Longchuathuongxot vn ĐT: 38. 290. 093 Ân huệ ban cho một linh hồn khiêm tốn sẽ nhiều hơn những gì linh hồn ấy nài xin



tải về 3.12 Mb.
trang8/17
Chuyển đổi dữ liệu14.10.2017
Kích3.12 Mb.
#33646
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   17
Bài đọc Cựu Ước và bài Đáp ca nhắm tới việc Chúa đến lần thứ nhất (Đấng Messia đến). Còn bài Tin Mừng nhắm đến việc Chúa đến lần thứ hai (Đức Giêsu trở lại). Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu chỉ rõ thái độ cần phải có để chờ Chúa trở lại là tỉnh thức sẵn sàng (như người đầy tớ thức chờ chủ về đột ngột giữa đêm khuya). Đức Giêsu cũng cho biết lý do tại sao phải tỉnh thức sẵn sàng: vì Ngài sẽ trở lại cách bất ngờ.

CHỜ ĐỢI

Những giây phút chờ đợi là thời gian căng thẳng nhất nhưng cũng có ý nghĩa nhất. Những người yêu nhau chờ tới ngày cưới, cha mẹ chờ đứa con ra đời, gia đình chờ một người thân trở về, người lao động chờ công việc mình sinh kết quả… Trong cuộc sống hàng ngày, người ta luôn chờ đợi một cái gì đó. Khi không còn chờ gì nữa, không còn mong gì nữa thì đời kể như sắp chết.

Lịch sử Israel cũng là một cuộc chờ đợi. Chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự chờ đợi của Israel lên đến cao điểm khi họ bị lưu đày bên Babylon (Bài đọc 1).

Rồi Đấng Messia đã đến. Phải chăng không còn phải chờ đợi nữa? Không, mỗi người vẫn còn phải chờ đợi, chờ cho sự công chính được hoàn thành nơi bản thân mình. Bởi đó, Đức Giêsu nói "Phúc cho ai đói khát điều công chính". Đói khát điều công chính và chờ đợi công chính thực hiện chính là một mối phúc.

Mùa Vọng là thời gian chờ đợi: chờ Đức Giêsu đến thăm chúng ta vào dịp lễ Giáng sinh, và chờ Ngài đến với chúng ta mỗi ngày trong Bí tích Thánh Thể.

Chờ đợi như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay dạy: chờ đợi bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.



"TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN"

Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm".

Bài Tin mừng đầu năm Phụng vụ hôm nay, nhắc nhở chúng ta dọn mình: đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đón Chúa đến trong giờ chết, và trong ngày cánh chung của nhân loại.

Mùa Vọng là mùa của mong đợi. Mong đợi nào cũng làm cho con người mỏi mòn. Nhưng chính sự mòn mỏi đó càng làm cho cuộc gặp gỡ thêm nồng thắm hơn.

Thái độ cần phải có là hãy "tỉnh thức và cầu nguyện" để "nhận biết thời gian Chúa đến viếng thăm" (c.19, 44). Nếu Chúa đã nhắn nhủ: "Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về" thì không có lời khuyên nào khôn ngoan hơn lời Cha Charles de Foucauld: "Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay".

Nếu những cuộc viếng thăm là những hồng ân của Chúa, thì chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ vì sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng. Chúng ta có quyền ước mơ, dự tính xây dựng tương lai, nhưng đừng bao giờ quên mục đích cuối cùng là phải "gặp được Chúa".



Nhưng có một sự thực này, nó rất thực, và đó là sự thực nhất trên đời là nếu chúng ta không thường gặp Chúa trong cuộc sống, thì chúng ta cũng sẽ không thể gặp Người vào giây phút cuối cuộc đời.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết "tìm gặp Chúa" trong mọi ơn lành Chúa ban, trong các bí tích, trong các việc lành và trong người anh em, để chúng con sẽ gặp được Chúa trong ngày Chúa đến viếng thăm. Amen.

HỌC HỎI LINH ĐẠO

Bài 31





(Tiếp theo)

Lm. G. Tạ Huy Hoàng

Dẫn vào

Thỉnh thoảng có người hỏi tại sao Giáo hội lại tuyên xưng và đề cao lòng thương xót của Chúa. Một trong những câu trả lời chủ chốt phải là: “Bởi lẽ không chỉ trong Thánh kinh có đến hơn 400 chỗ nói trực tiếp về lòng Chúa thương xót, mà còn rất nhiều chỗ khác – nếu không muốn nói là hầu như khắp nơi trong cái nhìn toàn cục của mầu nhiệm cứu độ – cũng thật ra đều là những chỗ mà trong đức tin, người ta có thể và phải làm nổi lên một thực tại, thực tại của lòng Chúa xót thương”.

Thật vậy, khi người Pharisêu cứ đứng “ưỡn ngực” để “trò chuyện” với Chúa thì rõ ràng không đúng cách, không thể sánh với cách thức mà người thu thuế sử dụng để thưa chuyện với Chúa – “không dám ngước mắt lên trời” nhưng đấm ngực ăn năn sám hối, và khiêm tốn dâng lời cầu nguyện xin thứ tha. Vâng, đó cũng là một câu trả lời, một thực tại nữa, thực tại của con người yếu đuối, bất toàn đang rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa.

Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’ Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’ Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.1



Sáu lần sử dụng từ mercy

1. APV VII 4

      • Finally, the Church—professing mercy and remaining always faithful to it—has the right and the duty to call upon the mercy of God, imploring it in the face of all the manifestations of physical and moral evil, before all the threats that cloud the whole horizon of the life of humanity today. (VII 4)

      • Enfin, l’Eglise - professant la miséricorde et lui demeurant toujours fidèle - a le droit et le devoir d’en appeler à la miséricorde de Dieu, de l’implorer en face de toutes les formes de mal physique et moral, devant toutes les menaces qui s’appesantissent à l’horizon de la vie de l’humanité contemporaine. (VII 4)

      • Cuối cùng, Giáo hội – tuyên xưng lòng thương xót và luôn trung thành với điều ấy – có quyền và bổn phận kêu nài tới lòng Chúa thương xót khi phải trực diện với mọi biểu hiện của sự dữ thể lý và tinh thần, trước mọi hình thức đe dọa đang bao phủ tới tận chân trời cuộc sống của nhân loại ngày nay. (VII 4)

2. APV VII 13,1

      • The Church must profess and proclaim God’s mercy in all its truth, as it has been handed down to us by revelation. (VII 13,1)

      • L’Eglise doit professer et proclamer la miséricorde divine dans toute sa vérité, telle qu’elle nous est attestée par la révélation. (VII 13,1)

      • Giáo hội phải tuyên xưng và công bố lòng Chúa thương xót trong toàn bộ sự thật của lòng Chúa xót thương, như mạc khải đã truyền lại cho chúng ta. (VII 13,1)

3. APV VII 13,3

      • In the daily life of the Church the truth about the mercy of God, expressed in the Bible, resounds as a perennial echo through the many readings of the Sacred Liturgy. (VII 13,3)

      • Dans la vie quotidienne de l’Eglise, la vérité sur la miséricorde de Dieu, exposée dans la Bible, trouve constamment un écho dans de nombreuses lectures de la sainte liturgie. (VII 13,3)

      • Trong đời sống hằng ngày của Giáo hội, chân lý về lòng Chúa thương xót được trình bày trong Thánh kinh, vẫn luôn âm vang qua nhiều bài đọc thuộc phụng vụ thánh. (VII 13,3)

4. APV VII 13,6

      • Some theologians affirm that mercy is the greatest of the attributes and perfections of God, and the Bible, Tradition and the whole faith life of the People of God provide particular proofs of this. (VII 13,6)

      • Des théologiens affirment que la miséricorde est le plus grand des attributs de Dieu, la plus grande de ses perfections; la Bible, la Tradition et toute la vie de foi du peuple de Dieu en fournissent des témoignages inépuisables. (VII 13,6)

      • Một sốMộtMột số nhà thần học quả quyết rằng lòng thương xót là thuộc tính cao cả và hoàn hảo nhất của Thiên Chúa; Thánh kinh, Thánh Truyền và toàn bộ đời sống đức tin của Dân Chúa đều cho thấy những chứng cứ đặc biệt về quả quyết này. (VII 13,6)

5. APV VII 13,8

      • In harmony with Christ’s words to Philip,2 the “vision of the Father”- a vision of God through faith finds precisely in the encounter with His mercy a unique moment of interior simplicity and truth, similar to that which we discover in the parable of the prodigal son. (VII 13,8)

      • Conformément aux paroles que le Christ adressa à Philipp3, la “vision du Père” - vision de Dieu par la foi - trouve dans la rencontre avec sa miséricorde un degré de simplicité et de vérité intérieure semblable à celui que nous trouvons dans la parabole de l’enfant prodigue. (VII 13,8)

      • Đúng theo ngôn từ Đức Kitô đã nói với Philípphê về việc “thấy Chúa Cha”,4 việc thấy Thiên Chúa nhờ đức tin đạt được cách chính xác trong cuộc gặp gỡ – với lòng Chúa thương xót – một cấp độ duy nhất của sự đơn sơ và chân thật nội tâm, tương tự với cấp độ đơn sơ và chân thật mà chúng ta khám phá thấy trong dụ ngôn người con hoang đàng. (VII 13,8)

Để kết

Nói tóm lại, Giáo hội vẫn luôn hết lòng tuyên xưng lòng thương xót của Chúa; đồng thời Giáo hội cũng vẫn luôn trung thành với tâm tình tin tưởng cậy trông. Nghĩa là, Giáo hội “… có quyền và bổn phận kêu nài tới lòng Chúa thương xót khi phải trực diện với mọi biểu hiện của sự dữ thể lý và tinh thần, trước mọi hình thức đe dọa đang bao phủ tới tận chân trời cuộc sống của nhân loại ngày nay”.5 Thật vậy, “Giáo hội phải tuyên xưng và công bố lòng Chúa thương xót trong toàn bộ sự thật của lòng Chúa xót thương, như mạc khải đã truyền lại cho chúng ta”.6

Vì thế, trong “ … đời sống hằng ngày của Giáo hội, chân lý về lòng Chúa thương xót được trình bày trong Thánh kinh, vẫn luôn âm vang qua nhiều bài đọc thuộc phụng vụ thánh”.7 Thậm chí, m Một sốMộtột số nhà thần học còn quả quyết rằng: “lòng thương xót là thuộc tính cao cả và hoàn hảo nhất của Thiên Chúa; Thánh kinh, Thánh Truyền và toàn bộ đời sống đức tin của Dân Chúa đều cho thấy những chứng cứ đặc biệt về quả quyết này”;8 đúng theo ngôn từ Đức Kitô đã nói với Philípphê về việc “thấy Chúa Cha”:9 “việc thấy Thiên Chúa nhờ đức tin đạt được cách chính xác trong cuộc gặp gỡ – với lòng Chúa thương xót – một cấp độ duy nhất của sự đơn sơ và chân thật nội tâm, tương tự với cấp độ đơn sơ và chân thật mà chúng ta khám phá thấy trong dụ ngôn người con hoang đàng”.10

----------------------------------

1 Lc 18,9-14.

2 Cf. Jn 14:9-10.

3 Cf. Jn 14,9-10.

4 Ga 14,9-10.

5 VII 4.

6 VII 13,1.

7 VII 13,3.

8 VII 13,6.

9 Ga 14,9-10.

10 VII 13,8.


THÔNG CÁO CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

VỀ VIỆC TÔN KÍNH TỔ TIÊN

(Giám mục Miền Nam họp hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 13 và 14/6/1965 đã công bố thông báo này)

Ngày 20/10/1964, Tòa Thánh, qua Bộ truyền giáo đã chấp nhận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng huấn thụ Plane compertum est (8/12/1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt Nam. Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám Mục muốn nêu lên mấy điểm sau:



I. Giáo Hội Công giáo đối với nền văn hóa và truyền thống các dân tộc:

1. Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ Mật Viện, ngày 20/02/1946).

2. Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay, Giáo Hội Công giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã thánh hóa những phong tục cũng như những truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội cũng đã nhiều lần đem nghi lễ của miền này, xứ nọ sát nhập vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu chỉnh cả tinh thần và hình thức, để ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones, 02/6/1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong Thông điệp Princeps Pastorum, 28/11/1959).

3. Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mạc khải một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, Thông điệp Ecclesiam suam, 6/8/1964). Giáo Hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là "đường đi, là chân lý và là nguồn sống" và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hòa với muôn vật.

Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ý cứu xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia sáng nào đó của chính cái chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội khuyên dục con cái mình tuy vẫn phải giữ Đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này (Công đồng Vaticanô II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày 20/11/1964).

Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc kết trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong Đệ nhị Công đồng Vatican, đã giải thích lý do của quyết định Toà Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám Mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12-14/6/1965 đã cho công bố thông cáo này.



II. Thể thức áp dụng huấn thị Plane compertum est:

1. Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.

Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ …) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.

2. Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ Đức tin Công giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi, cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy.

Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với Giáo lý Công giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự… thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (DL 1917).

3. Đối với những việc mà không rõ là thế tục hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với Đức tin Công giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy: Nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ có tính cách thụ động.

Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Toà Thánh và bàn hỏi với các Giáo sĩ thành thạo. Yêu cầu quý Cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các Nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công giáo. Các vị phụ trách Công giáo tiến hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.

Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965

QUYẾT NGHỊ VỀ LỄ NGHI TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN

"Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động" (Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1974).



Quyết nghị về Lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên

Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 tháng 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về Truyền Bá Phúc Âm ngày 14.6.1965, về các lễ nghi tôn kính Ông Bà tổ tiên, như sau:

"Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động" (Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1974).

1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.

2. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.

3. Ngày giỗ cũng là ngày "kỵ nhật" được "cúng giỗ" trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.

4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm "Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên" trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.

5. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.

6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các "yêu thần, tà thần".

Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm... Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền phải "thảo kính cha mẹ", đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.



Tại Nha Trang, ngày 14.11.1974

 Ký tên:


 - Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế

- Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho

- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long

- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ

- Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang- Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột

- Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Quy Nhơn


1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương