MỤc lụC 1 Chương I: Các vấn đề về quản trị 3


Chương III: Chân dung các nhà quản trị tài ba



tải về 261.42 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu09.05.2018
Kích261.42 Kb.
#37856
1   2   3   4

Chương III: Chân dung các nhà quản trị tài ba

I. Ford và vương quốc ô tô của ông


Phần này xin giành để nói về Hery Ford đời thứ hai.

Ông sinh năm 1917, năm 1936 tốt nghiệp trường Halikise, song ông không phải là một học sinh ưu tú, chỉ là một người có thành tích bình thường. Để có thể nắm chắc công ty Ford, cần đảm nhiệm chức tổng giám đốc công ty, Ford bởi thế đã phải cố gắng rất nhiều. Cuối cùng vào năm 1945, Ford đã thuận lợi tiếp quản công ty Ford của gia tộc, đảm nhiệm chức tổng giám đốc công ty.

Vào đầu những năm 40 của thế kỷ, đương khi công ty xe hơi Slog trỗi dậy, công ty Ford bị rơi vào thế khốn quẫn. Nguyên nhân chủ yếu là ở chỗ công ty kia đã quản lý tốt hơn. Thêm vào đó công ty Slog có thể đáp ứng được những yêu cầu của khách hàng trên thị trường xe hơi, không ngừng đổi mới hình thức. Dưới đại công ty có nhiều công ty nhỏ, mà mỗi công ty nhỏ lại có quyền tự chủ, phát huy đầy đủ năng lực của mình. Năm 1948, Xe ô tô của công ty Slog có số lượng tiêu thụ hơn cả công ty Ford, từ đó mà nhảy lên vị trí hàng đầu thế giới.

So với Slog, công ty xe hơi Ford về thể chế lãnh đạo thì chuyên chế độc tài, toàn bộ quyền lực đều tập trung vào tay Hery Ford. Tất cả những quyết định của công ty, sự sắp xếp nhân sự, sản xuất và nghiệp vụ dân sự đều phải qua tay ông. Hery Ford cuối đời lại càng bảo thủ, chỉ chú trọng kiểu xe T của mình mà lại chỉ dùng một màu đen, thiếu ma lực hấp dẫn khách hàng. Công ty Ford đã dần suy yếu đi.

Khi Ford đời thứ hai làm tổng giám đốc, công ty Ford mỗi tháng thiếu nợ đến 900 vạn đôla Mỹ. Một người quản lý công ty đã nói: Lúc ấy công ty đang lảo đảo như muốn ngã, sắp bị phá sản.

Việc quản lý công ty bắt đầu hỗn loạn, trong công ty chẳng có sổ sách cũng chẳng có chế độ kiểm toán. Thậm chí ở sổ lương có cả tên những người làm việc đã chết. Công ty chẳng có những nhân viên quản lý cấp cao đắc lực, cũng giống như chẳng có tài khoản rõ ràng. Lúc đó trong 500 nhân viên quản lý công ty chẳng có một người tốt nghiệp đại học. Nhân viên tài vụ cũng thiếu. Sau này nhớ lại hồi ấy, buliki có nói: Công trình sư đối với thiết kế xe hơi thì chẳng có gì, đại đa số máy móc và nhà xưởng đều quá cũ kỹ, báo biểu tài vụ của họ giống như sổ sách của một quầy tạp hoá vậy.

Khi Hery Ford đời thứ hai tiếp quản công ty đang suy yếu ấy, ông để ra một điều kiện, tức là không bó buộc chân tay, có thể hoàn toàn thả sức tiến hành những cải cách cần thiết.Cải cách của ông bắt đầu từ việc đề bạt nhân tài, ông không tiếc dùng nhiều tiền bạc để mời nhân tài quản lý, lại để cho họ có thực quyền trong tay, phát huy đầy đủ tài cán của họ.

“Tiểu số Sangdun” lúc bấy giờ là một tiểu tổ quản lý số liệu của không quân nước Mỹ thời chiến tranh thế giới thứ hai. Thời chiến tranh, năng lực vận trù và năng lực tài vụ của 10 sĩ quan ấy đã được rèn luyện, họ liên hợp lại làm thành một tiểu tổ quản lý kinh doanh đáp theo lời mời. Mười người ấy vốn được coi là thần đồng, trong số đó có người sau này làm đến bộ trưởng quốc phòng. Lúc ấy những thanh niên ấy có gọi điện đến công ty Ford, nói rằng họ đang tìm kiếm việc làm. Henry nói với họ “Cứ đến bàn thử”. Sangdun, người đứng đầu nhóm ấy đến gặp Henry. Henry nói rằng, ông thấy công ty Ford cần những người như vậy, bởi thế quyết định sử dụng họ. Họ đã đưa mức tiền lương yêu cầu của họ khá cao từ 800 đến 1000 đôla Mỹ cho mỗi người. Trong công ty có người cho rằng yêu cầu ấy quá cao không thể xem xét được. Song Henry cho rằng đối với những nhân tài cao cấp chỉ cần có lợi cho công ty, có trả lương cao cho họ cũng hoàn toàn xứng đáng. Henry đã mời tất cả bọn họ đến công ty, lại giao cho cả trọng trách nữa.

Henry còn sử dụng cả Buliki vốn là phó tổng giám đốc của công ty xe hơi thông dụng để phụ trách công tác của công ty Ford. Sở trường của Buliki là tinh thông tài chính, ông đã có những nghiên cứu khoa học chuyên môn. Vào những năm 30, ông có được sự trọng dụng của công ty xe hơi thông dụng, mang lại những khoản lợi nhuận to lớn cho công ty ấy. Henry sử dụng Buliki một cách triệt để, không tiếc đáp ứng cho ông đặc quyền cổ phiếu. Henry Ford trọng sự hiểu biết sâu rộng của Buliki, ông hy vọng có thể tiến hành một số cải cách triệt để, mà như vậy cần có một người có kinh nghiệm quản lý toàn diện, Buliki là người hoàn toàn có thể đảm nhiệm vai diễn ấy. Buliki đem đến cho công ty Ford một số chế độ và phương pháp áp dụng của công ty xe hơi thông dụng và còn mang đến cho công ty Ford mấy nhân viên cao cấp của công ty thông dụng như Wiliamgesste, Kelusuo...

Sau đó bằng sự giúp đỡ của Kelusuo và những thần đồng Sangdun, đã xây dựng cho Henry chế độ quản lý tài vụ có thể khiến công ty Ford phát triển tốt đẹp. Về lãnh đạo thể chế, Henry Ford tiếp thu kiến nghị của Buliki, giao quyền lực xuống cơ sở, từ chế độ tập quyền vốn có đổi thành chế độ phân quyền; đem một công ty toàn vẹn đổi thành 15 bộ phận, giám đốc mỗi bộ phận có quyền tự chủ phụ trách công việc của bộ phận đó. Có bộ phận có cơ cấu quản lý của mình và có quyền quản lý chặt chẽ. Giữa các bộ phận vẫn có thể triển khai cạnh tranh. Trên thực tế đó là học tập cơ chế quản lý của công ty xe hơi Thông dụng.

Sự dũng cảm cải cách của Henry đã mang lại những thành quả rõ rệt. Năm đầu đã khiến công ty xoay chuyển từ tổn thất thành có lãi, giúp công ty bước ra khỏi hoàn cảnh khó khăn. Đến năm thứ hai lợi nhuận đã tăng lên đến hơn 6400 vạn đôla Mỹ, đến năm 1949 lợi nhuận đã tăng gấp đôi. Qua mấy năm cố gắng công ty Ford cuối cùng đã vượt công ty Claisle, có vị trí thứ hai trong nghành xe hơi nước Mỹ, sau này vẫn duy trì được vị trí ấy.

Có thể nói Henry Ford rất khéo dứt bỏ những thói quen truyền thống, vứt bỏ sự thủ cựu, trong sản phẩm tìm kiếm sự đổi mới, công nghệ hoá sản phẩm, đấy là một nguyên nhân dẫn đến thành công của công ty Ford. Khi Henry tiếp quản công ty Ford, ông đã quyết tâm không chỉ giới hạn cải tạo loại xe cũ, mà muốn sản xuất ra loại xe mới để giành được sự đánh giá tốt của thị trường. Từ đó công ty Ford liên tục cho ra đời nhiều loại xe mới phù hợp với nhu cầu của thị trường.

Tuy nhiên đứng trên phương diện của một nhà quản trị có thể thấy Henry rất tỉnh táo trong lĩnh vực tuyển dụng hiền tài, khéo biết cách dùng người, chú trọng phát huy mặt tốt đẹp nhất của nhân tài, đấy cũng là một nhân tố quan trọng để công ty Ford trở thành một công ty lớn thứ tư trên thế giới. Henry không đem sự hưng thịnh của công ty mà ký thác cho một nhân tài ưu tú nào. Từ năm 1946 đến 1986, trong vòng 40 năm chức vụ tổng giám đốc của công ty Ford đã thay đổi đến 10 lần, trung bình 4 năm thay một lần. Chức vụ tổng giám đốc của công ty mỗi khi thay đổi, công ty lại xuất hiện sự tiến triển mạnh mẽ mới.

Henry bằng vào nghiệp vụ mà thu nạp con người, đối với thành viên trong gia tộc Ford, Henry nghiêm chỉnh chiếu theo nguyên tắc có tài năng thì được giao chức trách công việc, không nặng về tình cảm gia tộc. Ông nói “chức vụ tối cao là không di truyền, chỉ có thể dựa vào chính mình để tranh đua mà thôi”

Như vậy Henry Ford đời thứ hai, bằng sự tài năng và sáng suốt của mình, không những đã vực dậy một công ty sắp bị phá sản trở thành công ty đứng thứ tư trên thế giới về mặt doanh số bán, mà còn để lại một tấm gương tốt về cách thức quản trị, đặc biệt là cách dùng người, rất đáng để cho các nhà quản trị sau này noi theo.

II. Warren Buffett và công ty Berkshire hathaway


Được coi là nhà quản trị quyền lực nhất nước Mỹ, song ông cũng là người nổi tiếng khiêm tốn khi nói về địa vị của ông trong cuộc đời. Tất nhiên Warren Buffett tận hưởng những đặc quyền riêng của một người giàu thứ hai thế giới, như đi đây đó bằng một trong những chiếc Netjet của mình và đánh bài Brit với “bạn” Bill Gates. Nhưng nhìn chung nhà đầu tư vĩ đại 72 tuổi xứ Ohama “ bỏ qua” quan điểm cho rằng ông là “tập bản đồ doanh nghiệp Mỹ”. Với điệu cười thầm đúng chất Warren, ông bảo: “điều này chỉ có nghĩa là nếu tôi làm một cái gì đó tồi tệ, mức độ tồi tệ đó sẽ rất “qui mô”. Nói cách khác là sẽ bổ sung vào những lỗ lã đó rất nhiều con số 0”.

Sự thật là chưa có những con số 0 như vậy. Công ty của Buffett – Berkshire Hathaway - đã trở lên tổ chức hùng mạnh nhất đất Mỹ với lợi nhuận hàng tỷ tỷ đôla trong mọi lĩnh vực từ bảo hiểm (nơi Buffett là một trong những người dẫn đầu thế giới) tới báo chí, thảm len và ủng cao bồi. Với tỷ suất lợi nhuận tổng cộng hàng năm trung bình đạt 21% trong vòng 15 năm qua (trong khi chỉ số này trên thị trường chỉ đạt 11%), Buffett đã chứng tỏ ông là nhà đầu tư kỳ khôi nhất thế giới. Cũng chính vì thế mà ảnh hưởng của ông lên chứng khoán và thị trường có thể nói là vô song. Chỉ cần ông cho biết là sẽ mua hay bán cổ phiếu nào là cổ phiếu đó sẽ“chuyển động” như trò chơi bắn đạn, chẳng thế mà ông vô cùng thận trọng khi bàn về đầu tư.

Một trong số ít những nơi ông dành để bàn về đầu tư là “những lá thư hàng năm gửi tới cổ đông” lại là mối thông tri được các CEO trên thế giới quan tâm nhất. Khi cựu tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân bàn về bản chất bí ẩn của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ với Bill Gates (khi ông này đến thăm Trung Quốc), Gates nói chỉ một người duy nhất trên đời này hiểu được điều đó: Warren Buffett. Gates còn nói thêm sau khi trở về Mỹ, ông sẽ gửi bản báo cáo hàng năm mới nhất của Buffett cho ông Giang.

Hơn nữa không nghi ngờ gì rằng Buffett là nhà kinh doanh được thỉnh cầu đến nhiều nhất bởi các tổng giám đốc (CEO) cần sự chỉ giáo. Buffett cho biết: “Bao quanh các CEO là những người làm công ăn lương. Tôi chả lấy gì cả cho nên tôi có thể cho họ những lời khuyên không thành kiến”. Năm năm qua không biết bao nhiêu CEO đã tới Ohama để gặp nhà hiền triết này, kể cả Jeff Immelt (CEO hàng đầu của công ty General Electric). Nói về Buffett Immelt thực sự ngưỡng mộ: “Tôi đã có đôi ba dịp nói chuyện (và dùng bít tết) với Buffett, ông ấy là nhà đầu tư tinh anh nhất thế giới, và tôi đang cố gắng nắm bắt những tư tưởng của ông”.

Quốc hội Mỹ cũng vô cùng tin tưởng Buffett. Vài ngày trước khi các nhà lập pháp bỏ phiếu thông qua dự thảo luật thuế của chính quyền Bush, Buffett đã có bài viết chấn động trên tờ “ Washington Post” chỉ ra những điều mà ông cho là “sự thiếu óc phán xét của việc xoá bỏ thuế cổ tức”. Cắt giảm thuế này theo ông sẽ chủ yếu làm lợi cho người giàu. Những lời nói mạnh mẽ từ Buffett đã đủ mạnh để làm dịu bớt bản dự thảo cuối về cắt giảm thuế này.

Đơn giản bởi Buffett được tôn trọng và ngưỡng mộ hơn bất cứ doanh nhân còn sống nào trên thế giới mà, và không chỉ bởi những người trong giới kinh doanh mà trong cả cộng đồng.


III. Andrew carnegie - ông vua sắt thép

Tính cách: quyết đoán và tinh tế

Andrew carnegie sinh năm 1835 tại scottland. Mười tuổi cậu bé Andrew theo gia đình sang định cư tại vùng Pittburgh, Hoa kỳ. Do cuộc sống gia đình chật vật nên Andrew không được tới trường, và thậm chí suốt cả cuộc đời sau này, dù thành đạt, nổi tiếng khắp thế giới, Andrew Carnegie chưa bao giờ theo học chính quy. Tất cả kiến thức uyên bác và đồ sộ mà ông vua này có được đều là “nhặt nhạnh” trên quãng đời mưu sinh.

12 tuổi Andrew làm phụ việc cho một xưởng dệt nhỏ, trong điều kiện vất vả, suốt ngày bên lò hơi nước nóng bức và chật chội. Một hôm ông chủ giao cho cậu công việc tính toán sổ sách và ông ta rất hài lòng về cậu thợ nhỏ này. Tuy được cải thiện công việc song Andrew không bằng lòng với công việc ghi chép đơn giản đó. Andrew tranh thủ đi học lớp kế toán kép vào ban đêm.

Khi đã đủ tuổi lao động Andrew xin vào làm ở một công ty điện tín. Với tính kiên trì và óc quyết đoán, Andrew không chỉ hoàn thành xuất sắc công việc mà còn nhận được sự tín nhiệm của các sếp. Có chuyện kể rằng, khi Andrew trực ở văn phòng điện báo với chức danh là điện tín viên nhận được bức điện báo có đoàn tàu hoả gặp nạn và kẹt lại trên đường sắt. Andrew cầm bức điện đi tìm người chỉ huy là Scott, nhưng ông ta không có mặt tại văn phòng. Suy nghỉ một lát, nghiên cứu sơ đồ tuyến đường và tìm hiểu ra nguên nhân, Andrew liền viết một bức điện ký tên Scott ra lệnh cho các nhà ga trên tuyến xử lý. Việc ra lệnh cho một đoàn tàu dừng hay chạy là quyền của người chỉ huy, ai ra lệnh đều là phạm pháp. Nhưng Andrew đã quyết định bằng một chữ ký giả.

Khi ông Scott về ông thấy trên bàn có một bức điện báo, ông liền viết một bức điện ra lệnh với nội dung y hệt như bức điện mà Andrew đã mạo danh gửi đi trước đó rồi giao cho Andrew: “Anh hãy đánh ngay bức điện này, nó liên quan đến sinh mạng của cả một đoàn tàu”. Andrew cầm bức điện vào phòng điện báo, rồi quy ra thành thật: “ Thưa ngài, cách đây nửa giờ tôi đã đánh đi một bức điện có nội dung y hệt như thế này”. “Ai ký tên?”. “ Tôi đã mạo chữ ký của ngài”. “Khá lắm”, ngài Scott gật đầu, “nhưng lần sau đừng làm như thế nữa”

Carnegie rất ham đọc nhưng không có tiền để mua sách. Khi biết ông đại tá về hưu Anderson có một thư viện riêng rất nhiều sách, Andrew đến hỏi mượn để đọc. Ngài đại tá nói: “ Tôi cho anh mượn sách đọc một tuần, đúng hạn anh đem trả, nếu quyển sách không bị lem bẩn tôi sẽ cho anh mượn tiếp”. Andrew chấp hành đúng quy định của ông đại tá. Anh đọc nhiều loại: lịch sử, c.huyện các anh hùng, kịch Shakepear... và sách nói về sản xuất thép và than.Những cuốn sách của ông đại tá về hưu đã có ảnh hưởng rất lớn đến chàng thanh niên Carnegie. Sau này khi trở thành người giàu có và khi ông đại tá qua đời, A. Carnegie đã xây một thư viện rất lớn trên nền nhà cũ của ngài đại tá với dòng chữ: “Xin hiến tặng đại tá James Anderson. Nhà kỉ niệm này của một thiếu niên có tên Andrew Carnegie để tỏ lòng biết ơn đối với ngài”

Năm Carnegie 21 tuổi, công ty Adam, một công ty vận chuyển nhanh có một cổ đông muốn bán cổ phần của mình. Andrew nhận thấy sự phát triển của Adam nên anh quyết định mua cổ phần này. Nhưng toàn bộ gia sản của Andrew chỉ có 50 đôla, anh phải đi vay mượn để có được 600 đôla để mua cổ phần. Quả nhiên chỉ sau một thời gian ngắn, từ 600 đôla Andrew đã có vài chục ngàn đôla.

Người ta có nhận xét về Andrew Carnegie trong giai đoạn này: không từ một thủ đoạn nào, hễ có cơ hội là ông lao vào kiếm tiền. Khi phát hiện ra một lô đất có chứa những giếng dầu, Carnegie đã đến hỏi mua, nhưng lô đất này đã có người mua rồi. Không thất vọng Andrew Carnegie đã biếu vợ của người chủ đất một món quà đắt tiền: một xấp lụa và kèm theo một nhẫn kim cương. Kết quả là anh đã mua được lô đất đó có chứa dầu bên dưới. Và với 40000 đôla mua miếng đất đó, ông đã thu được một triệu đôla lợi nhuận mỗi năm.

Sau đó Adrew Carnegie sang làm thư ký cho hãng xe lửa Pennsylvania. Khi Woodruff phát minh ra toa xe lửa có giường nằm, Carnegie đã tham gia đầu tư 2 triệu đôla và lợi nhuận sau mỗi năm là 50 triệu đôla.

Năm 1862, khi nội chiến nổ ra ở Mỹ, đường sắt và nhất là những cây cầu bằng gỗ luôn bị đốt cháy, Carnegie đã lập ra một công ty cầu sắt, đơn đặt hàng gửi đến tới tấp.

Năm 29 tuổi, mặc dù đang làm ăn thuận lợi nhưng Carnegie quyết định nghỉ việc và bỏ ra 280 ngày sang châu âu để quan sát. Sau chuyến đi này Carnegie kết luận: thời đại của sắt thép đã đến và đây là ngành có lợi nhuận cao nhất. Đến Luân Đôn, Carnegie đã mua bằng sáng chế luyện thép của anh em nhà Darbay. “Bằng sáng chế này có giá trị ít nhất là 5000 pound vàng ròng!” ông trả lời người em. Và Carnegie quyết định mua luôn bằng sáng chế rửa than cốc của người Anh.

Về nước năm 1868, Carnegie xây dựng một lò thép gió, bất chấp sự phản đối của Tome, em ruột. Và quả nhiên thép gió của Carnegie thuộc loại có chất lượng cao:bền và cứng lại không giòn.

Xuất thân từ một anh kế toán, Carnegie đặc biệt quan tâm đến việc tính toán chi phí và giá thành. Ông cho rằng : chú ý đến giá thành thì tự nhiên sẽ có lợi nhuận. Trong khi các công ty sắt thép chi phí cho một tấn là 110 đôla thì thép của Carnegie chỉ hết có 56,5 đôla. Sự tính toàn này còn giúp cho Carnegie quyết định đầu tư những xưởng luyện thép lớn, với công nghệ mới, tốn kém tới mức nhiều người phát hoảng, trong khi đó Andrew Carnegie lại rất bình thản, vì ông biết lợi nhuận thu được sẽ không nhỏ.


Chính sách sử dụng nhân tài

Nhiều người đặt câu hỏi làm cách nào mà Carnegie lại điều hành được một khối lượng công việc lớn đến như vậy. Bí quyết của ông là sử dụng những chuyên gia giỏi. Ông thuê một chuyên gia giỏi là Alexander Holly để điều hành và sẵn sàng mua những phát minh của Holly với giá khuyến khích. Vì thế việc luyện thép luôn ổn định.

Khi làm cầu sắt thay cho cầu gỗ, Carnegie đã tìm bằng được những công trình sư đã làm chiếc cầu sắt duy nhất trong vùng và mời họ tham gia vào công ty của ông. Khi một công trình sư nghỉ phép về quê, trong khi Carnegie muốn ông ta quay trở lại. Ông tìm hiều và biết rằng nhà kỹ sư này rất thích ngựa. Thế là Carnegie mời ông ta ở lại để giúp mình “ mua ngựa”, nhưng thực ra là để hoàn thành công việc dù vẫn có ngựa tốt cho công trình sư. “Ông ấy ở lại vui vẻ sẽ có lợi cho công việc. Nếu tôi cưỡng bách tất nhiên ông ta phải nghe, nhưng kết quả công việc sẽ ra sao?” Carnegie tâm sự sau vụ này.

Carnegie có biệt tài nhìn người tài. Ông đến xưởng của mình và để ý thấy một thanh niên đứng bán tạp hoá ở một cửa hiệu nhỏ bên cạnh. Nhận thấy tài năng của anh này,Carnegie đã mời anh ta về xưởng, và chỉ sáu tháng sau ông đã cho anh ta làm phó xưởng. Để rồi năm 39 tuổi anh ta giữ chức tổng giám đốc, mỗi năm đem về lợi nhuận hơn 5 triệu đôla cho ông.

Andrew Carnegie tuyên bố: nhân viên của tôi không phải là người làm thuê cho tôi, mà họ chính là tôi, bộ mặt của tôi, trình độ văn hoá của tôi. Đặc biệt Carnegie có một đội ngũ nhân viên xuất sắc đến nỗi ông có thể tự hào mà nói rằng: “ Cứ việc lấy đi công xưởng, thị trường và toàn bộ tài sản, tiền bạc của tôi, nhưng để lại cho tôi số nhân viên của tôi, thì 4 năm sau, tôi sẽ lại trở thành ông vua sắt thép như cũ”.

Là người không được học hành bài bản, tri thức của Carnegie chủ yếu dựa vào sách vở, nên ông rất quý sách và thư viện. Ông không đố kỵ với những người có học mà ngược lại luôn trân trọng họ. Trong số lợi nhuận thu được từ kinh doanh, ông dùng phần lớn để mở các thư viện, cho mọi người đều được đọc sách. Năm 1874, khi cùng mẹ về thăm quê (Scottland) ông đã bỏ ra 8000 bảng Anh để xây một thư viện. Trong đời Carnegie, ông đã xây dựng cơ sở vật chất cho 2811 thư viện, và mãi mãi ông không quên vị đại tá về hưu đã cho ông được đọc những cuốn sách đầu tiên trong đời.

Năm 1913, Andrew Carnegie rút lui khỏi kinh doanh và thành lập “Quỹ liên hợp vương quốc Carnegie” nhằm phục vụ sự nghiệp phúc lợi của nhân dân Anh và Scottland.

Andrew Carnegie mất năm 1919, để lại một tập đoàn thép khổng lồ khi quết định hợp nhất với tập đoàn thép của Morgan.

LờI KếT

Qua việc viết bài này tôi chỉ mong sao có thể biến những nghiên cứu của mình trở thành một bài học tốt cho những nhà quản trị tương lai, bởi hơn ai hết, đất nước đang rất cần họ, những nhà quản trị giỏi, để có thể góp phần đưa đất nước đi lên ít ra là ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực. Với ý muốn đó, dù chỉ gây cho một người thanh niên thôi cái ý muốn xông pha vào con đường đưa tới thành công thì tôi cũng đã mãn nguyện lắm rồi, và bài viết này của tôi đã không đến nỗi làm một công việc vô ích.



Nếu có bất cứ thắc mắc nào hoặc có điều muốn chia sẻ, xin hãy liên lạc với tôi theo địa chỉ: Sinh viên Phạm Thị Kim Dung - Lớp Quản lý kinh tế 43A – Khoa khoa học quản lý, trường Đại học kinh tế quốc dân. Tôi xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu của bạn đọc.

Tài liệu tham khảo





  1. Vương Vĩ – Tính cách và những quan hệ giao tiếp để thành công, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, 2002.

  2. Dương Thu ái (dịch) – Thương chiến binh pháp , Nhà xuất bản thanh niên, 1996.

  3. Beaverbrook – Tay trắng làm nên, người dịch: Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản Long An,1991.

  4. Lộ Tiểu Khả - Con đường phi thường của Đặng Tiểu Bình, nhà xuất bản văn hoá thông tin, 2002.

  5. Chu Trọng Lương – Thế kỷ XXI, làm lãnh đạo như thế nào, nhà xuất bản Hà nội, 2003.

  6. Hồ ánh Trâm – Chân dung các nhà tỷ phú trên thế giới, người dịch: Nguyễn Quốc Thái, nhà xuất bản văn hoá thông tin, 2001.

  7. Nguyễn Sơn Hà - Tay trắng làm nên, nhà xuất bản thanh niên, 2000.

  8. Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý – Tinh hoa quản lý (25 tác giả và tác phẩm nổi tiếng nhất về quản lý trong thế kỷ XX), nhà xuất bản lao động xã hội, 2003.

  9. TS. Nguyễn Thanh Hội, TS. Nguyễn Thăng – Quản trị học, nhà xuất bản thống kê, 2001.

  10. Khoa khoa học quản lý, trường đại học kinh tế quốc dân – Giáo trình lý thuyết quản trị kinh doanh, nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, 1999.

  11. Bộ môn kinh tế, quản trị kinh doanh công nghiệp và xây dựng – Giáo trình quản trị doanh nghiệp, nhà xuất bản lao động xã hội, 2004.

  12. Khoa khoa học quản lý, trường đại học kinh tế quốc dân – Giáo trình khoa học quản lý, tập I, II. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, 2001.


(Nguồn: Đề tài của bạn Ph¹m ThÞ Kim Dung-QLKT 43A)


1 Giáo trình khoa học quản lý, tập 1-Khoa khoa học quản lý- Đại học Kinh tế quốc dân

2 Chân dung các nhà tỷ phú trên thế giới-Nhà xuất bản văn hoá thông tin- Trang 393.

3 Tính cách và những quan hệ giao tiếp để thành công- Vương Vĩ- Nhà xuất bản văn hoá thông tin- Trang 115.

4 Giáo trình khoa học quản lý, tập I – khoa khoa học quản lý – Trường Đại học kinh tế quốc dân, trang 177.

5 Tay trắng làm nên – Người dịch Nguyến Hiến Lê - Nhà xuất bản Long An 1991, trang 19.


C¸c phÈm chÊt cÇn thiÕt cña nhµ qu¶n trÞ giái


tải về 261.42 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương