3.2. Đánh giá quá trình cổ phần hoá giai đoạn 2011-2013 3.2.1. Các chủ trương chính sách, các văn bản pháp lý về cổ phần hóa các DNNN trong giai đoạn 2011-2013
Quá trình cổ phần hóa DNNN nói riêng và chuyển đổi DNNN nói chung từ năm 2011 đã có những động lực và thay đổi lớn.
Tính đến đầu năm 2014, hệ thống cơ chế chính sách đối với DNNN đã được sửa đổi, bổ sung khá nhiều. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 26 Nghị định, 11 Quyết định, Chỉ thị liên quan đến: cổ phần hóa DNNN.
3.2.2. Đánh giá mức độ đạt được và tác động của quá trình cổ phần hoá giai đoạn từ 2011 đến nay (2014)
Nhìn chung, trong giai đoạn 2011-2013, chuyển biến đáng kể nhất là tổng lợi nhuận toàn khối DNNN có xu hướng tăng lên. Mặc dù số lượng DNNN có giảm xuống, cơ cấu tài sản và vốn chủ sở hữu tiếp tục tăng lên.
Tuy nhiên, quy mô nợ ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vẫn rất cao, quá trình tái cơ cấu DNNN diễn ra chậm chạp, các vấn đề đối với quá trình cổ phần hóa DNNN trong giai đoạn 2001-2010 vẫn chưa được giải quyết trong giai đoạn 2011-2013.
Bước sang năm 2014, có sự thay đổi rõ rệt và mạnh mẽ trong động thái cổ phần hóa DNNN. Với cách tiếp cận phải đặt quá trình tái cơ cấu trên nền tảng các nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường (cạnh tranh tự do, bình đẳng và hệ thống giá được thiết lập trên cơ sở chủ yếu là cung - cầu thị trường và cạnh tranh), Chính phủ đã tỏ ra quyết liệt hơn trong việc đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa DNNN, coi đây là hướng ưu tiên trong 3 trục chính của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Chính phủ đặt ra nhiệm vụ trong 2 năm 2014-2015, phải cổ phần hóa được 532 DNNN, tức là căn bản hoàn thành toàn bộ chương trình cổ phần hóa DNNN. So với tốc độ cổ phần hóa cực kỳ chậm chạp của những năm trước, đặt trong bối cảnh cả nền kinh tế - cả khu vực nhà nước và khu vực doanh nghiệp – đều gặp khó khăn, đặc biệt là nguồn lực tài chính, nhiệm vụ cổ phần hóa 532 DNNN dường như là một thách thức to lớn mà Chính phủ tự đặt ra cho mình. Thực tế là trong 6 tháng đầu năm 2014, mới cổ phần hóa được 38 DN, tương đương 3,9% số DN phải cổ phần hóa trong 2 năm 2014-2015 và 10,4% kế hoạch năm 2014.
Tuy nhiên, động thái ban đầu của nỗ lực vượt qua thách thức này là tích cực và có vẻ đúng hướng, đúng cách. Việc gắn trách nhiệm cá nhân của lãnh đạo DNNN với kết quả cổ phần hóa doanh nghiệp đang tạo ra áp lực và động lực khá mạnh để thúc đẩy quá trình này nhanh và hiệu quả hơn trong quãng thời gian còn lại.
3.3. Đề xuất các giải pháp để thúc đẩy quá trình cổ phần hoá trong giai đoạn tới
Trước hết là phải xác định được tư duy về vai trò của kinh tế nhà nước và DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. DNNN chỉ hoạt động trong những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không muốn làm (ngay cả khi không có DNNN). Ngay cả với các lĩnh vực này, Chính phủ có thể cân nhắc mua các dịch vụ tương tự từ các nhà cung ứng của khu vực tư nhân.
Mục tiêu, tiến độ cổ phần hóa cũng cần được điều chỉnh. Điểm quan trọng nhất là cổ phần hóa phải hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhằm góp phần tăng cường chất lượng hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế, qua đó thúc đẩy quá trình cải thiện năng lực cạnh tranh và tái cơ cấu nền kinh tế nói chung.
IV. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THOÁI VỐN ĐẦU TƯ NGOÀI NGÀNH CỦA DNNN
4.1. Thực trạng đầu tư vốn ngoài ngành của các DNNN trước 2011
Trong khoảng thời gian 2005-2008, các DNNN của Việt Nam lại được phép mở rộng ngành nghề kinh doanh khá dễ dàng. Theo Nghị định 09, công ty nhà nước được phép đầu tư trái ngành tối đa 30% tổng nguồn vốn đầu tư. Hệ quả là đa phần các tổng công ty nhà nước đã đầu tư ngoài ngành.
Trong ba năm 2005-2007, liên tiếp 8 tập đoàn kinh tế kinh doanh đa ngành nghề được thí điểm thành lập. Sau đó, năm 2009-2010, kể cả khi Vinashin bắt đầu đổ vỡ, lại có thêm 4 tập đoàn mới được hình thành. Các tập đoàn và tổng công ty nhà nước đã đẩy mạnh thực hiện đầu tư đa lĩnh vực, ngành nghề, trong đó các lĩnh vực hấp dẫn nhất giai đoạn này là chứng khoán, bất động sản, đầu tư tài chính v.v…
Tính đến hết năm 2011, các tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tư ngoài ngành gần 23.744 tỷ đồng, tăng 3.056 tỷ đồng (15%) so với năm 2010. Trong đó, lớn nhất là lĩnh vực ngân hàng với 11.403 tỷ đồng, tiếp đến là bất động sản với 9.286 tỷ đồng. Đầu tư vào bảo hiểm là 1.682 tỷ đồng, chứng khoán là 696 tỷ đồng và quĩ đầu tư là 677 tỷ đồng.
Trong số các tập đoàn đầu tư ra ngoài ngành, dẫn đầu là PVN, tiếp đến là Tập đoàn Công nghiệp cao su, EVN, Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Tổng Công ty Xi măng Việt Nam (Vicem).
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư của các tập đoàn ra ngoài ngành khá thấp - dưới 7%, thậm chí bị thua lỗ kéo dài. Nhiều khoản đầu tư cổ phiếu bị tổn thất hoặc không nhận được cổ tức. Các hoạt động đầu tư ngoài ngành đối với hoạt động kinh doanh của các tập đoàn và tổng công ty đã không đem lại hiệu quả như dự tính.
4.2. Đánh giá quá trình thoái vốn đầu tư ngoài ngành trong giai đoạn 2011-2013 4.2.1. Các chủ trương chính sách, các văn bản pháp lý về thoái vốn tại các DNNN trong giai đoạn 2011-2013
Trước tình trạng đầu tư ngoài ngành dàn trải và kém hiệu quả của các DNNN, Chính phủ đã chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước dừng đầu tư ra ngoài ngành, tính toán rút dần các khoản đã đầu tư ngoài ngành để tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực chính. Theo đó, từ cuối 2011 đến năm 2015, các tập đoàn, tổng công ty phải hoàn thành thoái vốn đầu tư ngoài ngành và không có ngoại lệ.
4.2.2. Đánh giá mức độ đạt được và tác động của quá trình thoái vốn
Mức độ đạt được
Dựa trên kế hoạch thoái vốn đầu tư ngoài ngành của các DNNN được Chính phủ đặt ra vào cuối 2011 thì việc đến giữa 2014 mới chỉ thoái được khoảng 23% lượng vốn đầu tư ngoài ngành cho thấy quá trình thoái vốn vẫn chưa đạt. Quá trình thoái vốn hiện tại về cơ bản vẫn là việc các DNNN chuyển phần vốn đầu tư ngoài ngành của mình sang cho các DNNN khác.
Như vậy, xét về tổng thể nếu quá trình tiếp tục diễn biến như hiện tại thì hoặc có thể sẽ không cán được đích đề ra vào cuối 2015,hoặc nếu đạt được thì sẽ ở dưới dạng thoái vốn nội bộ khu vực DNNN, và khi đó, lại tạo gánh nặng cho quá trình cổ phần hoá DNNN.
Tác động kinh tế của quá trình thoái vốn
Có thể nói quá trình này này hầu như không ảnh hưởng đến tổng thể nền kinh tế như tăng trưởng GDP, cán cân ngân sách, cán cân thanh toán, thu hút đầu tư nước ngoài, mặt bằng lãi suất và tỷ giá. Do việc thoái vốn đa phần diễn ra trong nội bộ của khu vực DNNN nên xét về tổng thể, hoạt động này cũng không tác động gì đến tình hình công nợ tại khu vực DNNN.
Ngoài ra, thoái vốn không ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và thoái vốn có tác động tích cực đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp bị thoái vốn.
4.2.3. Các trở ngại trong việc thúc đẩy quá trình thoái vốn
Quá trình thoái vốn đầu tư ngoài ngành của các DNNN trong thời gian qua diễn ra chậm được lý giải vì những nguyên nhân sau:
- Theo đa số các ý kiến từ các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan quản lý cho rằng nguyên nhân là do thị trường chứng khoán, bất động sản v.v… giảm sút khiến cho việc thoái vốn gặp nhiều khó khăn.
- Yêu cầu bảo toàn vốn nhà nước là một nguyên nhân khiến các DNNN mới chỉ thoái được phần vốn tại các khoản đầu tư vào các công ty làm ăn tốt. Với các đơn vị kinh doanh thua lỗ, việc thoái vốn sẽ là vấn đề nan giải.
- Quy định tại Điều 21, Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012, trong đó yêu cầu hoạt động kinh doanh của năm liền kề trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán gây khó khăn cho việc thoái vốn.
- Chưa có hướng dẫn cụ thể cho Nghị quyết 15/NQ-CP về việc các NHTM nhà nước mua lại các phần thoái vốn tại các công ty tài chính, NHTM mà các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đang nắm giữ trong trường hợp các DNNN này không tự thoái được.
- Bên cạnh các nguyên nhân trên, việc thoái vốn diễn ra chậm còn có thể do e ngại tác động về mặt kinh tế và xã hội nếu đẩy mạnh thoái vốn ngoài ngành.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |