo chương trình Tập đọc trong sách Tiếng Việt 1 chỉ có 13 tuần bao gồm cả nội dung ôn tập và thi. Bên cạnh đó học sinh vừa chuyển từ phần vần sang tập đọc thì mục tiêu chính là giúp các em nhận diện chữ để đọc đúng, đọc trôi chảy lưu loát, biết ngắt nghỉ hơi hợp lý, lưu ý cả cách đọc nhấn giọng.

       - Giáo trình “Rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt”. Muốn rèn cho các em có kỹ năng, phương pháp đọc tốt thì trước tiên giáo viên cần phát hiện những nguyên nhân dẫn đến đọc sai, từ đó áp dụng các cách thức, các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt trong quá trình áp dụng qua việc nghiên cứu để hướng dẫn học sinh.

       Việc áp dụng ngữ điệu đọc phù hợp làm tiêu chuẩn tức là cách xác định chính xác tiết tấu của giọng đọc, nhịp điệu đọc, cường độ, độ cao, sắc thái giọng đọc, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ trong khi đọc để người nghe dễ hiểu, cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ.

        Về tốc độ âm lượng đọc: Mỗi bài Tập đọc có tốc độ âm lượng đọc khác nhau. Như vậy người giáo viên cần phải nắm chắc các kỹ thuật trên để làm mẫu cho học sinh và hướng dẫn truyền thụ lại cho các em những kỹ thuật đó. Khi học sinh đã hoàn chỉnh các kỹ thuật trên cũng chính là đã đạt đỉnh cao của phương pháp rèn đọc cho học sinh Tiểu học.

      Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 1:       



  • Chương trình Tiếng Việt 1 chia thành 3 phần cơ bản.

+  Học vần:  Chữ cái:     Tuần 1 - Tuần 6

                     Vần     :      Tuần 7 - Tuầm 24

+  Tập đọc:   Tuần 25 - Tuần 35.


  • Chương trình Tập đọc lớp 1 bao gồm cả phần nội dung kiến thức mới và nội dung kiến thức ôn tập là 13 tuần. Trong đó cũng được phân thành các chủ đề sau:

+  Chủ đề nhà trường          : 4 tuần

+  Chủ đề gia đình               : 4 tuần

+  Chủ đề thiên nhiên - Đất nước: 4 tuần

    Riêng tuần 35 dành cho phần ôn tập và kiểm tra.



  • Các bài Tập đọc được xếp theo chủ đề gần gũi, đan xen, kết hợp, phân bố rất hợp lý.

  • Nội dung là những bài văn, bài thơ, những câu chuyện ngắn, hay, hấp dẫn, gắn với cuộc sống sinh hoạt của các em.

  • Đặc biệt ở mỗi bài Tập đọc thường có tranh minh hoạ với màu sắc đẹp, hình ảnh sinh động phù hợp với nội dung từng bài.

II.2.3. Những vấn đề thực tiễn:

     Tôi tiến hành điều tra trường Tiểu học An Sinh A - Đông Triều:



II.2.3.1. Về giáo viên:

      Phương thức điều tra giáo viên bằng phiếu thăm dò: Đánh dấu vào ô trống theo đồng chí là đúng, là thường thực hiện dạy tập đọc hoặc nêu hình thức mà giáo viên thường làm.

     Câu 1: Đồng chí cho biết trong một giờ Tập đọc ở lớp 1, đồng chí đã rèn đọc cho học sinh như thế nào, hãy kể cách làm cụ thể?

     Câu 2: Trong một giờ Tập đọc, đồng chí đã chú ý đối tượng học sinh nào?           Đồng chí hãy đánh dấu x vào ô trống mà đồng chí cho là đúng:

                            Học sinh khá – giỏi

                            Học sinh trung bình

                            Học sinh yếu kém

     Câu 3: Trong số hình thức dạy học sau đây, đồng chí thường chọn những hình thức nào? Hãy đánh dấu x vào ô mà đồng chí cho là đúng:

                            Dạy học cá nhân

                            Dạy học theo nhóm

                            Dạy học cả lớp

     Hình thức dạy học nào là quan trọng nhất (ghi cụ thể tên hình thức dạy đó).

     Câu 4: Đồng chí hãy kể tên những phương pháp mà đồng chí đã vận dụng để dạy một giờ Tập đọc cho học sinh lớp 1.

*Thực trạng của giáo viên:

a. Ưu điểm:

       Thực tế dạy học ở trường tiểu học An Sinh A cho thấy: Giáo viên đã tìm hiểu kỹ bài dạy và truyền đạt đủ kiến thức cơ bản theo yêu cầu sách giáo khoa với việc phát huy tính tích cực của học sinh. Họ dành thời gian cho học sinh làm việc với sách giáo khoa. Kết hợp nhiều phương pháp trong một tiết dạy như: giảng giải trực quan, vấn đáp, gợi mở để dẫn dắt học sinh tìm ra kiến thức. Giáo viên luôn có sự chuẩn bị đồ dùng trực quan.



b. Một số tồn tại:

       Khi dạy một tiết Tập đọc, nhiều giáo viên chưa thực sự chú ý rèn đọc cho học sinh khi học sinh đọc sai. Số ít giáo viên chưa chú ý tới việc luyện cách đọc một câu văn dài, học sinh đọc còn gặp nhiều khó khăn.

       Hầu hết các tiết dạy về Tập đọc, khi sử dụng các hình thức trực quan thì chỉ dừng ở chỗ giáo viên làm động tác minh hoạ hoặc đưa ra vật thực. Một số bài dạy chay không phóng to được hình vẽ. Nhiều khi ác tranh đưa ra còn hạn hẹp, kém về hình thức. Điều này không gây được hứng thú học tập cho các em. Do tập tục địa phương nên các em rất hay đọc ngọng phụ âm l/n, ch/tr, s/x và ngọng về dấu hỏi – ngã.

        Mặt khác, số ít giáo viên chưa chú ý cho học sinh cách đọc đúng nhịp điệu thơ, đọc ngắc ngứ những câu văn dài. Trong khi tìm hiểu nội dung bài, một số giáo viên dành nhiều thời gian để giảng giải, đàm thoại (thầy hỏi – trò suy nghĩ, sau đó gọi 1 – 2 em lên trả lời). Vì vậy, giáo viên chưa kiểm soát được số đông học sinh trong lớp và dành nhiều thời gian hợp lý cho các em hoạt động tự tìm kiếm, lĩnh hội kiến thức theo khả năng của mình.

   * Nguyên nhân:

     Nguyên nhân của một số tồn tại kể trên là do giáo viên chưa nghiên cứu kỹ nội dung của sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy để từ đó chọn phương pháp dạy và nội dung dạy học một cách thích hợp nhất.



II.2.3.2. Thực trạng của học sinh:

Tôi đã tiến hành điều tra học sinh lớp 1A tổng số là 27 em.



  • Phương thức điều tra 1: Bằng hình thức thăm dò điền vào dàn ý, vào ô trống mà em cho là đúng hoặc hình thức lựa chọn từ thích hợp để điền vào ô trống.

      Câu 1: Điền vào chỗ trống n hoặc l.

                 Cây ….úa,     ……ấu cơm,    ……ăn tròn.

      Câu 2: Điền vào chỗ trống chao hay trao.

                  ………… ơi!, …………giải thưởng.



      Câu 3: Điền vào chỗ trống n hoặc ng.

                 Cây bà……., bà….. ghế.

      Điều tra kết quả phương thức 1:

        Câu 1: 65,5% học sinh trả lời đúng.

        Câu 2: 87% học sinh trả lời đúng.

        Câu 3: 50% học sinh trả lời đúng.

      Từ kết quả điều tra phương thức trên tôi thấy học sinh đọc sai nhiều nhất là phụ âm l/n, s/x. Hai phụ âm này học sinh hay đọc sai, trong đó có một phần lỗi học sinh chưa chú ý và giáo viên đọc chưa chuẩn.


  • Phương thức điều tra 2:

      Tôi tiến hành điều tra vào lớp giảng dạy và khảo sát cụ thể qua việc đọc của từng học sinh.

      Qua điều tra thực tế việc đọc của học sinh, tôi thấy thực trạng của học sinh lớp tôi có ưu nhược điểm sau đây:



  • Ưu điểm:

  Năm học 2009 – 2010, học sinh đã được học nhiều bài Tập đọc bằng giáo án điện tử tạo điều kiện tốt cho học sinh trong giờ học. Nói chung đa số học sinh đọc được nội dung bài và bước đầu có kỹ năng đọc đúng. Đã có một số em biết áp dụng vào giờ ngoại khoá.

       Một số em đã biết đọc diễn cảm và có ý thức học tập tốt, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài.



  • Hạn chế:

       Một số em chưa thực sự hiếu học, hay quên đồ dung học tập, chưa chuẩn bị đầy đủ trước khi đến lớp. Một số học sinh yếu vừa đọc vừa đánh vần, số đông học sinh khác đọc trôi chảy song chưa biết nhấn mạnh ở các từ ngữ cần chú ý cũng như cách ngắt nghỉ đúng dấu câu.

       Ví dụ: Chỗ ngừng giọng giữa chủ ngữ và vị ngữ, giữa động từ và bổ ngữ. Đó là chưa kể trong thơ, hầu như người ta đã bỏ các dấu câu, nhiều bài văn xuôi tác giả không dùng các dấu phẩy như yêu cầu của nhà trường. Đây là nguyên nhân dẫn đến học sinh không đọc đúng chỗ ngắt giọng ở những câu dài có cấu trúc ngữ pháp phức tạp.

       Ngắt giọng hay là đích của dạy học và cũng là một trong những phương tiện để dạy tiếp cận, chiếm lĩnh văn bản được đọc. Từ đó các em đọc đúng phụ âm đầu, ngắt giọng đúng và hay; tôi đã hướng dẫn để các em cảm thụ được nội dung bài học theo từng chủ điểm. Nhờ đó các em trau dồi cho mình vốn từ phong phú, cách viết trong sáng, mạch lạc, bố cục chặt chẽ, nội dung hấp dẫn trong phân môn Tập đọc.

      Qua quá trình thực tế dạy Tập đọc cho học sinh lớp 1 nhiều em tiếp thu bài nhanh, đọc tốt, song vẫn còn tồn tại một số em đọc chưa thạo.

      Học sinh lớp 1 Trường Tiểu học An Sinh A – Đông Triều, trong không khí xã hội hóa giáo dục của ngày khai giảng năm học mới, phụ huynh đưa con em đến trường, các em từ nhiều vùng quê khác nhau theo cha mẹ đến đây lập nghiệp. Tiếng nói địa phương mang tính chất vùng miền đã để lộ sự giao thoa đến cách phát âm của một số học sinh trong lớp. Chủ yếu là lẫn lộn phụ âm đầu l/n. Một số em khi được gọi đọc bài còn mắc nhiều lỗi phát âm, đọc và trả lời các câu hỏi còn nhỏ, trả lời không đủ câu, đọc kéo dài….Có thể nói, đó là nguyên nhân khách quan tác động “vô thức” đến một số ít học sinh.

 

II.3. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

      Tập đọc là phân môn chủ yếu rèn cho học sinh kỹ năng đọc, từ mức độ nhận biết để đọc đúng, rõ rang đến mức độ cao hơn là đọc lưu loát, biết ngắt nghỉ, lên -  xuống giọng và thể hiện thái độ tình cảm qua bài Tập đọc, học sinh hiểu được nội dung của bài.

     Để đạt được mục đích ấy, trước hết người giáo viên phải có phương pháp rèn đọc đúng, có các hình thức rèn đọc cũng như tinh thần trách nhiệm đối với nghề trên cơ sở giúp học sinh nhận thức được việc rèn đọc trong trường Tiểu học. Từ đó áp dụng các phương pháp rèn đọc linh hoạt sẽ đem lại kết quả khả quan hơn.



II.3.1. Phương pháp trực quan:

  • Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý lứa tuổi ở bậc Tiểu học:

    Ở phương pháp này giáo viên đưa ra những bức tranh minh hoạ bằng vật thật cho từng bài (gọi chung là đồ dung học tập) để phục vụ cho quá trình rèn đọc của học sinh kết hợp đọc hiểu và bước vào đọc diễn cảm tốt.

    b. Các hình thức trực quan (Cách dạy):



   * Giọng đọc mẫu của giáo viên: Đây là một hình thức trực quan sinh động và có hiệu quả đáng kể, có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc. Do đó, muốn rèn đọc cho học sinh tôi luôn chuẩn bị trước các bài ở nhà để cho học sinh đọc đúng các thể loại, đúng ngữ điệu, tránh đọc đều đều mà cần phải biết biểu hiện tình cảm của mình qua cử chỉ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười khi đọc.

   *Luyện đọc từ khó:

       Khi hướng dẫn học sinh phát âm tôi thường phân tích cho các em thấy sự khác biệt giữa cách phát âm đúng với cách phát âm sai mà học sinh thường mắc như các tiếng có phụ âm l/n, ch/tr, s/x.

       Điều này cần hướng dẫn tỉ mỉ và có trực quan cho các em thấy được sự khác nhau của nó để phân biệt rõ khi đọc phát âm cho đúng. Đặc biệt đối với học sinh yếu, tôi còn sử dụng các trực quan cụ thể để các em thấy được hệ thống cách phát âm như môi, răng, lưỡi (bộ máy phát âm) khi phát âm nó như thế nào. Cụ thể hơn, tôi làm mẫu trực tiếp để học sinh quan sát và luyện cách phát âm.

       Ngoài hình thức trên, tôi còn ghi các từ khó để luyện đọc bằng phấn màu lên bảng (bảng phụ) . Tôi dùng phấn màu ghi các phụ âm, vần khó, làm nổi bật các phụ âm, vần khó trong các từ luyện đọc để các em được nhìn (bằng mắt), được tập phát âm (bằng miệng), được nghe (bằng tai) và có thể được viết bằng tay vào bảng con. Có như vậy các em sẽ nhớ lâu và đọc đúng.

       Giáo viên đọc mẫu – Học sinh giỏi luyện đọc.

       Học sinh thường đọc sai phụ âm, sai vần luyện đọc. Học sinh yếu cần luyện nhiều và tôi yêu cầu học sinh phân tích các từ có tiếng, vần mà các em hay đọc sai để nắm bắt rõ hơn. Đa số học sinh đọc tốt, trừ một số trường hợp đặc biệt (các em bị dị tật về bộ máy phát âm) còn lại với cách rèn đọc trên các em đã đọc tốt.



  • Luyện đọc câu – đoạn – bài:

      Kết hợp với rèn phát âm đúng tiếng, từ có phụ âm, có vần học sinh hay phát âm sai; tôi còn rèn cho học sinh biết ngắt, nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy và đọc lưu loát (đây là yêu cầu trọng tâm của hcọ sinh lớp 1).

      Bước sáng phần đọc, đa số các em còn đọc chưa chuẩn, đọc còn ngắc ngứ, đọc từng âm, tiếng. Một số học sinh yếu còn phải dừng lại để đánh vần. Nhiều em chưa biết nghỉ hơi đúng lúc, đúng chỗ. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã dành nhiều thời gian hơn cho việc luyện đọc. Tuy nhiên vẫn đảm bảo đủ nội dung trong một giờ Tập đọc. Dùng thời gian thích đáng cho việc luyện đọc (ở lớp và ở nhà).

       Khi học sinh đọc tôi theo dõi để nhắc nhở học sinh ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy. Đọc rõ từng cụm từ, câu, tránh đọc kéo dài giọng.

       Đối với học sinh yếu phần luyện đọc chưa đạt yêu cầu, các em dung bút chì đánh dấu vào sách giáo khoa, về nhà tự luyện đọc, tiết học sau tôi kiểm tra.

       Rèn kỹ năng đọc: đọc câu, đoạn hay cả bài, tôi luôn hướng dẫn các em rất tỉ mỉ. Trong các giờ Tập đọc, tôi thường chép sẵn các đoạn văn hay thơ cần lưu ý về cách đọc. Nếu là bài đọc thuộc long cũng cần phải chép ra bảng phụ để học sinh tri giác cụ thể, cần chép rõ rang mới có tác dụng trực quan tốt.

      Khi dạy học thuộc long, tôi chép bài lên bảng (bảng phụ) rồi luyện đọc cho các em bằng phương pháp xoá dần chỉ để lại từ điểm tựa. Phần này làm trực quan tốt thì các em học dễ nhớ và thuộc bài nhanh hơn so với phương pháp để học sinh đọc ở sách giáo khoa.



  • Dùng tranh ảnh, vật thật:

      Đây là phương pháp có tác dụng không khó trong việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh. Nhưng khi đã sử dụng tranh ảnh thì các bức tranh đó phải to, đẹp, rõ rang. Nếu không có điều kiện phóng to, tôi sử dụng tranh ảnh minh hoạ ngay ở trong sách giáo khoa. Tuỳ từng bài để ta có thể sử dụng trực quan cho phù hợp.

      Tôi yêu cầu học sinh khi đọc phải nhấn mạnh các từ chỉ màu, sắc, độ.

      Học sinh phải nhớ từ cần nhấn mạnh. Luyện đọc từ cần nhấn mạnh, ngay cả các em yếu cũng đọc được.

      Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có kỹ năng đọc và tiếp thu bài tốt, đọc diễn cảm bài.

      Giúp học sinh dễ hiểu bài hơn và gây hứng thú cho học sinh khi đọc, nhằm khắc sâu kỹ năng đọc và nắm nội dung bài của học sinh. Phương pháp này nhằm củng cố niềm tin vững chắc cho học sinh.



tải về 475.01 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương