MỪng năm mớI 2007



tải về 0.88 Mb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu15.01.2018
Kích0.88 Mb.
#36028
1   2   3   4

TIỀN HỘI NGHỊ APEC

a)- Ngày 2-10-2006, lúc 10 giờ sáng, Công An (CA) đón bắt ông Nguyễn Văn Thơ, Hội Trưởng PGHH TT tỉnh Đồng Tháp và vợ là bà Dương Thị Tròn, Hội Đoàn Trưởng Hội Đoàn Phụ Nữ Từ Thiện PGHH TT tỉnh Đồng Tháp trên đường đi thăm thân nhân. Vợ chồng ông Thơ bị CA công khai đánh đập giữa đường một cách dã man đến ngất xỉu rồi chở đi biệt tích.

Cùng lúc đó, khoảng 100 CA khác xông vào nhà ông Thơ ở tại xã Tân Hòa, huyện Lai Vung (Đồng Tháp) lục soát, đập phá tan tành bàn tủ để kiếm tài liệu, và đánh đập 7 người con ông Thơ đến ngất xỉu rồi bắt chở về đồn CA đến 24 giờ sau mới thả về, đồng thời cướp giật cái xách tay của Nguyễn Thị Thu Vân (con ông Thơ) vừa đi bán lúa về trong xách có 40 triệu đồng và một số tài vật khác.



b)- Chỉ trong vòng 7 ngày từ 25-10 đến 31-10-06, CA tỉnh Vĩnh Long tống đạt liên tiếp 3 lịnh triệu tập cụ Lê Quang Liêm phải trình diện Ban Điều Tra CA tỉnh Vĩnh Long về tội “mưu sát” bà Nguyễn Thị Thu. Nhưng cụ Liêm không nhận lịnh triệu tập nào hết và tuyên bố CA muốn bắt thì đến bắt và sẽ thấy việc gì sẽ xảy ra.

Đây là một âm mưu “chụp mũ” trơ trẽn và lố bịch đáng khinh. Cụ bà Nguyễn Thị Thu tự thiêu ngày 18-3-2001 để phản đối chính sách “tận diệt” PGHH của nhà cầm quyền CSVN, sụ việc này đã được loan báo trên Internet hồi tháng 3-2001 mà đến nay hình ảnh những buổi lễ “tống biệt” cũng như lời vĩinh biệt của cụ Bà vẫn còn trên hệ thống Internet.



c)- Ngày 4-11-2006, lúc 15 giờ, CA chận đường bắt ông Lê Văn Sóc, Phó Hội Trưởng PGHH TT tỉnh Vĩnh Long, hành hạ đánh đập công khai giữa đường phải ngất xỉu rồi còng trói chở đi biệt tích.

Liền sau đó CA tràn vào nhà ông Lê Văn Sóc, đập phá nhà cửa, cạy tủ lấy tài vật tiền bạc gồm 4 lượng vàng và gần 3 chục triệu bạc và một số tài vật như máy vi tính, rađio, tivi, v.v... và đánh cô Lê Thị Nhẫn (con ông Sóc) vừa mới sanh con đến ngất xỉu, vì kháng cự không cho CA cướp giật đồ. Hành động này của CA giống như ở nhà ông Nguyễn Văn Thơ.



d)- Nghiêm trọng là từ đầu tháng 11-2006, khoảng 50 gia đình cán bộ lãnh đạo của PGHH TT bị CA siết chặt vòng bao vây, người ngoài không được vào, người trong không được đi ra, đến nỗi đi mua thức ăn hay mua thuốc uống khi có bệnh cũng bị CA ngăn trở. Số gia đình này bị CA cho là thành phần phản động nên CA bao vây kinh tế một cách khắc khe và triền miên suốt hằng nhiều năm qua, nhưng càng nghiệt ngã vô cùng trong dịp hội nghị APEC.

HẬU HỘI NGHỊ APEC

1)- Ngày 22-11-2006, lúc 18 giờ CA đón đường chặn bắt Tu Sĩ Nguyễn Văn Thì tự Tam là Trưởng Ban Thanh Niên Giáo Hội PGHH TT tỉnh Vĩnh Long, đánh Tu sĩ Thì ngất xỉu rồi còng tay chân chở đi biệt tích.

2)- Đêm 22, 23 và 24-11-2006, mỗi đêm đều có một toán CA giả thường dân khoảng vài chục người xông vào nhà ông Bùi Văn Luốc, Hội Trường PGHH TT tỉnh Vĩnh Long, nhưng gia đình ông Luốc tận tâm phản ứng nên CA phải rút lui. Mỗi lần xảy ra như vậy thì toàn vùng chung quanh nhà ông Luốc đều bị cúp điện tối thui và trước nhà ông Luốc có một chiếc xe chở khoảng 10 CA mặc sắc phục đang chờ sẵn, có lẽ để tiếp tay khi cần. Từ đó đến nay (23-12-2006) CA thường quấy nhiễu nhà ông Luốc như vậy.

3)- Hội Nghị APEC đã chấm dứt, nhưng hành động khủng bố trấn áp đối với gia đình những cán bộ lãnh đạo PGHH TT không được CA chấm dứt, vẫn “đóng chốt” bao vây khắt nghiệt. Nhất là đối với cụ Lê Quang Liêm, càng được CA “chiếu cố” đặc biệt, đi đâu cũng có hằng chục CA bám sát như giữ tà, thậm chí cụ Liêm đi bệnh viện cũng được CA “hộ tống” sát nút. Nhà cụ Liêm ngày đêm đều có hằng chục CA canh giữ, ai vào nhà cụ Liêm đi ra đều bị CA xét hỏi giấy tờ, gây quấy nhiễu đủ điều, v.v. và v.v...

4)- Ngày 2-12-2006, CA đem giấy triệu tập đòi Lê Thị Nhẫn (con ông Lê Văn Sóc) đến hầu Ban Điều Tra để trả lời về vụ vu khống (!) CA lấy vàng bạc trong ngày bắt ông Sóc. Thật không còn lời gì để bình phẩm hành động động này. Bắt người cướp của giữa thanh thiên bạch nhật lại còn muốn kiếm chuyện bỏ tù người bị cướp của. Không biết trên thế giới ngày nay còn được mấy nơi có cái “nền pháp quyền” như ở VN này giữa xu thế thời đại của thế kỷ 21 ?

5)- Ở Đồng Tháp, con ông Nguyễn Văn Thơ là Nguyễn Thị Thu Vân, người bị CA cướp cái xách tay với 40 triệu đồng cũng bị CA triệu tập về tội “vu khống” !?!

6)- Ngày 5-12-2006, CA đem giấy triệu tập ông Nguyễn Hồng Hải, Trưởng Ban Tổ Chức Giáo Hội PGHH TT tỉnh Vĩnh Long đến hầu Ban Điều Tra về tội “sẽ cho biết sau”. Ông Hải không nhận giấy và tuyên bố : “sẽ tự thiêu nếu CA đến bắt”.

7)- Ngày 10-12-2006, ông Hồ Văn Duy Hồ, Trưởng Ban Thông Tin Liên Lạc Giáo Hội PGHH TT tỉnh An Giang, bị CA đem giấy triệu tập phải đến hầu Ban Điều Tra về tội “vắng mặt tại nhà từ 8 giờ sáng đến 2 giờ trưa ngày 10-12-2006”, tức là chỉ vắng mặt tại nhà có 6 tiếng đồng hồ ban ngày... trong lúc ông Hồ không bị quản chế hay bị một hình thức chế tài nào khác của nhà cầm quyền. Ông Hà Văn Duy Hồ khẳng định không nhận giấy tờ gì hết, CA muốn bắt thì cứ đến bắt.

8)- Nhà của bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, Hội Trưởng PGHH TT tỉnh Cần Thơ ở tại chợ Vàm, Ô Môn (Cần Thơ), người đã công bố thơ Tuyệt Mệnh ra thế giới, nhưng vì cụ Liêm cương quyết can thiệp nên tạm ngưng ý định... thường có hằng chục CA canh giữ không cho bà Lan ra khỏi nhà. Từ giữa tháng 11-2006 CA đã 2 lần đem giấy triệu tập bà Lan, nhưng bà không nhận lịnh và tuyên bố sẽ tự thiêu nếu CA đến bắt v.v. và v.v...

Trước những trường hợp bạo ngược, tàn nhẫn này, nếu chủ tịch Hồ Chí Minh còn sống ông sẽ nghĩ sao về giá trị lời nói của ông: “Không gì quý hơn Độc lập Tự do” và ông nghĩ sao về bản Tuyên Ngôn ông đọc tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội) ngày 2-9-1945.

9)- Vợ chồng ông Nguyễn Văn Thơ bị bắt từ 2-10-06, mỗi tuần gia đình ông đều đến trại giam để xin thăm, nhưng không được cho phép.

Ngày 13-12-2006 nhằm ngày thứ tư là ngày quy định của CA cho gia đình phạm nhân được đến thăm. Với gia đình bà Dương Thị Tròn thì tuần nào các con bà Tròn đều đến túc trực để được thăm mẹ, nhưng đều không được. Tuần trước (7-12-06) CA hứa là tuần sau (13-12-06) sẽ cho thăm, nên ngày 13-12-06 này con cháu bà Tròn lối 15 người đến trại giam để được thăm, nhưng khi đến nơi thì CA trả lời là không được thăm. Gia đình bà Tròn hết lời cầu khẩn, nhưng CA một mực không cho và nặng lời đuổi đi. Cô Nguyễn Thị Thu Vân (con bà Tròn) quá bức xúc hỏi tại sao tuần trước hứa bây giờ lại nuốt lời... chỉ nói có một câu như thế mà tức thời một CA (không biết tên) xông tới đánh vào mặt Thu Vân 2 tát tay cực mạnh, đồng thời đá vào bụng làm cho Thu Vân ngất xỉu té xuống đất. Con của Thu Vân là bé Phương, 9 tuổi, thấy vậy khóc thét lên và chạy lại xô tên CA thì bị tên CA này đá một đá té lăn cù và bất tỉnh... làm cho cả gia đình bà Tròn khóc lên kêu cứu inh ỏi khiến người ngoài kéo đến hằng ngàn đông nghẹt và la lối can thiệp, phản đối.

Để thị oai, CA kêu hằng trăm lính cơ động (113) kéo đến báo vây khu vực này, và cảnh sát giao thông cũng thẳng tay chặn các nẻo đường không cho người đi vào địa điểm náo loạn. Bị dân chúng phản đối la ó, CA phải kêu xe cứu thương đến chở Nguyễn Thị Thu Vân đang ngất xỉu đem vào bệnh viện, nhưng không cho người nhà đi theo, rồi chích thuốc gì đó, đến nay về nhà trên 10 ngày mà đầu óc còn “lơ lửng, bất thường” muốn đi đến bệnh viện chữa trị nhưng không dám vì sợ CA mưu hại nữa...

Cái cảnh trấn áp “rừng rú” này xảy ra ngay tại Trụ Sở Tòa Án tỉnh Vĩnh Long với những hành động “thổ phỉ” đánh đá đàn bà con nít một cách dã man như thế ấy, nếu các nhà lãnh đạo Đảng CSVN được chứng kiến không hiểu họ nghĩ như thế nào về cái thực chất của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chính Minh mà họ luôn tuyên dương, và họ nghĩ gì khi họ “ra rả” tuyên xưng Đảng CSVN là “Đảng quang vinh”. Cái giá trị quang vinh này phải chăng là ở ch đánh đàn bà con nít một cách thô bạo và dã man ?... và các giới chức quyền ngoại giao ngoại quốc, nhất là giới ngoại giao Mỹ, sẽ nghĩ gì về những lời tuyên bố: “CSVN có nhiều tiến triển đáng kể về Nhân quyền và Tự do tôn giáo” !?!

10)- CA tỉnh Đồng Tháp có hứa với gia đình ông Lê Văn Sóc, gia đình ông Nguyễn Văn Thơ, gia đình ông Nguyễn Văn Thì là sẽ cho 3 gia đình này đến thăm thân nhân tại trại giam Cao Lãnh vào ngày 20-12-2006.

Vào ngày này, thân nhân 3 gia đình trên khoảng 40 người cùng đến trại giam để thăm thân nhân mình. Nhưng khi đến nơi thì CA lại nói không cho thăm. Những gia đình này lặn lội từ xa có cả những bé nhỏ khoảng tám, chín tuổi cùng đi vất vả, khó nhọc, lại bị CA từ chối, nên một cuộc cải vả xảy ra khá dữ dội và hỏi CA tại sao hứa từ mấy tuần trước nay lại nuốt lời thì CA trả lời: “Hứa là hứa, còn không cho là không cho...” rồi đuổi những người này ra về, nếu cãi lời sẽ bị nhốt vào khám. Trước cử chỉ thô bạo hung tàn của CA, vì quá phẫn uất, Lê Thị Nhẫn (con ông Sóc) Nguyễn Thị Thu Vân (con ông Thơ) tuyên bố “tự thiêu” để phản đối... Từ Sàigòn cụ Lê Quang Liêm được tin khẩn báo liền lập tức ra lịnh những gia đình này phải trở về, mọi sự sẽ giải quyết sau, để tránh những cuộc “chết chóc” não lòng tràn đầy máu và nước mắt... Dù phải tuân lời người lãnh đạo, nhưng trên mặt mọi nạn nhân đều lộ vẻ công phẫn cực độ đối với hành vi của CA và nhà cầm quyền CSVN... Việc gì sẽ xảy ra, thời gian sẽ trả lời.

Tóm lại, theo tin tức thì ông Nguyễn Văn Thơ và Lê Văn Sóc đã chết vì bị tra tấn khổ hình, nên CA tìm cách né tránh không cho thân nhân thăm.

------------



Qua một số hành vi của nhà cầm quyền CSVN đã lược kể như trên, Giáo Hội Trung Ương PGHHTT tại VN xin long trọng tuyên bố quyết tâm của khối PGHHTT tại VN như sau:

A)- Cực lực lên án chủ trương của nhà cầm quyền CSVN luôn tiếp tục khủng bố, đàn áp PGHH TT một cách thô bạo và tàn nhẫn... Cương quyết đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải chấm dứt chủ trương “diệt chủng” này, và chánh thức công bố ông Nguyễn Văn Thơ và Lê Văn Sóc còn sống hay đã chết.

B)- Cương quyết đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại VN.

C)- Triệt để ủng hộ và tích cực đóng góp vào những phong trào, tổ chức, nhân vật... tranh đấu bất bạo động cho công cuộc dân chủ hoá VN.

D)- Thành khẩn và tha thiết kêu gọi thế giới tự do, lương tri của cộng đồng nhơn loại yêu chuộng Tự Do, và Hòa Bình trên thế giới, nhất là toàn thể đồng hương ở Hải Ngoại hãy nhiệt tình ủng hộ, tích cực yểm trợ các cuộc tranh đấu Dân Chủ Hoá VN tại quê nhà nói chung, và cứu giúp khối PGHH TT sớm thoát khỏi cảnh đàn áp, khủng bố tàn nhẫn nhất của CSVN nói riêng.

E)- Khối PGHH TT tại VN, nguyện hy sinh cả tài sản lẫn sinh mạng để phục vụ cho chính nghĩa Dân Tộc và Chánh Pháp đến thắng lợi cuối cùng, hay đến hơi thở cuối cùng.

Việt Nam, ngày 23-12-2006

TM. Giáo Hội TƯ PGHH

Hội Trưởng Lê Quang Liêm

TIN TỨC

Tình hình tôn giáo ở Việt Nam trong dịp Lễ Giáng sinh

Trong khi cả thế giới vui mừng tổ chức ngày Lễ Giáng sinh 2006, tại VN chính quyền cộng sản sau khi được Bộ ngoại giao Hoa Kỳ rút tên ra khỏi danh sách CPC đã lật lọng và đàn áp các Hội thánh Tin lành tư gia khi họ tổ chức vui Lễ Giáng sinh cho các tín đồ.

Tại tỉnh Bắc Giang: Mục sư Thân Văn Trường từ Đồng Nai trở về quê hương của mình để tổ chức Lễ Gs cho các tín đồ ở đó. MS Trường đã gửi giấy mời cho UBND tỉnh Bắc Giang, thành phố Bắc Giang và chính quyền xã Song Mai đến dự Lễ GS. Không đáp lại thiện chí của MS Trường, chính quyền CS các cấp của tỉnh Bắc Giang đã ra lệnh miệng cấm MS Trường tổ chức Lễ GS. Đêm 24-12-2006, chính quyền CS cho các lực lượng dân phòng tuần tra khắp thôn Nhân Lễ, làm lũ chó trong làng tức giận sủa cả đêm, nên bà con dân làng bị mất ngủ. CS còn đổ 1 loại keo đặc biệt vào ổ khoá của gia đình ông Tống Đình Hoè, nơi MS đang ở, nên sáng 25-12, cả gia đình ông Hoè và MS Trường bị nhốt ở trong nhà. MS Trường vẫn quyết tâm tổ chức Lễ GS chiều ngày 27-12-2006. Ông đã gửi giấy mời đến các tín đồ ở Hà Nội và Hải Phòng đến dự Lễ Giáng sinh.

Tại Hải Phòng: HT Tin lành Gia đình Thế giới, do ông Phạm Hữu Thịnh phụ trách, cùng với 4 hệ phái TL tư gia khác cùng nhau thuê Nhà văn hoá Thanh niên thành phố Hải Phòng ở 45 phố Lạch Tray để tổ chức Lễ GS. Trước đó, công an Hải Phòng biết tin đã đe dọa ông Phạm Hữu Thịnh: do công ty của ông có vay tiền ngân hàng để kinh doanh, nên công an dọa sẽ ép ngân hàng siết nợ công ty. Đêm 24-12 HT Tin lành Gia đình Thế giới và các hệ phái khác vẫn tổ chức Lễ GS....

xem tiếp trang 25

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bình Thạnh ngày 16-12-2006

Đơn tố cáo

V/v: Tòa Án thành phố HCM xét xử oan sai và ra bản án độc ác,

bảo vệ kẻ ác trong chính quyền làm đổ vỡ, tan nát gia đình của công dân, vi phạm các quyền cơ bản của con người.

Kính gửi:

- Ủy ban Pháp luật Quốc hội Nước CHXHCNVN

- Chánh án Tòa án tối cao CHXH CNVN

Đồng Kính gửi:

- Ủy ban Chống Giam cầm độc đoán của Liên Hiệp Quốc.

- Tòa án Liên bang Hoa kỳ.

- Công luận trong và ngoài nước.

Tôi ký tên dưới đây là: Dương Kim Khải, sinh năm1958 Tại Sóc Sơn, Hà Nội. Chỗ ở trước khi bị bắt: 067 tổ 20, phường 26, quận Bình Thạnh, Tp. HCM. Chỗ ở hiện nay: Vỉa hè 9/D2 chợ chung cư Chu Văn An, phường 26. quận Bình Thạnh, Tp HCM. Nghề nghiệp : Mục sư Tin Lành Độc lập.

Thưa quí vị

Ngày 17-08-2004 tôi bị Công An HCM bắt giam trái phép với tội danh “lợi dụng việc khiếu kiện để vu khống nhằm hạ thấp danh dự nhân phẩm của người khác”.

Ngày 23-03-2006 tôi bị Tòa Án HCM xét xử 2 năm tù giam, ngày 19-08-06 tôi hết hạn tù và được thả.

Sau khi ra tù, nhà cửa tôi bị chính quyển ủi sập tan nát rồi chiếm luôn đất đai của tôi. Con tôi còn nhỏ và đang đi học nhưng không có nhà ở phài ra đường sống, bỏ học tự kiếm ăn trong dân chúng.

Khi tôi bị tù, con tôi có theo anh Phương Nam ra Hà Nội khiếu kiện. Còn vợ tôi bị khủng hoảng, suy sụp tinh thần trầm trọng lúc chính quyền đem Công An, lực lượng dân phòng đến trấn áp, đập nát chỗ ở của mẹ già và vợ con tôi, nên lâm trọng bệnh về tim và gan, đang cấp cứu tại bệnh viện nhưng không tiền thuốc thang chắc khó sống !

Thưa quí vị.

- Trong phiên tòa xử tôi, báo Tuổi Trẻ ngày 24-03-2004 có viết: “Không khí như phòng tiếp dân… không ai nhắc đến “lời vu khống” là nguyên nhân dẫn đến phiên tòa.”

- Khi phiên tòa xử tôi, vị hội thẩm nhân dân bên tay phải chánh án Nguyễn Đức Sáu đặt câu hỏi cho tôi thì ông chánh án Sáu nói: “Có gì mà hỏi, người ta chỉ viết đơn thôi”. Trước lời phản đối phiên tòa oan ức nầy của tôi, ông Sáu chánh án buộc phải thốt lên: “Tòa đã trả hồ sơ nhiều lần nhưng họ buộc phải xử, nay tòa buộc phải xử như vậy”. Và “Viện Kiểm Sát”, viện cứ truy tố đấy, còn thêm hình phạt 5 triệu đồng. Trong khi đó, một Luật sư tham dự là người quan sát phiên tòa có nhận xét: “Xử như vậy mà không biết ngượng!” và nhân dân rất bất bình khinh bỉ phiên tòa như là công cụ bảo vệ kẻ giàu và người quyền thế để ức hiếp dân lao động nghèo khổ cùng đường như chúng tôi.

Thưa quí vị,



Căn nhà tôi mua của ông Nguyễn Văn Tài và bà Lưu Thị Ngọc Trâm. Năm 1997, nhà nầy chủ cũ đã xử dụng ổn định trước 15-10-1993 và 245 căn nhà của dân nghèo trong khu phố tổ 20, phường 26 Bình Thạnh là mua bán hơn 10 năm chứ không chiếm dụng. Tôi là Mục sư phải viết đơn khiếu nại cho bà con nghèo và cho chính mình để tố cáo sự lợi dụng chức quyền của Ông Nguyễn Quốc Hùng, quyền chủ tịch UBND quận Bình Thạnh, tiến hành thu hồi đất nhà chúng tôi đang xử dụng là trái với Quyết Định 194/QĐ-CP/1993 thu hồi 198.470 m2 để làm đường Đinh Bộ Lĩnh. Ông Hùng cố tình làm hơn như quyết định 93/QĐ-CP đã ghi. Nhà đất chúng tôi cách đường hơn 100 mét, nếu chính phủ muốn lấy đất dân thì phải làm đúng luật đất đai, trong khi quá nhiều đất công thì biến thành “đất ông cán bộ”.

Việc tòa án xét xử không công bằng, trong suốt thời gian giam cầm trong tù tôi liên tục làm đơn khiếu nại, nhưng chính quyền vẫn lạnh lùng làm ngơ cho đến hôm nay.

Thưa quí vị,

Hôm nay tôi làm đơn tố cáo nầy, mong quí vị giúp giải oan cho dân nghèo bị hà hiếp triền miên như chúng tôi. Tôi mong chờ cộng đồng quốc tế, nhất là Liên Hiệp quốc xét lại tư cách thành viên của Việt Nam. Việt Nam vào Liên Hiệp quốc để trục lợi, còn nghĩa vụ tôn trong các cam kết quốc tế thì lờ đi, nhất là lãnh vực nhân quyền.

Tôi mong Tòa án Hoa kỳ ra lệnh bắt giữ những tên quan lại độc ác vi phạm nhân quyền của Việt Nam khi họ đến Mỹ theo luật Mỹ.

Tôi mong những người còn lương tâm, trách nhiệm trong chính phủ Việt Nam cộng tác với những công dân can đảm đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền cho nhân dân.

Cảm ơn quí vị.

Người tù oan : Dương Kim Khải

*******


Thông tin thêm về

ông Dương Kim Khải :

- Là cán bộ của sở lương thực Hà Nội, ông bị ghép tội hiếp dâm, tù 13 tháng, từ 08-07-1985 đến 08-08-1986. Ông kêu oan, được miễn truy cứu, trả tự do nhưng không giải quyết quyền lợi sau 13 tháng tù. Khi còn công tác ông Khải là người can đảm nói thẳng nói thực nên bị trù dập.

- Ông dắt mẹ vào Nam tìm đất sống, tin Chúa, dâng mình phục sự Chúa. Vì tính cương trực ghét giả dối, sống hòa mình với dân lao động, ông luôn bị các chức sắc tôn giáo né tránh, sợ bị liên lụy. Ông bị bắt tại quận I hai lần, quận Tân Bình 2 lần, quận Bình Chánh 2 lần, quận Bình Thạnh 2 lần về tội nhóm họp truyền Đạo trái phép.

- Ông là Mục sư từng cộng tác với Hội thánh Báp-tít độc lập, và Ông đã công tác bán chính thức với Người Mennonite 5 năm trong công tác thiết lập 2 lớp học tình thương cho hơn 100 thiếu nhi nghèo, thất học, con của các gia đình có thân nhân bị tù hình sự. Ông cũng là người bảo vệ các truyền đạo Mennonite bị đánh đập khi dạy học mà “chính quyền chưa thuận” tháng 08-2001.

- Trước khi bị bắt giam, Mục sư Khải đã công tác với nhóm Mennonite, nộp lộn hồ sơ vào nhóm Mennonite quốc doanh. Họ yểm hồ sơ, và không hề thừa nhận hay có bất kỳ sự thăm nuôi nào đối với ông. Ông chỉ nhận sự san sẻ rất nhỏ từ Giáo hội Mennonite độc lập vì Giáo Hội lúc nầy từ Tổng Hội đến các Hội thánh địa phương trên Tây Nguyên đều có người bị tù!!!

- Ngày 06-12-2006, vợ Ms Dương Kim Khải đã bị bệnh viện “cưỡng bức” phải xuất viện vì lý do không có tiền, mặc dù bệnh tình rất trầm trọng và nguy kịch. Hiện nay, gia đình Ms Khải ở nhờ một căn phòng trên gác gỗ 7m2 thuộc khu Thanh Đa quận Bình Thạnh. Gia đình không còn gì để sống, chỉ nhờ lòng từ thiện của mọi người. Tiền mua thuốc hay chữa bệnh là chuyện không tưởng của Mục sư.

Chính quyền TP.HCM đã đẩy người dân thấp cổ bé miêng vào con đường cùng qua chính sách QUI HOẠCH, cướp mất chỗ ở không đền bù, đẩy MS Khải vào con đường tù tội, đẩy Hội thánh Tin lành Tư gia của ông phải tan rã, đẩy vợ con ông ra đường không chỗ ở. Và hôm nay, vợ ông với bệnh tình nguy kịch đến tính mạng, đang nằm tại bệnh viện, phải ra khỏi giường bệnh của bệnh viện gọi là “Bệnh viện Nhân dân Gia Định” chỉ vì cùng khổ không có tiền trả viện phí!!! (x. Giấy ép xuất viện ngày 18-09-06 và ngày 05-12-06 của bác sỹ Nguyễn Anh Dũng ký).

Đt của Ms Khải: 0938.037.810. Hiện tạm dung tại nhà ông Thịnh số 8/1 Xô-viết Nghệ Tĩnh, phường 27, quận Bình Thạnh, Tp. HCM, hẻm sau gần nhà Bà Bích Cưu. Mời mọi người đến xem và chứng kiến thảm cảnh gia đình Ms Khải, Cựu Tù nhân Lương tâm.



Với những việc tham những, cường hào, oan khúc xẩy ra hằng ngày tại VN, chúng tôi xin phép được hỏi quí ngài lãnh đạo hiện nay (quý ngài Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng) có giải pháp nào để ngăn chặn những việc trên hầu giúp dân nghèo được tồn tại.

Người đưa tin

Ms Nguyễn Hồng Quang

H.Trưởng HT Mennonite VN

Cựu Tù nhân Lương tâm.

Kính gởi các Ông

Phạm Nguyễn, Ngọc Thuần, Mai Thanh Phong, Trần Khả Đạo, Trần Kiến Sắc, Nguyễn Châu Hợp

Thưa quý Ông,

Mấy lúc sau nầy tên tuổi của chúng tôi, qua máy điện toán (Internet), đã được Đồng Đạo khắp nơi biết đến, khiến chúng tôi lấy làm xấu hổ, trong khi chỉ muốn âm thầm làm việc đạo sự với tấm lòng thành, chớ không phải vì danh vì lợi như vài Tín Đồ khác. Chúng tôi chỉ muốn bảo vệ Tôn Giáo và chống việc di Liên Đài mà chúng tôi cho là trái ý muốn của Đức Hộ Pháp.

Nay mượn tiếng loa Internet chúng tôi xin thâm cảm Đồng Đạo năm châu đã tán thành và ủng hộ đường lối và chủ trương của chúng tôi. Diện tiền là hằng ngàn Đồng Đạo đã đứng tên cùng với chúng tôi, ngay sau khi kêu gọi đệ đơn phản kháng lên Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên. Tiện đây chúng tôi cũng xin lỗi một số đông Đồng Đạo khác đã ký tên sau, mà chúng tôi phải dành lại một bên để gởi đơn cho kịp thời hạn với con số tạm là 1,026 Tín Hữu.



I- Hai cách dịch.

Qua Internet các Ông tố cáo rằng chúng tôi đã dịch sai, hiểu sai di ngôn của Đức Hộ Pháp.

Các Ông thừa hiểu có hai (2) cách dịch : dịch theo tinh thần hay theo văn từ.

1- Dịch theo văn từ là: “dịch theo từng chữ một. Chú trọng tới ý nghĩa khít khao của bản văn”. (Câu của Pháp : “Qui suit le mot lettre à lettre. Qui s’attache au sens strict du texte” (Th/c. Từ điển của Pháp : Dictionnaire «Le Petit Robert» trang 601).

2- Dịch theo tinh thần : Theo từ điển của người Việt Nam cũng có câu : “On doit interpréter chaque mot et chaque phrase d’un texte non pas isolément mais en tenant compte du contexte” tức là «không nên giải thích cách tách rời từng chữ và từng câu của một bài văn, mà phải chú trọng đến hoàn cảnh nào và trạng huống nào mà bản văn đã được viết ra» (“Pháp-Việt Tân từ điển minh họa” của Thanh Nghị, trang 320).

II- Hoàn cảnh lịch sử khi khai sinh «Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống» .

Vậy phải hiểu trong hoàn cảnh nào, trong trạng huống nào Đức Hộ Pháp đã di ngôn. Mọi người đều nhớ tới Hiệp Định Genève năm 1954 chia đôi đất nước và trù liệu việc thống nhất bằng tổng tuyển cử. Mọi người cũng còn nhớ tại Hội nghị Bangdung năm 1955, 29 Quốc gia Á Phi quyết định theo chính sách «Trung Lập», nghĩa là không theo Tư Bản cũng không theo Cộng Sản, nhiên hậu mới có «Hòa Bình». Mọi người cũng không quên, chủ trương theo Mỹ, tức là khối tư bản của Đệ Nhứt Cộng Hoà. Do đó Đức Hộ Pháp biết rằng sẽ không có tổng tuyển cử để đi đến thống nhất cho nên Đức Ngài mới thoát ly ra khỏi nước và tá túc tại xứ Cao Miên, mà Quốc Vương NORODOM SIHANOUK lúc bấy giờ đang chủ trương trung lập để đi đến hoà bình. Như vậy Đức Hộ Pháp đã ra đi vì muốn tránh nhìn cuộc đổ máu giữa đồng bào Nam Bắc và kết thân với Quốc Vương NORODOM SIHANOUK, vì cả hai cùng có 1 quan điểm giống nhau để cứu dân cứu nước. Chính trong hoàn cảnh đó, trong trạng huống đó mới hiểu di ngôn của Đức Ngài, mà ý chánh là tổng tuyển cử để «Thống nhất bằng lá phiếu chớ không phải bằng Sư Đoàn», và «Trung lập» hầu tránh chiến tranh cho đất nước và mang lại «Hoà bình».

Mặc dầu hoàn cảnh ngoại giới đã đổi thay sau nửa thế kỷ, nhưng phải hiểu chữ «Thống nhất, Trung lập và Hoà bình», như vậy mới lãnh hội được tinh thần của di ngôn. Và tự đặt câu hỏi «cộng hoà xã hội chủ nghĩa» hiện nay có trung lập hay không, hay vẫn là cộng sản mà Đức Hộ Pháp đã cực lực chống đối vì phi tôn giáo. Như thế cần chờ xem nhà nước Việt Nam có ý định gì khi xin Chính Phủ Hoàng Gia Cao Miên cho di Liên Đài về nước. Cũng vì vậy chúng tôi không lưu ý để làm gì tới bản dịch đương thời của Quý vị khác hẳn bản dịch chính thức từ nửa thế kỷ trước của Toà Thánh Tây Ninh, đã làm căn bản cho lập trường của chúng tôi (Th/c : Quyển «Con Đường Hòa Bình Chơn Thực» của Đức Hộ Pháp (1954-1959), trang 27). Thay vì cố gắng dịch nghĩa «et, ou, or, car, donc» và tranh luận với nhau.

Kết luận.

Chúng tôi cố gắng tìm hiểu như trên tinh thần di chúc của Đức Hộ Pháp một cách khách quan trong hoàn cảnh lịch sử của di chúc và trạng huống tâm tư của Người di ngôn.



Chúng tôi chỉ biết lấy tâm đạo mà tìm hiểu chân lý, bình luận trên bình diện chủ trương và đường lối, mà không tìm biết cá nhân của những người đối thoại là ai, xấu đẹp ra sao, có nốt ruồi Ngụy Diên trên trán hay mụt ghẻ Tần Cối sau lưng.

Trân trọng.

Hiền Tài Nguyễn Thanh Liêm

tại Mỹ Quốc

Hiền Tài Lê Trung Cang

tại Pháp Quốc
Đừng nghe những gì Cộng sản nói ! Hãy nhìn những gì Cộng sản làm ! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi !!!
Kính gởi

Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI

Tòa Thánh Vatican

Kính nhờ Đức Khâm Sứ Toà Thánh tại New Zealand chuyển giao

Đồng kính gởi

Đức Hồng Y G.B Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Sài Gòn. Đức Cha P. Nguyễn Văn Hòa, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Đức Cha Patrick Dunn, Giám Mục Giáo phận Auckland New Zealand. Đức Ông Barnaba Nguyễn Văn Phương, Thánh Bộ Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc. “Để kính tường”

Kính thưa Đức Thánh Cha,

Chúng con, những người Công Giáo Việt Nam và một số người Việt Nam không theo đạo Công giáo ký tên dưới đây kính gởi lên Đức Thánh Cha tâm tình yêu mến chân thành. Riêng những người Công giáo, chúng con tạ ơn Chúa đã chọn Đức Thánh Cha làm mục tử chăn dắt đoàn chiên Chúa, chúng con xin bày tỏ lòng tôn kính và vâng phục của những người con hiếu thảo. Trong tâm tình đó chúng con xin trình bày nguyện vọng thiết tha của chúng con với ước mong được Đức Thánh Cha quan tâm cứu xét.

Năm 2006 là mốc thời gian quan trọng của Dân Tộc và của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam chúng con. Đây là kỷ niệm 30 năm nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đổi tên thành phố Sài Gòn thân yêu của Dân Tộc Việt Nam ra Thành Phố Hồ Chí Minh và cũng là năm thứ 30 Toà Thánh đổi tên Tổng Giáo Phận Sài Gòn trở thành Tổng Giáo Phận Thành phố Hồ Chí Minh, như đã được ghi trong Niên Giám 2004 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Kính thưa Đức Thánh Cha,

Chúng con không có ý xen vào việc quản trị của Toà Thánh trong việc đặt tên các Giáo phận. Chúng con chỉ muốn nói lên sự ngỡ ngàng và tâm trạng bất an trước sự kiện một Tổng Giáo Phận của miền Nam Việt Nam là Tổng Giáo phận Sài Gòn bị mất tên, và từ nay phải mang cái tên Hồ Chí Minh là người đứng đầu chế độ vô thần. Việc người cộng sản Việt Nam dùng tên Hồ Chí Minh để thay cho tên gọi Thành phố Sài Gòn đã có 300 năm lịch sử, đã gây ra sự phẫn uất cho đại đa số đồng bào chúng con, nhất là những nạn nhân của chế độ Cộng sản và thành phần dân tộc ở miền Nam Việt Nam. Cũng vậy, việc Toà Thánh đổi tên Tổng Giáo phận Sài Gòn trở thành Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh càng gia tăng thêm sự bất mãn và tủi nhục cho những người Công Giáo Việt Nam chân chính. Chúng con cảm thấy đau buồn khi mà một Tổng Giáo Phận của miền Nam chúng con phải mang cái tên của kẻ khai sinh ra chế độ Cộng sản vô thần, một chế độ đã và đang tìm cách hãm hại tất cả các tôn giáo tại Việt nam. Một điều rất đáng nói là mặc dù tên Hồ Chí Minh đã được áp đặt để thay cho Thành phố Sài Gòn trong chính trị và Tổng Giáo Phận Sài Gòn trong Công giáo, nhưng ngày nay đại đa số người Việt Nam đều gọi Sài Gòn khi nói về Thành phố Sài Gòn, và Tổng Giáo phận Sài Gòn khi nói về Tổng Giáo Phận Sài Gòn vì không ai muốn đặt cái tên Hồ Chí Minh trên môi miệng của mình.

Kính thưa Đức Thánh Cha,

Trước khi bước vào năm 2006, kỷ niệm 30 năm Sài Gòn mất tên, khi mà sự sợ hãi của người dân Việt Nam đã lắng dịu xuống, một số đông đồng bào chúng con trong và ngoài nước đang tổ chức thành một phong trào bất bạo động, mang tên PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN lên tiếng bài bác tên gọi Thành phố Hồ Chí Minh và đòi nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả lại tên Sài Gòn lại cho Dân Tộc Việt Nam, và phong trào này càng ngày càng lớn mạnh trên tồn thế giới. Cũng trong chiều hướng đó, chúng con kính xin Đức Thánh Cha cảm thương cho sự tủi nhục của những người Công Giáo Việt Nam chân chính và đổi tên Tổng Giáo Phận Thành phố Hồ Chí Minh trở lại tên nguyên thủy của nó là Tổng Giáo Phận Sài Gòn cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đang đồng hành với các tôn giáo bạn trong cộng đồng dân tộc và tất cả các tôn giáo tại Việt Nam đều là nạn nhận của sự đàn áp của chế độ vô thần Cộng sản Việt Nam. Một điều chúng con ghi nhận là không một tôn giáo nào khác tại Việt Nam dùng tên Hồ Chí Minh để gọi cho một cơ sở, một tổ chức, một địa điểm nào của họ, ngoại trừ Giáo Hội Công Giáo đang dùng cái tên Hồ Chí Minh làm tên gọi cho một trong ba Tổng Giáo Phận của mình. Về phương diện hành chánh, một Tổng Giáo phận bao gồm nhiều Giáo phận, nhiều tỉnh và nhiều thành phố nên việc 9 Giáo phận khác từ nay phải nằm trong vùng có tên gọi Tổng Giáo Phận Thành phố Hồ Chí Minh là một sự bắt buộc nghịch lý.

Kính thưa Đức Thánh Cha,

Chúng con thành khẩn bày tỏ nỗi lòng trong Thỉnh Nguyện Thư này, kính xin Đức Thánh Cha cứu xét nguyện vọng thiết tha này của chúng con. Kính chúc Đức Thánh Cha tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa và nhiều sức khoẻ để chu toàn sứ vụ nặng nề Chúa đã giao phó cho Đức Thánh Cha. Xin Đức Thánh Cha ban phúc lành cho chúng con.

Làm tại Thành phố Auckland, New Zealand.



Ngày 22 tháng 12 năm 2006

L. mục Anrê Nguyễn Hữu Lễ

Sáng lập viên và Đại diện PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN

P.O Box 17-516, Greenlane

Auckland. New Zealand

Còn nhớ, thời 1975, TBT Lê Duẩn ôm mộng lớn, muốn làm gạch nối hòa hợp hòa giải hai đàn anh vĩ đại, muốn VN trở thành bàn đạp nhuộm đỏ toàn vùng Đông Dương thành một khối, muốn CSVN đời đời toàn trị VN một cách hiến định...

Cái nguyên trạng 1975 đó đã vỡ nhiều lần sau hai trận chiến Tây Nam và chính Bắc; sau hai đận ngửa tay xin thế giới cứu đói; sau lần cúi đầu xin kẻ cựu thù đế quốc hủy bỏ cấm vận; và sau cơn lốc domino Đông Âu cùng Liên Xô cũ.

Cái nguyên trạng vào cuối thập niên 80 cũng vỡ theo đà “đổi mới”. Hợp tác xã bị hợp tác viên xóa sổ. Chế độ tem phiếu hộ khẩu chết đứng, lôi theo hệ thống bao cấp và những đặc quyền đặc lợi. Kinh tế kế hoạch tập trung từ tốn đi vào quá khứ. Mác-Lê bỗng chốc thành một bóng ma. Đảng mất điểm tựa cả tư tưởng lẫn kinh viện. Đảng viên xé lẻ vơ vét lợi quyền bằng mọi cách, thậm chí cả cách xà xẻo tiền cứu trợ. Nhũng lạm là xu thế thời đại của cả đảng. Con bạch tuộc có toàn bộ phương tiện bao che cho chính nó. Chống tham nhũng là chống đảng.

Đầu tư nước ngoài đổ vào VN trong cuối thập niên 90 làm vỡ cái nguyên trạng thời đó thành nhiều mảnh nhỏ. Cơ chế xin-cho chỉ còn giá trị hành dân là chính. Địa phương tự ý vận động nguồn ngoại tệ. Tỷ lệ quyền lợi của các lãnh chúa từng vùng cát cứ được tính trên dự án, không còn do khả năng ban phát của đảng. “Trên bảo dưới không nghe” trở thành quy luật tất yếu.

Từ đó tới nay, đảng mất dần khả năng toàn trị. Áp suất bủa dồn tứ phía. Phải thay luật và cải tổ hành chính xoành xoạch mà doanh nhân nước ngoài vẫn chưa thấy hài lòng. Tối huệ quốc với Nhật và Mỹ là những xoay sở mười năm. Campuchia đa đảng đã nhanh chân vào WTO. Những chi phối chính trị từ Bắc Kinh lấn sâu tận sân sau BCT Hà Nội. FDI lăn vào miệng vực, rơi tự do. CPC & PNTR của Mỹ lơ lửng từng năm. Dân oan khiếu kiện nhếch nhác lau nhau bát nháo cả thủ đô. Hoạt động dân chủ hóa VN từ giới đối kháng bung rộng ra thành phần trí thức trẻ, thậm chí rất trẻ. Ủy viên TW đua nhau tẩu tán tài sản ra nước ngoài. Cán bộ trung tầng khinh miệt lãnh đạo. Cán bộ hạ tầng tự tung tự tác. Thời đại Internet với 13.8 triệu email trong nước. Tường lửa dễ vượt hơn đua xe máy. Công nhân đồng loạt đình công. Đảng không bưng bít được hành vi hủ hóa của cán bộ các cấp, kể cả cấp TW. Nghị quyết pha chè. Chính sách vá víu. Chuyên cơ Air Force One đã đáp xuống sân bay Nội Bài và vừa mới đáp lần nữa, ở cả Tân Sơn Nhất. Công an, Quân đội tự tìm đường “mua bảo hiểm” tương lai và sẵn sàng đi đêm...

Cái nguyên trạng 2006 của đảng, nếu chính thức trích dẫn từ Bản giải trình của ông Nguyễn Phú Trọng trong Đại hội Đại biểu Toàn đảng X vừa qua thì quả nhiên: “Nguy cơ chệch hướng XHCN là có thật”. Thực tế sát sườn là đảng “đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp không thể coi thường bất cứ thách thức nào”.



Cái nguyên trạng cần giữ đã teo tóp lại ở một góc nhỏ, thậm chí rất nhỏ, theo tuyên bố bế mạc đại hội vừa nói của ông Nông Đức Mạnh, là: “để tiếp tục hoàn thiện và phát triển đường lối, quan điểm đổi mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay của nước ta”. Nói nôm na là để đảng vẫn duy nhất có tên trên hiến pháp và để giữ cơ hội “sửa sai”. Thực tiễn, cái góc rất nhỏ ấy ra sao?

1. Cái nguyên trạng teo tóp 2006 cũng đã vỡ - Đảng CSVN đang thu nhỏ dần. Những lớp vỏ bao bì của đảng đã bị lịch sử và thực tiễn khoan thai bóc từng lớp. Trước tiên là nền tảng tư tưởng và lý luận. Từ cụ Mác tới bác Hồ là một khoảng cách tính bằng năm ánh sáng. Thảm đỏ trải dài long trọng đón tiếp hầu hết cựu thù. Kế tiếp là khả năng quản lý đất nước bị lột trần. Việt Nam bị nhận chìm trong thế giới thứ ba. TW chèo chống con thuyền đảng bằng những que tăm. Quân đội thi đua làm kinh tế. Đơn vị nhỏ cạnh tranh cùng bọn cửu vạn cửa khẩu. Đơn vị to cạnh tranh cùng bưu điện, cung cấp cả phương tiện truy nhập mạng cho dân qua dịch vụ viễn thông. Công an bị nhận giếng hay bị bắt làm con tin, những cuộc thẩm vấn ép cung bị trình làng trên mạng thông tin. Quốc hội “nổi loạn”. Bức tranh Mặt Trận Tổ Quốc đã bị nhân dân treo ngược bằng những tổ chức ngoài luồng. Tham nhũng là một thứ ung thư đã đẩy con bệnh đảng vào thời kỳ chót...

Sự sợ hãi trước đây của dân nay đã được chuyển nhượng miễn phí về cho đảng. Những đối phó của đảng có hệ thống từ luật pháp, nghị định, sắc lệnh và nhà tù... đã teo dần thành xích sắt khóa ngoài cổng nhà đối kháng.



2. Cái nguyên trạng teo tóp 2006 cũng đã vỡ - Đảng CSVN không “được phép” và cũng không còn quyền “cho phép”. Đảng không được phép tiếp tục độc quyền cai trị đất nước bằng những nghị quyết sai trái, nhân danh thiện chí sai đâu sửa đó, một khi đại hội X đã công khai thừa nhận: “Lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH như hiện nay của chúng ta vẫn chưa ngang tầm với những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, của yêu cầu phát triển và hiện đại hóa xã hội”. Đảng không được phép nhập nhằng ví von đảng là tổ quốc, đảng là dân tộc, cả cái nhỏ nhất, đảng là đại diện của giai cấp công nhân, một khi mà đảng tiên phong trong việc cấu kết với giới chủ nhân người nước ngoài để bóc lột chèn ép công nhân trong nước. Đảng không được phép nhân danh bất kỳ một “sứ mệnh” nào, bởi chẳng từng ai trao gửi qua bất kỳ một cuộc trưng cầu dân ý nào. Trong một tương lai không xa, đảng cũng phải sửa bản Điều Lệ vì không thể và không còn được phép chuyên quyền sử dụng ngân sách quốc gia cho sinh hoạt riêng của đảng nữa. Đó là nguyện vọng và là đòi hỏi của đại khối dân tộc, một phần đã phản ánh qua tiếng nói của một số đại biểu QH.
Đảng cũng không còn quyền cho phép lập hội hay ra báo. Các tổ chức xã hội, công đoàn độc lập, đoàn thể công-nông, thậm chí là đảng phái chính trị,... đã đơn phương chính thức áp dụng bộ luật tối cao là Hiến Pháp để tự lập tự quản, và sinh hoạt không cần cấu vào ngân quỹ quốc gia, tiến dần lên trình độ hoạt động liên đới dưới hình thái của những hiệp hội hay liên minh. Song song đó tất yếu sẽ là những hội nhà báo độc lập, và những tờ báo quy tụ những ký giả, phóng viên độc lập đã từng từ chối viết bài theo đơn đặt hàng, hay từng bị dàn báo đảng từ chối đăng bài xiển dương sự thật. Đây chính là dấu ấn của thực quyền dân chủ.

3. Cái nguyên trạng teo tóp 2006 cũng đã vỡ - Quần chúng đang kết hợp thành một sức mạnh mới. Bài học đàng sau những cuộc đình công thắng lợi ở Sóng Thần-Linh Trung là một thông điệp lớn gửi đến nhân dân cả nước: “Phải Đòi Mới Được”. Kết quả rành rành trước mắt. Một người đòi không xong, nhưng 18.000 người ra cổng đứng hút thuốc với nhau thì được tăng lương. Một xí nghiệp đòi không xong, nhưng hàng trăm xí nghiệp cùng rửa tay nghỉ việc thì tỷ số hối đoái tính lương được điều chỉnh cập nhật ngay bằng nghị định của chính phủ. Kết quả lan truyền nhanh ngang tầm vận tốc các máy vi tính. Nhân dân đang kết hợp nhau dưới nhiều dạng khác, ở nhiều thành phần khác, để cùng nhau đòi hỏi kỳ được không chỉ những quyền lợi thiết thân, mà còn là những công bằng tối thiểu. Tám mươi triệu người VN đã thấy ra mọi hệ quả thảm khốc đất nước và dân tộc đã oằn lưng gánh chịu sau nửa thế kỷ thao túng bởi chưa tới 200 người trong TW đảng CSVN. Tám mươi triệu người đó đã thấy ra sức mạnh thật sự đang nằm ở đâu. Hứa hẹn cũ đã phai. Niềm tin xưa đã nhạt. Lằn ranh mới đã vạch. Sức mạnh mới đã tỏ. Ôn hòa là phương châm. Đối đầu là ý chí. Đối đầu bất bạo động chính là lộ trình dân chủ hóa.

4. Cái nguyên trạng teo tóp 2006 cũng đã vỡ - Khát vọng đa nguyên đã biến thành hành xử đa nguyên. Nắm tay nhau đi từ tâm thức đến hành động, nhân dân VN đã tự “xã hội hóa” nhiều diện sinh hoạt, từ vi mô tới vĩ mô, trước khi nhà nước dán nhãn nó thành chính sách. Khoán ruộng là một biểu hiện lớn. Khuyến học là một cụ thể khác. Cứu trợ bão lụt cũng là một thực tiễn từ thời cả nước còn phân chia giai cấp thiếu đói và đói gay gắt. Tờ “Người Sài Gòn” đã truyền thừa tâm ý qua các tờ “Thao Thức”, “Phù Sa”, “Canh Tân”... và gần nhất là tờ “Tự Do Ngôn Luận”. Nhân dân thấy ra nửa thế kỷ chờ đợi nhà nước giải quyết từng vấn nạn là một thời gian quá lâu. Mười đại hội đảng vừa qua đã tự trả lời cho nghi vấn của cả nước: Chắc gì nhà nước có đủ thiện chí hay khả năng giải quyết trong nhiều năm tới? Những thế hệ mới của nhân dân không thể chờ thêm đến đời con cháu họ. Nhân dân đã tự giải quyết lấy các vấn đề xã hội sát sườn, kể cả việc tự lập hội để kề vai nhau giải quyết các vấn nạn tại địa phương. Quy trình tự lo lấy đó là nền móng của sinh hoạt đa nguyên trong xã hội. Con đường không thẳng và chưa phẳng, đó đây vẫn còn những chỗ lồi lõm gồ ghề, nhưng mọi người đều thấy đó là cột mốc của các xa lộ thông thoáng trong một tương lai gần. Rõ ràng, xã hội VN đang trên đường xây dựng một định chế dân sự mới. Cốt lõi của nó chính là giá trị củng cố và phát huy sức mạnh liên kết của cả dân tộc, cả trước lẫn sau khi chấm dứt nạn độc tài, dù là độc tài cộng sản bây giờ hay độc tài không cộng sản về sau.


Màn Show APEC vừa chấm dứt chưa  được hai tuần thì Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã vội vã tung ra chỉ thị 37/2006/CT-TTg để dằn mặt báo chí Việt Nam, theo đó chính phủ Việt Nam không cho phép thực hiện công cuộc tư nhân hóa truyền thông dưới bất cứ hình thức nào và sẽ không để cho bất cứ ai lợi dụng báo chí đã phục vụ lợi ích riêng tư và gây phương hại cho lợi ích của nhà nước. Sau khi tìm đọc được bản văn chính thức (trong doithoai. com), tác giả đã khóc lên ba tiếng và cười lên ba tiếng.

Cái khóc thứ nhất là dành cho sự nghiệp chính trị của TT Nguyễn Tấn Dũng. Trong những ngày đầu khi nhậm chức, ông đã tỏ vẻ muốn canh tân hoá Việt Nam bằng những chuyến công du Phần Lan, Nhật Bản, đón mừng các nước tự do dân chủ tại  APEC. Là một vị TT trẻ nhất trong chế độ CSVN, ông cũng đã đem lại ít nhiều hy vọng trong giới trẻ ở Việt Nam. Với chỉ thị 37, ông đã chứng tỏ ông chỉ là một robot điều khiển từ xa của Bộ Chính Trị (BCT) đảng CSVN, mà trong đó phe nhóm tham nhũng, độc tài Mafia Đỏ vấn còn nắm phần thượng phong. Cái hình ảnh ông đứng oai phong trả lời các đại biểu quốc hội "đảng cử dân bầu", phát biểu trong APEC trước các doanh nhân đã tan biến theo mây gió. Cái anten XHCN của ông của ông lộ rõ mồn một. Ông làm cho người ta nhớ tới một vua Tự Đức xưa kia mỗi ngày, trước khi đi chầu còn vào khoanh tay hỏi mẫu hậu và có khi còn bị phạt đánh đòn! Thật vậy, không thể nào một văn kiện quốc gia mà  ngay trong chương đầu ghi "...Thực hiện nghiêm túc kết luận của BCT tại Thông báo số 41-TB/TW ngày 11-10-2006". Thế thì tỏ rõ ông chỉ là một "hoàng nhi" của "mẫu hậu" BCT, một cơ quan không có một bằng chứng pháp lý gì trong Hiến Pháp Việt Nam, kể cả trong Hiến Pháp 1992! Ông đừng vì chữ "hiếu" với đảng mà quên mất chữ "trung" với nước.



Cái khóc thứ hai là tiếc cho sự nghiệp nói dối và cho cái túi tiền của của BCT đảng CSVN. Đảng Cộng Sản có cái đặc tài là nói dối không biết ngượng. Trước WTO /APEC, CSVN đã đóng vở tuồng cởi mở "trăm hoa đua nở" để lấy lòng Mỹ. Đơn xin gia nhập chưa ráo mực, họ lại dở trò gian dối giống như ngày xưa "cha ông" của họ đã làm trong các vụ Cải cách Ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm và gần nhất là vụ cải tạo quân dân Việt Nam Cộng Hoà. Họ muốn chứng tỏ cái đuôi XHCN vẫn còn, muốn chứng tỏ rằng họ vẫn là những ông trời con ở nước Việt, có lẽ đang sửa soạn bài vở với đảng CS Trung Quốc để khoe khoang là đã đánh lừa được các nước tự do lần thứ hai, nhưng đó là một nước cờ sai lầm. Qua Chỉ thị 37, mọi người thấy những hứa hẹn tự do kinh doanh của chính quyền trong APEC chỉ là một là một cái bẫy lớn của tập đoàn Mafia Đỏ đang giăng ra và BCT đang ngang nhiên xuất hiện đòi tiền mãi lộ. Thế giới ngày nay đã khác rồi, những trò khôn vặt của CSVN chỉ có thể hù họa những doanh nhân Việt Nam, đa số là Việt Kiều, đang hí hửng đem tiền hưu về mua nhà. Những tập đoàn quốc tế thì họ không sợ, vì ai mà dám cướp công nghiệp của các tập đoàn AES Transportpower (Mỹ), Intel (Mỹ) hay Blue Scope Steel (Úc). Ngay đến chính phủ của họ còn phải phục vụ cho quyền lợi của họ, thì họ có sợ gì một đám lục lâm ở Hà nội? Cái khổ cho đám Mafia Đỏ ở trong BCT là kể từ đây quý ngài sẽ bị "con bò sữa" Việt Kiều cho dứt sữa! Vụ kiện Trịnh Vĩnh Bình còn sờ sờ ra đó, bây giờ lại thêm cái trò cấm báo chí, mai kia chắc còn trò bắt bớ trái phép lấy tiền chuộc nữa! Ai mà thèm về thăm "quê hương là chùm khế chua nữa"? Cứ nằm yên ở Mỹ, Âu mà chờ các ngài đem đặc sản tôm, cá sang mời mọc có phải sướng và oai hơn không? Ba tỉ đô la của đồng bào hải ngoại cho không Việt Nam mỗi năm, sẽ từ từ không cánh mà bay!

      Cái khóc thứ ba là lo giùm cho sự nghiệp văn chương của những nhà báo quốc doanh, các nhà văn nhà nước. Cái Chỉ thị 37 này nói rõ là 600 tờ báo, đài truyền thanh, truyền hình chỉ là những công cụ cho bạo quyền và các "chú" đừng có "lách" có "luồn" bậy bạ mà hại vào thân! Kể từ nay chỉ còn được nhắm mắt viết những bài ca tụng các quan tham càng ngày càng cướp đất của dân đen một cách trắng trợn. Đừng có làm cái trò "đèn đỏ chạy trước ô tô" như vụ PMU 118, đừng có dại dột đăng những bài về thi cử gian lận mà sẽ bị phạt vì vi phạm đến cá nhân của các thầy "đổi điểm lấy tình" hay là các cô ăn tiền đô chạy chỗ học.

Cái cười đầu tiên chúc mừng cho các luật gia nhân quyền như LS Nguyễn Văn Đài, LS Lê Thị Công Nhân và sẽ còn nhiều vị nữa trong tương lai. Chỉ thị 37 là một bằng chứng rõ ràng về vi hiến trầm trọng của chính phủ Việt Nam. Đây cũng là dịp để từ đó các vị LS nhân quyền xét lại toàn bộ giá trị của những văn bản vi phạm nhân quyền khác. Nếu cái gì không hợp hiến thì nó đâu có giá trị pháp lý. Chỉ thị 37 của Thủ Tướng vì thế cũng chỉ là một con cọp giấy mà thôi!

Cái cười thứ hai để ca tụng cho sự đấu tranh can đảm của Khối 8406, của các hội đoàn tự do nói chung và của báo chí tự do ở trong nước như các tờ Tự Do Ngôn Luận, tờ Tổ Quốc, tờ Tự Do Dân Chủ và các tờ điện tử hải ngoại như quý bạn đang đọc nói riêng. Tuy số báo phát hành còn nhỏ nhoi, được truyền tay từng ngưòi, được đọc lén lút trên mạng nhưng nó đã làm rung động chế độ, đến nỗi TT Nguyễn Tấn Dũng phải hù họa. Thật ra thì các nhà tranh đấu nhân quyền, các nhà văn, nhà báo tự do đâu có sợ gì cái con cọp giấy này! Trước khi CS ra Chỉ thị, ai cũng biết là không có tự do báo chí ở Việt Nam, nhưng các báo vẫn cứ ra, các bài vẫn cứ viết, hồ sơ dân oan vẫn cứ đăng. Tự do báo chí là quyền căn bản của mọi người, được bảo vệ trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc và trong Hiến Pháp của Việt nam. Chỉ thị 37 chỉ là một con cọp giấy dùng để hù họa đám văn nô, chứ nó không có một hiệu quả gì với chúng ta, những người tranh đấu cho dân chủ tự do, cho quyền được làm ngươi dân một xứ có 4000 năm văn hoá. Con cọp giấy "Chỉ thị 37" chứng tỏ cho thấy công việc của chúng ta đã có hiệu quả, tiếng vang đã lan rộng trong và ngoài nước. Các tổ chức nhân quyền quốc tế đang đứng mạnh mẽ sau chúng ta. Ca dao ta có câu "Nực cười châu chấu đá xe!. Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng!" Chúng ta hãy dấn thêm vài cú cho cái xe già nua XHCN té lăn xuống ruộng cho rồi.

Cái cười thứ ba là tin mừng cho toàn  người Việt yêu tự do dân chủ. Ai chúng ta cũng từng nhớ câu nói trứ danh của TT Nguyễn Văn Thiệu: "Đừng  nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn những gì Cộng Sản làm". Con người CS là vậy, nói một đằng làm một nẻo. Cách đây chục năm họ cũng "ngăn sông cấm chợ" thế mà bây giờ lại thành "kinh tế thị trường", còn là bạn chí thân với Mỹ. Khi họ nói "cấm báo chí nhà nước được viết tự do và cấm ra báo tư nhân" thì chính là họ chuẩn bị "cho phép xé rào" đó (!). Tình thế đã thay đổi, hay nói rộng hơn, đám cực đoan trong đảng CSVN đang chuẩn bị hạ cánh ở nơi nào đó. Lê Đức Anh đã trả thẻ đảng, ôm của vào Saigon (Bản tin từ LM Nguyễn Văn Lý, mạng danchu2006.com), và gần đây đám Tư bản Đỏ VN đang chuyển tiền sang Mỹ, sẽ mở trung tâm buôn bán ở California với hàng trăm cửa hiệu. Họ đang tìm một chỗ về hưu an toàn trong cái xứ kinh tế thị trường không có đuôi, với thẻ xanh, và không biết chừng còn xin vào dân Mỹ nữa trong tương lai. Tại sao các Tư bản Đỏ không chuyển tiền sang người anh em XHCN, sang Thượng Hải, sang Moskow mà lại chuyển tiền sang Cali ? Vì chính họ sợ Cộng Sản và thích Mỹ hơn ai hết (!). Một số các anh chị công an, nhất là các công an cục A42, là nhóm đang góp tay tích cực với đảng Tư bản Đỏ để đàn áp, bắt bớ các nhà tranh đấu dân chủ, hãy tỉnh ngộ đi. Các anh chị đang được sử dụng như những con chốt lót đường để bảo vệ cho gia tài họ được di chuyển an toàn ra ngoại quốc. Đảng CSVN sắp sửa được bỏ ngỏ rồi, các anh chị đừng có bảo vệ chúng mà mang họa! Chúng bỏ đi rồi thì các anh chị ở với ai?  

Chỉ thị 37 không phải chỉ là con cọp giấy mà nó còn cho chúng ta thấy rõ cái mặt thật của BCT (BCC) nói riêng và sự độc đoán của đảng  CSVN nói chung. Qua chỉ thị 37 chúng ta thấy rõ sự độc quyền của một nhóm người trong cái gọi là BCT và đám dàn em.  Cả nước Việt Nam dưới thế kỷ 21 dang bị cai trị dưới một nhóm người hơn chục mạng trong BCT và một đám tay sai hơn trăm mạng trong các chức vụ trọng yếu. BCT và tập đoàn ủy viên CSVN độc quyền lãnh đạo đất nước không qua một cuộc bầu cử nào cả, kể cả qua một cuộc bẩu cử "đảng cử dân bầu"! Họ cũng chẳng có một kỳ công nào như giải phòng dân tộc khỏi vòng nô lệ Trung hoa hay Thực dân, hay cả chống Mỹ cứu nước. Họ cũng chẳng qua một kỳ thi tuyển lựa nào cả. Thế nhưng họ lại có thể ra lệnh cho Thủ tướng ký chỉ thị. Họ có thể làm hư hao cả triệu đô la trong những công trình treo, công trình ảo. Họ có thể cầm nhầm cả tỉ bạc Việt Nam. Nếu có bị tố cáo thì họ chỉ bị khiển trách như một đứa bé lỡ ăn cắp quả xoài của ông hàng xóm! Họ ngồi xổm ngang nhiên trên đầu trên cổ nhân dân Việt Nam anh hùng! Họ là con cháu các cụ cả đấy (5C)!

Ngưòi dân Việt ở thành thị ngày hôm nay đa số đã có một đời sống cao hơn chục năm về trước, có được những tiện nghi như tivi, điện thoại di động nhưng tất cả đang sống dưới một TRIỀU ĐẠI ĐỎ, cha truyền con nối. Đời sống người dân chẳng khác con giun cái kiến, mọi nhân quyền có thể bị tước bỏ một cách vô cớ bất cứ lúc nào. Người dân được dạy phải cúi đầu chấp nhận trước các bạo chúa như trong thời đại Trung cổ. Tất cả hệ thống cai trị của CSVN dù được sơn son thếp vàng bằng những huân chương, lời ban khen, bằng những giải thể thao nhưng cuối cùng lại lòi ra một cái đuôi XHCN ghẻ lở, một hệ thống cai trị vô nhân như thời Trung cổ của Âu Châu, cha truyền con nối, cắt đất phong vương cho các đảng ủy -những lãnh chúa thời nay. Một chế độ nô dịch như thời Nga hoàng. Chế độ của CSVN ngày nay còn chưa được bằng thời phong kiến của Việt Nam. Ngày xưa ít ra còn có thi Hương, thi Hội, thi Đình, thi Võ để tuyển người tài, còn có Quan Ngự sử dám ghi chuyện vua giết cha đoạt ngôi vào trong quốc sử (một loại công báo ngày nay) mà không sợ mất đầu. Đảng CSVN đã du nhập một lý thuyết vô cảm, cai trị nước Việt Nam hơn 60 năm một cách đôc tài và đẫm máu trái với tâm tình hiền hoà, đùm bọc của người Việt Nam. Đảng CSVN  đưa đến bao đau khổ cho bao thế hệ. Chế độ CSVN được xây dựng trên một tập đoàn của những "khai quốc công thần" nằm trong BCT. Từ đó họ ban phát cho những kẻ tay sai một chút ít lợi lộc, buôn quan bán chức và dùng những tay sai này để bảo vệ cho cái ngai vàng tập thể là BCT. Chủ trương đó đã tạo nên cho con người ở Việt Nam chỉ biết lạy lục van xin kẻ có quyền thế, hay là một khi có đôi chút quyền lực lại quay ra hà hiếp ngưòi khác.

Tại sao đa số chúng ta lại cam chịu cảnh này không phản đối ? Không phải vì chúng ta không biết mà thật là vì chúng ta sợ họ, sợ đảng CSVN và nhất là sợ BCT. Tại sao chúng ta lại sợ? Vì họ có vũ lực trong tay, họ có gậy, có súng, có nhà tù trong tay, họ có thể đánh, bắt hay thủ tiêu chúng ta.

Đừng dừng sự suy nghĩ của chúng ta tại đây! Chúng ta phải đặt tiếp câu hỏi. Ai là người cầm gậy? Ai là ngưòi cầm súng? Ai là người đi bắt? Chắc chắn không phải là BCT và con cháu của họ. Vì họ đâu có thì giờ! Ban ngày thì họ lo bàn mưu tính kế để ăn cắp của công, ban đêm thì họ bận đi vũ trường, ngày lễ thì họ bận đi chơi với vợ con hay đi tắm biển với bồ nhí.

Cái đau khổ cho chúng ta là chính là những bà con, anh em, bạn bè, cô láng giềng hay anh bạn cùng xóm, những người không phải thuộc về đám "quý tộc đỏ". Họ đã và đang làm công an để cầm súng hăm dọa, để cầm gậy đánh đập, bắt bớ những người bà con, bạn bè thế cô của chính mình. BCT rất thâm độc đã dùng chính nhân dân  để đàn áp nhân dân. Anh hay chị công an nào đó khi đi bắt một ngưòi dân oan, anh chị đó cũng biết mình làm sai, nhưng rồi họ đổ lỗi cho TRÊN. Rồi người này cứ đổ lỗi cho người khác. Rồi ngưòi bị bắt cũng thông cảm dùm cho anh công an, cũng đành chịu câm miệng. Cuối cùng là 83 triệu người cúi đầu trước 15 mạng trong BCT! 83 triệu người chịu làm con ong cái kiến cho 15 con ong chúa, cho 15 ông trời con hơn 60 năm qua!

Chúng ta, những người dân Việt Nam kể cả các anh các chị công an Việt Nam đã quên mất mình là một con người, đã quên mất quyền làm người (nhân quyền) của mình. Một điều quan trọng là không nhận ra rằng:  "Thật ra BCT của đảng CSVN KHÔNG LÀ GÌ CẢ "

BCT đảng CSVN cần chúng ta, chứ không phải chúng ta cần họ.

BCT đảng CSVN sợ chúng ta, chứ không phải chúng ta sợ họ, bởi vì họ cần chúng ta.

Nếu không có nông dân thì ai trồng lúa nuôi tôm cá cho họ, không có công nhân thì ai làm ra các tiện nghi cho họ xài, không có thầy giáo thì ai dậy con em họ, không có chị bán phở thì ai nấu tô phở cho họ ăn? Chẳng những thế họ là những kẻ sống nhờ vào sức lao động của chúng ta. Chúng ta đi làm, chúng ta đi buôn thì chúng ta phải đóng thuế cho chính phủ Việt Nam. Số tiền thuế đó được dùng làm ngân sách quốc gia, dùng để trả lương cho các cán bộ, công an và quân đội. Người cán bộ, công an, bộ đội thì có đồng lương nhất định và rất ít ỏi, còn BCT và đám tay sai thân tín thì vơ vét tha hồ vì chẳng có một cơ quan nào kiểm soát họ cả, chẳng có một luật pháp nào mà họ phải nghe lời. Họ còn ngồi trên cả chính phủ, trên đầu trên cổ nhân dân Việt Nam, họ là những ông trời con nơi hạ giới.

Không có BCT chúng ta vẫn sống, nhưng không có chúng ta là họ sẽ chết.

Người lính Việt nam sẵn sàng bắn vào bất cứ một tên lính Trung Hoa nào dám vượt qua biên giới dù đảng CSVN có hiện hữu hay không hiện hữu. Anh hay chị công an công lộ, sẽ chẳng mất việc khi ông bộ trưởng công an bị cách chức. Thầy cô vẫn ngày ngày đi gõ đầu trẻ dù có thay đổi ông bộ trưởng giáo dục. Toà án vẫn xử kẻ ăn cướp khi ông tỉnh ủy thay đổi. Nhà thương vẫn chữa người cấp cứu dù bà bộ trưởng Y Tế bị sa thải. Chị bán xôi ngoài chợ cũng vẫn đi bán xôi mỗi ngày và trả tiền chợ dù có ông thủ tướng mới. Bác nông dân vẫn ra đồng dù có ông chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc mới. Chị công nhân nhà may vẫn đi làm dù ông Chủ tịch Công đoàn nhà nước bị thay thế.

Mọi sinh hoạt xã hội là thế, nó tuần tự hoạt động như một dàn máy tinh vi. Chúng ta đang sống trong thế kỷ 21, không phải thời Trung cổ. Không phải không có vua là nước sẽ loạn, ngoại bang sẽ xâm chiếm. Các nước theo chế độ đại nghị ở Âu châu có khi cả năm không có chính phủ mà họ vẫn là những nước cường thịnh, thí dụ Bỉ, Ý. Các nước theo Tổng thống chế cũng thay đổi chính phủ và có khi cả tháng chưa có chính phủ. Thí dụ như ở Mỹ mỗi lần có một Tổng thống mới, là có thay đổi cả ngàn chức vụ chỉ huy, nhưng nước của họ với 300 triệu dân có loạn không? Đất nước Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Toàn cầu sống trong chủ trương hoà bình, văn minh. Các nước chiếm nước ta để làm gì ? Một nước nghèo nhất thế giới mà lại nổi danh anh hùng từng đánh Tầu, đánh Tây, đánh Mỹ tan tành manh giáp. Những danh từ "thù địch" mà đảng CSVN đặt ra để hù họa thật là vô nghĩa. Kẻ thù nước Việt chúng ta ngày nay là ai? Mỹ, Úc, Nhật Bản, Korea, Taiwan, Singapor... à ? Nếu họ thù chúng ta sao họ lại bỏ tiền vào xứ chúng ta? Còn Trung Hoa và Nga là "hai người anh em môi hở răng lạnh" không lẽ lại là địch ? Tất cả chỉ là hù họa. Nước Việt Nam ngày nay chẳng có kẻ thù, mà cũng chẳng có ai muốn xâm chiếm làm gì. Ngay cả người Việt Hải Ngoại cũng đâu có ai muốn về. Cứ thử xem trong 100 người đi mấy người về.

Những người đại diện dân phải có khả năng, phải dược sự tín nhiệm của người dân, chứ không thể nào vận mạng của cả 83 triệu người được giao cho đám cha truyền con nối, ỷ quyền ỷ thế, tham nhũng áp bức. Ẩn núp sau những chiêu bài "kinh tế thị trường với định hướng XHCN" hay "coi chừng trật hướng" để đàn áp nhân dân. Bắt bớ những người khác chính kiến, cướp đoạt tài sản người dân hiền lành, chặn tiếng nói của người dân oan bằng những luật lệ do chính mình làm ra chẳng khác một đám cướp ngày. Đất nước là của chung, chẳng phải của riêng ai. Mỗi đảng phái, mỗi hội đoàn, mỗi cá nhân  cũng có quyền tự do suy nghĩ và đóng góp cho đất nước qua báo chí, truyền thanh, truyền hình và điện tử. Ý của ai cũng đáng nghe cả và phải tôn trọng lẫn nhau. Trong cái thời mà ai cũng thích đi làm việc với các hãng ngoại thì cái danh từ gián điệp, tay sai ngoại bang trở thành lố bịch. Chẳng có ai là trật hướng cả. Vấn đề là cái "hướng" của anh của chị có được đa số nhân dân chấp nhận hay không? 

BCT đảng CSVN có thể ra lệnh cho TT Nguyễn Tấn Dũng kí cả trăm chỉ thị 37 nữa cũng chỉ là cả trăm con cọp giấy. Ngày nào còn độc tài đảng trị trên Việt Nam là ngày đó con Rồng cháu Tiên còn đứng lên phản đối, còn có người đứng lên đòi lại TỰ DO, DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN cho Việt Nam.

  Kỷ niệm ngày Quốc Tế Nhân



Quyền 10-12-2006



Đảng Cộng sản Việt Nam khoe  là Tổ chức có văn hóa, là đạo đức, là văn minh nhưng cán bộ, đảng viên  lại hành động phản dân chủ, mất phẩm chất và lạc hậu. Hình ảnh tương phản này không có gì mới, nhưng  sự kiện càng ngày càng có nhiều người bất tuân kỷ luật đảng, vi phạm luật pháp và xâm phạm quyền lợi và tài sản  của nhân dân đã khiến cho tình trạng xuống cấp của chế độ  ngày càng rõ nét hơn.

Hãy bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) nói về "Xây dựng và phát triển nền văn hoá VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", dưới thời Lê Khả Phiêu để thấy sự thoái trào của "Văn hoá CS".

Nghị quyết khoe: "Tư tưởng, đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của van hóa, đã có những chuyển biến quan trọng. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển sáng tạo ngày càng tỏ rõ giá trị vững bền làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng nước ta, nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng."

"Ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm và nang lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Tính năng động và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc."

Tuy nhiên, vào thời điểm  sau đổ vỡ của Liên bang Xô viết và các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu từ 1989 đến 1991, khi Nghị quyết này ra đời thì nếp sống thiếu văn hoá tiềm ẩn trong đảng CSVN đã bung ra như nước vỡ bờ.

Nghị quyết viết: "Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không ít người còn mơ hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta."

"Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị van hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tang. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhât là trong việc cưới, việc tang, lễ hội..."

  "Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, an chơi sa đọa không được ngan chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước."



"Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp; lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi, nghiện ma túy... ở một bộ phận học sinh, sinh viên; việc coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn chính trị, khoa học xã hội và nhân văn."

"Đời sống van học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và thành quả của đổi mới. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu van học cách mạng và kháng chiến, đối lập van nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác phẩm viết về kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh phi nghĩa. Xu hướng "thương mại hóa", chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức nang giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của van học, nghệ thuật bị suy giảm."

MỘT CHIỀU ĐI XUỐNG

Từ đó đến nay, tình hình xuống cấp trong cách ứng xử, lối sống của cán bộ, đảng viên  không chỉ vẫn như thế mà nghiêm trọng hơn, nhất là trong lĩnh vực tham nhũng, quan liêu, mất phẩm chất, chạy chức, chạy quyền.  Giáo dục  thì tệ hại hơn trong dịch vụ mua bằng, bán điểm, bán đề thi, chạy trường. Đời sống Văn học, nghệ thuật  vẫn cứ ù ù cạc cạc, không tìm đâu ra những Tác phẩm "đỉnh cao" mà chỉ thấy tình trạng đạo Văn, đạo Thơ và đạo Nhạc, thay đổi  nội dung Tác phẩm, Sáng tác của  người làm của mình, in lậu sách v.v… ngày càng phổ biến,  thành một dịch vụ "tự nhiên như người Hà Nội", thật giả không biết đâu mà mò !

Riêng trong lĩnh vực tham nhũng thì sự xuống cấp đã thấy rõ  như đã viết trong Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21-8-2006 của Khoá X nói về việc: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí."

Nghị quyết viết: "Trong những năm qua, nhất là từ sau Hội nghị Tr. ương 6 (lần 2) khóa VIII, Đảng và Nhà nước ta đã tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nhiều cán bộ, đảng viên giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, đi đầu trong cuộc đấu tranh này. Nhiều vụ án tham nhũng, trong đó có những vụ án lớn, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng đã được phát hiện, xử lý."

"Tuy nhiên, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta."

"Nguyên nhân chủ yếu của những thiếu sót, khuyết điểm trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí là:

- Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, còn nhiều sơ hở, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung.

- Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng, còn nhiều khuyết điểm, chất lượng và hiệu quả chưa cao; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan, tổ chức chưa được xác định rõ ràng, cụ thể, còn trùng lặp hoặc bị phân tán.

- Nhiều tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng, lãng phí, nên lãnh đạo không chặt chẽ, thiếu kiểm tra, đôn đốc, thậm chí còn nể nang, né tránh, dung túng, bao che cho tham nhũng, lãng phí; chưa thực sự dựa vào dân và chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị.- Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm."

Tất cả những chứng hư tật xấu này ở đâu ra mà phản Văn hoá đến thế, hay là vì đảng chẳng có thứ Văn hóa gì cả  nên mới có một đội ngũ đảng viên như nhân nào thì qủa ấy?

Còn cái Chủ nghĩa Mác-Lênin mà đảng CSVN lấy làm nền tảng để xây dựng đất nước có liên hệ gì với những con người  bê bối này không, hay những phần tử xấu chỉ là lớp người thiếu bản lĩnh cách mạng như đảng nói?

Nhưng mọi đảng viên đã phải học tập và nghiêm chỉnh thi hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị liên quan đến vấn đề Xây dựng, chỉnh đốn đảng, tự phê bình và phê bình mà sao tình hình vẫn tồi tệ dây dưa từ năm này qua năm khác?

Thực tế này còn được chứng minh trong Báo cáo Chính trị của Trung ương đảng khóa IX tại Đại hội đảng X hồi tháng 4/2006: "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng còn thiếu tính thuyết phục. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao… Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ…"

"…Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta."

Báo cáo Công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X còn lôi ra đủ thứ "phi văn hóa" của người CSVN: "Dân chủ trong Ðảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp ủy còn yếu. Quan hệ giữa Ðảng và nhân dân có lúc, có nơi bị xói mòn do những hạn chế, yếu kém trong công tác tư tưởng chính trị, công tác vận động quần chúng, công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý nhà nước và những khó khăn phát sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội."

"Không ít tổ chức đảng yếu kém, nhất là ở cơ sở, không làm tròn vai trò hạt nhân chính trị và nền tảng của Đảng, không đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ sở đảng tê liệt, mất sức chiến đấu. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng; một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước."

"Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng "chạy chức", "chạy quyền", "chạy tội", "chạy bằng cấp". Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ."

Tình hình đảng xuống cấp như thế thì đảng CSVN có còn xứng đáng là "một đảng trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại, một đảng đạo đức, văn minh" như Nguyễn Đức Bình kiêu ngạo trong Tạp chí CS số 86-2005?

Bình là Cựu Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương dưới thời Lê Khả Phiêu, nhưng dường như lại mù mịt về tình trạng thoái hóa nghiêm trọng đang lan nhanh trong đảng nên mới bảo rằng: "Đảng cũng chính là biểu tượng sáng ngời của văn hóa, và hoàn toàn có lý do để nói về văn hóa Đảng."

"Văn hóa Đảng ta một lần nữa lại được khẳng định trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Đảng ta 75 năm qua đã không ngừng phấn đấu trở thành một đảng như thế và căn bản đã có những tố chất như thế."

Bình ngon trớn viết tiếp: "Hơn nữa, lịch sử và thực tiễn đã quyện chặt văn hóa Đảng với văn hóa dân tộc. Điều đó được khẳng định bằng thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám, bằng thắng lợi vĩ đại của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Những thắng lợi này cũng chính là thắng lợi của văn hóa, là thắng lợi của trí tuệ đánh giặc và giữ nước Việt Nam kết tinh từ truyền thống mấy nghìn năm lịch sử dân tộc kết hợp với tri thức về chiến tranh nhân dân hiện đại…"

"…Một cách khái quát nhất, văn hóa Đảng ta được kết tinh và cô đúc ở đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội như một "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt trước đây, hiện nay và cả trong tương lai. Bởi ở nước ta không có đất cho một đường lối chính trị nào khác tốt hơn khả dĩ được nhân dân chấp nhận ngoài đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội."

"Khách quan lịch sử mà nói, một đường lối khác, chẳng hạn đường lối xã hội dân chủ ai đó đang mơ tưởng, dù có tô vẽ, ngụy trang thế nào đi nữa thì rốt cuộc vẫn không thể gì khác là một đường lối đưa dân tộc ta đi con đường tư bản hoang dã tồi tệ nhất, cuối cùng không tránh khỏi trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc vào các thế lực đế quốc, phản động, thực dân mới kiểu mới…"

Căn cứ vào đâu mà Bình dám bảo Việt Nam không có một "đường lối  chính trị nào khác" ngoài chủ nghĩa xã hội theo Mác-Lênin?

Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ có quyền được tự quyết định lấy vận mạng chính trị cho mình. Đảng cũng chưa bao giờ dám hỏi ý dân xem họ có muốn theo Chủ nghĩa độc tài Cộng sản hay Tư bản tự do. Và cả thế giới đều biết nhân dân Việt Nam không có quyền lựa chọn mà đã bị đảng cầm quyền áp đặt lên đầu thứ Chủ nghĩa Cộng sản ngoại lai vong bản, phi dân tộc và nó đang kìm hãm mọi  khả năng phát triển, đưa đất nước ra khỏi đói nghèo, lạc hậu.

Cho nên khi Bình bảo một đường lối chính trị khác Cộng sản là "đưa dân tộc ta đi con đường tư bản hoang dã tồi tệ nhất, cuối cùng không tránh khỏi trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc vào các thế lực đế quốc, phản động, thực dân mới kiểu mới…" là nói càn, nói quẩn, phản ảnh tính sợ hãi trước làn sóng đòi dân chủ, tự do của người dân trong nước.



Bình cũng dư biết những hành động phản văn hóa trong đảng hiện nay không có gì mới. Nó là chứng bệnh kinh niên, là thứ vi trùng di căn của người Cộng sản thời nào cũng có, kể cả khi Hồ Chí Minh còn sống cũng đã nói ra những  bê bối, xấu xa như thế của cán bộ, đảng viên.

Theo Bình thì những việc làm xấu xa là: "Những hiện tượng xa lạ, thậm chí rất xa lạ với văn hóa Đảng đang tồn tại trong Đảng ta. Đó là những hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên… Rất tiếc là nhiều cán bộ hiện nay chưa phải đã toàn tâm, toàn ý vì lợi ích chung, vì sự nghiệp cách mạng, mà vì để thăng quan, tiến chức, để phát tài, phát lộc. Thậm chí đang có tình trạng "chạy chức, chạy quyền", "mua quan bán tước". Đó là hiện tượng cực kỳ xấu, là phi văn hóa, phản văn hóa..."

Những thứ "phi văn hoá, phản văn hóa" này có phải là sản phẩm của Chủ nghĩa Mác-Lênin hay chính đảng CSVN đã đẻ ra chúng, để chúng tự do lây lan làm hại đất nước?

Tất nhiên nó không phải là thứ Văn hoá của Dân tộc Việt Nam.

Luật sư Đỗ Thế Kỷ

  


Kể từ sau ngày 30-4-1975, Việt Nam có thể được xem như hoàn toàn thống nhất về phương diện chính trị, địa dư, và xã hội. Lãnh thổ Việt Nam được đảng Cọng sản thu về một mối, được toàn trị do một Trung ương đảng gồm 160 Ủy viên chính thức, 21 Ủy viên dự khuyết, và 14 Ủy viên Bộ chính trị, tổng cộng 195 bộ óc “ưu việt” Việt Nam điều hành tất cả mọi sinh hoạt của 84,7 triệu dân (thống kê tháng 5-2006).

Đứng về phương diện phát triển kinh tế và xã hội trong 10 năn đầu tiên sau 1975, hầu như tất cả mọi người trong và ngoài nước đều đồng ý rằng đó là sự thất bại hoàn toàn của một chính sách kinh tế tập trung. Đây là một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Việt Nam, ngay cả so với thời phong kiến và thới Pháp thuộc. Mọi sinh hoạt đều bị đình trệ, nhiều vùng bị nạn đói đe dọa thường xuyên dù trước đây là vùng lương thực cho cả nước như ĐBSCL. Giáo dục, y tế công cộng hoàn toàn bị bỏ ngỏ...

Đứng trước nguy cơ diệt vong kề cận, năm 1986, một chính sách kinh tế mở được khơi mào, người dân bắt đầu được thả lỏng, làm chủ kinh tế trên mảnh đất của mình dù là tạm bợ để tự khai thác và tự cứu vãn đời sống kinh tế của gia đình. Những năm tiếp theo sau đó, nguy cơ tuy vẫn còn đầy rẫy khắp nơi, tình trạng xã hội và kinh tế chung vẫn còn nhiều gập ghềnh, chập chững trên bước đường phát triển và hội nhập vào thế giới bên ngoài.

Từ sau ngày “giải phóng” cho đến năm 1986, cả nước vẫn còn cùng ôm nhau với những tem phiếu qua câu sấm truyến vẫn còn tồn đọng đến ngày hôm nay. Đó là:



- Gạo vừa 13 ký, suốt tháng cháo thừa, cơm thiếu, quanh năm no cậy nước;

- Vải vừa 4 nghìn ly, suốt ngày quần thiếu, khố thừa, cả đời ấm nhờ da.

Nhưng mãi đến tháng 12 năm 2001, khi Hiệp ước Thương mãi hai chiều giữa Việt Nam và Hoa Kỳ thành hình (US-VietNam Bilateral Trade Agreement), kinh tế Việt Nam tương đối hồi sinh và có thể nói đây là bước mở đầu tiên của VN trên tiến trình hội nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Cũng cần nói thêm về những thông tin trao đổi kinh tế hai chiều giữa VN và HK trong giai đoạn trước đây. Năm 1993, VN hoàn toàn không xuất cảng hàng hóa vào nội địa HK; ngược lại, VN nhập cảng 7 triệu Mỹ kim thiết bị từ HK. Sau ngày 3-2-1994, Tổng thống Clinton, HK đã ra quyết định bãi bỏ lịnh cấm vận thương mại cho VN; kể từ đó, VN bắt đầu tăng dần việc xuất cảng sang HK lên đến trị giá 50,5 triệu cho năm nầy.

Bảy năm sau khi hiệp ước trao đổi hai chiều ký kết, hàng hóa VN gồm thực phẩm, hàng may mặc, dầu thô, giày da, sản phẩm gỗ nội thất ồ ạt vào thị trường HK, và lượng hàng hóa tiếp tục tăng mãi, từ 1 tỷ Mỹ kim năm 2001, lên đến 5,9 tỷ, năm 2005. Ngược lại, HK chỉ xuất cảng độ 1,2 tỷ vào VN trong năm 2005, gồm dụng cụ y khoa, máy móc kỹ thuật và dụng cụ hàng không.

Đây cũng là chỉ dấu ban đầu cho VN lần lần thực hiện tiến trình gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới.

Tổ chức Thương mại Thế giới

Tổ chức Thương mại Thế giới hay World Trade Organization-WTO, có trụ sở đặt tại Thụy Sĩ đã được thành lập chính thức vào ngày 1-1-1995 do các quốc gia thành viên ký tại thành phố Marrakesh, Marocco. Tính đến nay, Tổ chức nầy tập hợp được 149 quốc gia thành viên nhắm vào những mục tiêu sau đây:

- Quy định những căn bản pháp lý làm nền tảng cho mọi trao đổi thương mãi quốc tế;

- Tổ chức là diển đàn đàm phán, thõa thuận, thương lượng về tất cả mọi dịch vụ thương mại giữa các quốc gia thành viên.

Cũng từ ngày 1-1-1995, VN đã nộp đơn xin gia nhập vào tổ chức trên và trở thành quan sát viện của tổ chức. Nhóm công tác WTO cũng đã được thành lập và có nhiệm vụ cứu xét đơn xin gia nhập của VN.

Tính đến nay, VN đã trả lời trên 2.600 câu hỏi từ các thành viên, và đã kết thúc đàm phán song phương với 21 quốc gia.

Đối với HK, văn kiện chính thức giữa hai bên đã được ký kết vào ngày 31-5-2006 về những thỏa thuận trên nguyên tắc về khả năng tiếp cận thị trường song phương; từ đó sẽ giúp hai bên tái lập hàng rào thuế quan cho những mặt hàng kỹ nghệ và nông phẩm, cùng dịch vụ.

Kết quả là hàng hóa xuất cảng từ HK vào VN như trang thiết bị xây dựng, dược phẩm, phi cơ và các bộ phận rời bảo trì sẽ chịu thuế xuất là 15% hay ít hơn. Về dịch vụ, VN cũng đã cam kết mở cửa một số lãnh vực cấm kỵ từ trước như viễn thông và viễn thông vệ tinh, lãnh vực tài chính, ngân hàng, và năng lượng cho HK nhúng tay vào.

Một khi đã vào WTO, VN cần phải tuân thủ những tính chất pháp trị như: 1- giải quyết tranh chấp; 2- giảm bớt vai trò của mậu dịch quốc doanh; 3- hủy bỏ những giới hạn nhập cảng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài qua quyền thương mại; 4- hủy bỏ những quy chế kinh tế phi thị trường. Ngược lại, HK sẽ áp dụng kinh tế phi thị trường trong các vụ kiện chống phá giá cho đến khi VN ra khỏi nền kinh tế phi thị trường. Thời gian chuyển tiếp cho chính sách nầy là 12 năm sau khi VN gia nhập vào WTO. Và sau cùng, VN phải tuân thủ quy tắc và luật bảo vệ sở hữu trí tuệ.

Để có một khái niệm về kết quả của việc gia nhập vào WTO trong những năm vừa qua của các quốc gia thành viên, một số báo cáo sau đây cho thấy khuynh hướng cũng như thành quả của WTO ngày càng bị thu hẹp lại. Vào năm 2003, trong kỳ họp WTO ở Cancun, Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra những số liệu về thương mại toàn cầu qua dịch vụ trao đổi trên thế giới là 832 tỷ Mỹ kim, trong lúc đó 539 tỷ nằm trong các sinh hoạt giữa các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, tổng kết năm 2005 cho thấy lợi ích của WTO giảm xuống còn 287 tỷ cho thế giới, trong đó chỉ còn 90 tỷ trao đổi giữa các quốc gia đang phát triển dù số lượng thành viên của các quốc gia nầy dự phần vào 90% tổng số thương mại toàn cầu.



Những khía cạnh thực tế

Dù muốn dù không, sớm muộn gì VN cũng phải được gia nhập vào WTO, cuộc chơi chung của thế giới. Vấn đề nơi đây là cần ghi nhận đứng đắn nội lực thực tế của VN đứng trước vận hội mới này, nghĩa là VN trao đổi, xuất cảng ra thế giới bên ngoài những gì? Và ngược lại phải nhập cảng từ ngoại quốc những sản phẩm nào? Giải đáp hai câu hỏi trên, chúng ta có thể hình dung được thế mạnh và yếu của VN trong tương lai. Từ đó, có thể dự phóng được một viễn ảnh cho đời sống người dân trong những ngày hậu WTO.

Tính đến ngày hôm nay, VN đã xuất cảng đi khắp nơi trên thế giới một số lượng đáng kể về trọng lượng, nhưng ngược lại thu hồi một số ngoại tệ không đáng kể so với lượng hàng bán ra. Đó là nông phẩm, thực phẩm, tôm cá, các mặt hàng gia công như quần áo, giày da, gỗ xẻ, dầu thô và một số mặt hàng tiểu thủ công nghệ.

Ngược lại, VN phải nhập cảng xăng dầu và nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, hóa chất, phân bón, thực phẩm “cao cấp” như thịt gà, bò..., năng lượng, viễn thông, ngân hàng... Đây là những mặt hàng nhẹ về cân lượng nhưng cần phải chi ra một số lớn ngoại tệ. Do đó, VN luôn luôn đối mặt với sự thâm thủng ngân sách cho ngoại thương từ trước đến nay.

Thêm nữa, những mặt hàng xuất cảng của VN chỉ để giải quyết cuộc sống của hàng triệu nông dân hay công nhân với mức lương tối thiểu- trong khi đó cuộc sống của nông dân và công nhân VN ngày càng tệ hại hơn, mặc dù VN cố gắng gia tăng mức sản xuất hàng năm.

Tại thị trường nội địa, hiện tại VN đang làm chủ vì lợi thế sân nhà, và một số ngành nghề còn độc quyền và không cho người ngoại quốc tham dự. Do đó, mức cạnh tranh chưa hề được đặt ra, và nếu có, chỉ là những cạnh tranh giữa những nhà kinh doanh trong nước mà thôi.

Một khi cánh cửa WTO mở toang, VN sẽ không còn lý do nào để cấm đoán ngoại quốc tham gia trực tiếp vào thị trường nội địa của VN. Từ đó, mức cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn và chưa chi, phần thua thiệt có thể chắc chắn về phần doanh thương VN qua sự chênh lệch về nguồn vốn, kỹ thuật, cung cách khuyến mãi, và thị hiếu của người tiêu dùng VN.

Xin đan cử một thí dụ điển hình qua hình thức thương mại đơn giản nhất là hệ thống “siêu thị” : Siêu thị Walmart (Hoa Kỳ), Metro (Pháp) có mức doanh thu gấp 5-6 lần tổng sản lượng của VN, có thể tiêu diệt các siêu thị nội địa trong cung cách thu mua với giá rẻ hơn vì họ có thể chấp nhận không lời, hoặc lỗ trong thời gian đầu vì có nhiều tiền vốn. Thêm nữa, họ có khả năng nhập thực phẩm và hàng hóa từ ngoại quốc vào -điều trên đây càng nguy hiểm hơn vì nó có thể giết chết nhiều dịch vụ chăn nuôi và trồng tỉa của người dân. Một lợi thế nữa của các siêu thị ngoại quốc là dịch vụ thanh toán thường chỉ giải quyết sau 90 ngày nhận hàng, chính điều này khiến cho những nhà cung cấp VN sẽ không còn khả năng tài chính để trả nợ cho ngân hàng sau mỗi thời vụ.

Trước mắt, chúng ta thấy rõ những kỹ nghệ của VN liệt kê sau đây đang đi dần vào chỗ bế tắc :

- Kỹ nghệ đường hiện nay hoàn toàn bị phá sản vì không cạnh tranh nổi với đường TQ và TL có phẩm chất tốt hơn và giá rẻ hơn. Việc này kéo theo sự bế tắc của nông dân trồng mía.

- Chăn nuôi gia súc ở VN cũng đang đứng trước cơn phá sản do kỹ thuật chăn nuôi còn nhiều khiếm khuyết. Từ đó, việc nhập cảng cánh và đùi gà Mỹ hiện tại là một dịch vụ đem nhiều lợi nhuận lớn lao. Vì cánh và đùi gà Mỹ giá rất rẻ $0.2/bls (vì người Mỹ không thích ăn), khi nhập vào VN có thể bán ra $1,5/kg

- Các kỹ nghệ đơn giản khác như xe đạp, dụng cụ làm bếp, trang trí nội thất sẽ không còn khả năng cạnh tranh với hàng TQ nếu chưa nói đến các nhà sản xuất lớn như ở HK, Pháp, Ý... Những mặt hàng rất bắt mắt và được người VN ưa chuộng từ lâu. Chính tâm lý ưa chuộng hàng ngoại quốc của người VN sẽ giết chết công kỹ nghệ VN khi VN gia nhập vào cuộc chơi chung. Và mặt trái của WTO có thể biến VN thành một thị trường tiêu thụ của quốc tế hơn là một thị trường sản xuất.

Một số rào cản VN đang đối mặt trước ngưỡng cửa WTO được tiếp tục trình bày sau đây cũng là những gợi ý mà VN cần lưu tâm. Đó là những cản ngại của khu vực quốc doanh, nghành ngân hàng, khả năng vận chuyển đường biển, ngành viễn thông di động và đưa ra một số phản ứng tâm lý của người dân VN trước tiến trình toàn cầu hóa.


Каталог: IMG -> doc
doc -> Phụ lục 1 danh mục hóa chất phân loại và ghi nhãN
doc -> CHÍnh phủ CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
doc -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam tỉnh bình dưƠng độc lập Tự do Hạnh phúc
doc -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam tỉnh lâM ĐỒng độc lập Tự do Hạnh phúc quy đỊnh tiêu chuẩn cây giống khi xuất vườn của một số loài cây trồng
doc -> THÔng tư Quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định kinh doanh hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh; phí thẩm định kinh doanh hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện thuộc lĩnh vực thương
doc -> I. giã TỪ DỐi trá
doc -> Danh sách các công ty nhập khẩu và kinh doanh chè lớn của Maroc mido food company s. A
doc -> THÔng tư Quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí thẩm định
doc -> BÁo cáo an toàn hóa chất phần I. Thông tin chung
doc -> PHỤ LỤc VI danh mục hóa chấT ĐỘc phải xây dựng phiếu kiểm soát mua, BÁn hóa chấT ĐỘC

tải về 0.88 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương