LỜi vàng phật dạY (kinh pháp cú dhammapada)



tải về 345.16 Kb.
trang9/10
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích345.16 Kb.
#29802
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

XXV.PHẨM TỲ-KHEO


(BHIKKHUVAGGA)

344.Chế phục được mắt, lành thay, chế phục được tai, lành thay, chế phục được mũi, lành thay, chế phục được lưỡi, lành thay, chế phục được thân, lành thay, chế phục được lời nói, lành thay, chế phục được tâm ý, lành thay, chế phục được hết thảy, lành thay; Tỳ-kheo nào chế phục được hết thảy thì giải thoát hết khổ.

345.Gìn giữ tay chân và ngôn ngữ, gìn giữ cái đầu cao196, tâm ưa thích Thiền định, ở riêng một mình và tự biết đầy đủ; ấy là bậc Tỳ-kheo.

346.Tỳ-kheo biết thuần hóa ngôn ngữ, khôn khéo mà tịch tịnh, thì khi diễn bày pháp nghĩa, lời lẽ rất hòa ái, rõ ràng.

347.Tỳ-kheo nào an trú trong lạc viên Chánh pháp, mến pháp và tùy pháp, tư duy nhớ tưởng pháp, thì sẽ bị thối chuyển.

348.Chớ nên khinh điều mình đã chứng, chớ hâm mộ điều người khác đã chứng. Tỳ-kheo nào chỉ lo hâm mộ điều người khác tu chứng, cuối cùng mình không chứng được Tam-ma-địa (chánh định)197.

349.Tỳ-kheo nào dù tu chứng được chút ít mà không khinh ghét sự chút ít đã được ấy, cứ sinh hoạt thanh tịnh và siêng năng, mới thật đáng được chư Thiên khen ngợi.

350.Đối với danh và sắc không chấp “ta” “của ta”. Không “ta” và “của ta” nên không ưu não. Người như vậy mới đáng gọi là Tỳ-kheo.

351.Tỳ-kheo an trú trong tâm từ bi, vui thích giáo pháp Phật đà, sẽ đạt đến cảnh giới tịch tịnh an lạc, giải thoát các hành (vô thường).

352.Tỳ-kheo tát nước thuyền này198, hễ hết nước thì thuyền nhẹ và đi mau. Đoạn hết tham dục và sân nhuế trong thân này thì mau chứng Niết-bàn.

353.Tỳ-kheo nào đoạn năm điều199, bỏ năm điều200, siêng tu năm điều201, vượt khỏi năm điều say đắm202, Tỳ-kheo ấy là người đã vượt qua dòng nước lũ203.

354.Hãy tu định, chớ buông lung, tâm chớ mê hoặc theo dục. Đừng đợi đến khi nuốt hòn sắt nóng mới ăn năn than thở.

355.Không có Trí tuệ thì không có Thiền định, không có Thiền định thì không có Trí tuệ. Người nào gồm đủ Thiền định và Trí tuệ thì gần đến Niết-bàn.

356.Tỳ-kheo đi vào chỗ yên tĩnh, thời tâm thường vắng lặng, quán xét theo Chánh pháp, được thọ hưởng cái vui của siêu nhân.

357.Người nào thường chánh niệm đến sự sanh diệt của các uẩn thì sẽ được vui mừng. Nên biết: Người đó không chết.

358.Nếu là Tỳ-kheo sáng suốt, dù ở trong đời, trước tiên vẫn lo nhiếp hộ các căn và biết đủ, lo hộ trì giới luật.

359.Thái độ thì phải thành khẩn, hành vi thì phải đoan chánh. Được vậy, họ là người nhiều vui và sạch hết khổ não.

360.Cành hoa Bạt-tất-ca204 bị úa tàn như thế nào, Tỳ-kheo các ông cũng làm cho tham sân úa tàn như thế.

361.Tỳ-kheo nào thân tịch tịnh ngữ tịch tịnh, tâm an trú tam muội, xa lìa dục lạc, Tỳ-kheo ấy là người tịch tịnh.

362.Các ngươi hãy tự cảnh sách, các ngươi hãy tự phản tỉnh! Tự hộ vệ và chánh niệm, mới là Tỳ-kheo an trụ trong an lạc.

363.Chính các ngươi là kẻ bảo hộ cho các ngươi, chính các ngươi là nơi nương náu cho các ngươi. Các ngươi hãy gắng điều phục lấy mình như thương khách lo điều phục con ngựa lành.

364.Tỳ-kheo đầy đủ tâm hoan hỷ, thành tín theo giáo pháp Phật đà, sẽ đạt đến cảnh giới tịch tịnh an lạc, giải thoát hết các hành (vô thường).

365.Tỳ-kheo tuy nhỏ tuổi mà siêng tu giáo pháp Phật đà, thì họ là ánh sáng chiếu soi thế gian như mặt trăng ra khỏi đám mây mù.

---o0o---


XXVI.PHẨM BÀ-LA-MÔN205


(BRAHMANAVAGGA)

366.Dũng cảm đoạn trừ lòng ái dục, các ngươi bỏ dục mới là Bà-la-môn. Nếu thấy rõ các uẩn206 diệt tận, các ngươi liền thấy được Vô tác (Niết-bàn).

367.Nếu thường trú trong hai pháp207, hàng Bà-la-môn đạt đến bờ kia; dù có bao nhiêu ràng buộc cũng đều bị dứt sạch do trí tuệ của người kia.

368.Không bờ kia cũng không bờ này208, cả hai bờ đều không, xa lìa khổ não209, không bị trói buộc; đó gọi là Bà-la-môn.

369.Ai nhập vào Thiền định, an trú ly trần cấu, việc cần làm đã làm xong, phiền não lậu dứt sạch, chứng cảnh giới tối cao; đó là Bà-la-môn.

370.Mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm, khí giới chiếu sáng dòng vua chúa, Thiền định chiếu sáng kẻ tu hành, nhưng hào quang đức Phật chiếu sáng cả ngày đêm.

371.Người dứt bỏ ác nghiệp gọi là Bà-la-môn; người hành vi thanh tịnh gọi là Sa-môn; người tự trừ bỏ cấu uế, gọi là người xuất gia.

372.Chớ đánh đập Bà-la-môn! Bà-la-môn chớ sân hận! Người đánh đập mang điều đáng hổ, người sân hận lại càng đáng hổ hơn.

373.Bà-la-môn, đây không phải là điều ích nhỏ. Nếu biết vui mừng chế phục tâm mình, tùy lúc đoạn trừ tâm độc hại thì thống khổ được ngăn chặn liền.

374.Không dùng thân, ngữ, ý tạo tác nghiệp ác, chế ngự được ba chỗ đó, đó gọi là Bà-la-môn.

375.Bất luận nơi đâu được nghe đấng Chánh đẳng Chánh giác thuyết pháp, hãy đem hết lòng cung kính như Bà-la-môn210 kính thờ lửa.

376.Chẳng phải vì bện tóc, chẳng phải vì chủng tộc, cũng chẳng phải tại nơi sanh mà gọi là Bà-la-môn; nhưng ai hiểu biết chân thật211,thông đạt Chánh pháp, đó là kẻ Bà-la-môn hạnh phúc212.

377.Người ngu bện tóc và mặc áo da213 đâu có ích chi? Trong lòng còn chứa đầy tham dục, thì dung nghi bên ngoài chỉ là trang điểm suông.

378.Ai mặc áo phấn tảo214, gầy ốm lộ gân xương, ở rừng sâu tu định; đó gọi là Bà-la-môn.

379.Gọi là Bà-la-môn, không phải từ bụng mẹ đẻ ra. Nếu cứ chấp chặt các phiền não thì chỉ được gọi là “Bồ”suông215. Người nào lìa hết chấp trước, đó gọi là Bà-la-môn.

380.Ai đoạn hết kiết sử, người đó thật không còn sợ hãi. Không bị đắm trước, xa lìa ràng buộc; đó gọi là Bà-la-môn.

381.Như ngựa bỏ đai da, bỏ cương, bỏ dây và đồ sở thuộc, người giác trí bỏ tất cả chướng ngại, đó gọi là Bà-la-môn216.

382.Nhẫn nhục khi bị đánh mắng không sinh lòng sân hận, người có đội quân nhẫn nhục hùng cường, đó gọi là Bà-la-môn.

383.Người đầy đủ đức hạnh: không nóng giận, trì giới không dục nhiễm, chế ngự và đạt được thân cuối cùng, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.

384.Như nước giọt lá sen, như hột cải đặt đầu mũi kim, người không đắm nhiễm ái dục cũng như thế, Ta gọi họ là Bà-la-môn.

385.Nếu ngay tại thế gian này, ai tự giác ngộ và diệt trừ đau khổ, trút bỏ gánh nặng mà giải thoát, Ta gọi họ là Bà-la-môn. Người có trí tuệ sâu xa, biết rõ thế nào là đạo, phi đạo và chứng đến cảnh giới vô thượng, đó gọi là Bà-la-môn.

386.Chẳng lẫn lộn với tục luân, chẳng tạp xen với Tăng lữ, xuất gia lìa ái dục, đó gọi là Bà-la-môn.

387.Bỏ hết đao trượng, không tự mình giết, không bảo người khác giết đối với tất cả hữu tình mạnh yếu; người như thế Ta gọi là Bà-la-môn.

388.Ở giữa đám người cừu địch mà gây tình hữu nghị, ở giữa đám người hung hăng cầm gậy mà giữ khí ôn hòa, ở giữa đám người chấp đắm mà không chấp đắm, người như thế Ta gọi là Bà-la-môn.

389.Từ lòng tham dục, sân nhuế, kiêu mạn, cho đến lòng hư ngụy, đều thoát bỏ như hột cải không dính đầu mũi kim, người như thế Ta gọi là Bà-la-môn.

390.Chỉ nói lời chân thật hữu ích, không nói lời thô ác, không xúc phạm đến người, đó gọi là Bà-la-môn.

391.Đối với vật gì xấu hay tốt, dài hay ngắn, thô hay tế, mà người ta không cho thì không lấy, đó gọi là Bà-la-môn.

392.Đối với đời này cũng như đời khác, không móng lòng dục vọng, vô dục nên giải thoát, đó gọi là Bà-la-môn.

393.Người không còn tham dục, liễu ngộ không nghi hoặc, chứng đến bậc Vô sanh, đó gọi là Bà-la-môn.

394.Nếu ở thế gian này, không chấp trước thiện và ác, thanh tịnh không ưu lo, đó gọi là Bà-la-môn.

395.Cái ái dục làm tái sanh đã được đoạn tận, như trăng trong không bợn, đứng lặng mà sáng ngời, đó gọi là Bà-la-môn.

396.Vượt khỏi đường gồ ghề, lầy lội217, ra khỏi biển luân hồi ngu si mà lên đến bờ kia, an trú trong Thiền định, không nghi hoặc, không chấp đắm, chứng Niết-bàn tịch tịnh, người như thế Ta gọi là Bà-la-môn.

397.Xả bỏ dục lạc ngay tại đời này mà xuất gia làm Sa-môn không nhà, không cho dục lạc phát sinh lại, người như thế Ta gọi là Bà-la-môn.

398.Xả bỏ ái dục ngay tại đời này mà xuất gia làm Sa-môn không nhà, không cho ái dục phát sinh lại, người như thế Ta gọi là Bà-la-môn.

399.Lìa khỏi trói buộc của nhân gian, vượt khỏi trói buộc của thiên thượng, hết thảy trói buộc đều lìa sạch, đó gọi là Bà-la-môn.

400.Xả bỏ điều ưa ghét, thanh lương không phiền não, dũng mãnh hơn thế gian218, đó gọi là Bà-la-môn.

401.Nếu biết tất cả loài hữu tình tử thế nào, sinh thế nào, không chấp trước, khéo vượt qua, đó gọi là Bà-la-môn.

402.Dù chư Thiên, Càn-thát-bà hay nhân loại, không ai biết được nơi chốn của vị A-la-hán đã dứt sạch phiền não; vị ấy Ta gọi là Bà-la-môn.

403.Quá khứ vị lai hay hiện tại, người kia chẳng có một vật chi, người không chấp thủ một vật chi ấy, gọi là Bà-la-môn.

404.Hạng người dũng mãnh, tôn quí như trâu chúa219, hạng người thắng lợi220, vô dục như đại tiên, hạng người tẩy sạch221, không nhiễm và giác tỉnh, hạng người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.

405.Vị Mâu-ni (thanh tịnh) hay biết đời trước, thấy cả cõi trời và cõi khổ (ác thú), đã trừ diệt tái sinh, thiện nghiệp hoàn toàn, thành bậc Vô thượng trí; bậc viên mãn thành tựu mọi điều như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.

---o0o---



HẾT

1 . Những pháp yếu được diễn nói theo cách song đối.

2 . Pháp tức là Dhamma. Ở đây chỉ về pháp bất thiện, ở câu thứ hai chỉ về pháp thiện.

3 . Nguyên văn: Cakkam va vahato padam, nên dịch là: “Như bánh xe lăn theo chân con thú kéo xe”.

4 . Nguyên văn: Sanantano, có nghĩa là đời xưa. Cổ pháp (Sanantano Dhamma, hoặc Paranako Dham-ma) tức chỉ cho tất cả pháp tắc vĩnh cửu bất dịch mà chư Phật và đệ tử quá khứ đã giữ gìn và truyền dạy.

5 . Chỉ người tranh luận. Nhân khi Phật ở Kỳ-đà-lâm, đối với các vị Tỳ-kheo ưa tranh luận tại Câu-sanh-bì (Kosambi) mà nói kinh này, nên có sự xưng hô đó.


6 . Nguyên văn: Mayametthayamamasa, ý nói thẳng thì “chúng ta sắp bị diệt vong vì luật vô thường”.

7 . Tự cho thân mình trong sạch rồi đắm ưa hoài.

8 . Ma vương (Ma-ra) ở đây chỉ tình dục

9 . Chẳng khoái lạc (asubha) chỉ phép bất tịnh quán, như quán thân với 32 điều bất tịnh v.v

10 . Chỉ tham dục v.v…

11 . Như bốn thứ tứ cụ là áo, cơm, thuốc uống, nhà ở và mười thứ tà kiến v.v…


12 . Như giới, định, huệ và chánh kiến v.v…


13 . Do tạo ác nghiệp mà đưa đến sự bi ai trong đời này gọi là “Buồn tôi đã tạo ác”. Nhưng mà nỗi bi ai này còn có hạn chứ tương lai đọa vào ác đạo thọ báo lâu dài, cái khổ này mới vô cùng.

14 . Kẻ chăn bò thuê cứ sáng sớm dắt bò ra đồng, tối  lại lùa bò về  chuồng giao cho chủ, ngày ngày chỉ đếm bò mà đổi lấy ít tiền công, còn sữa, lạc, sanh tô, đề hồ của bò thì anh ta không hưởng được. Tụng kinh mà không tu hành theo kinh thì chẳng hưởng được lợi ích của kinh, của kẻ tu hành.

15 . Niết-bàn (Nibbànna)

16 . Bởi vì người không buông lung thì được chứng nhập Niết-bàn và không còn luân hồi sinh tử tiếp nối nữa. Còn người buông lung tuy sống mà vẫn như thây chết, không biết hướng thiện, nỗ lực làm lành.

17 . Bài này tiếp bài trên, khuyên đừng nên phóng dật mà gắng chuyên cần.


18 . Cảnh giới của chư Phật, Bích chi và A-la-hán


19 . Muốn chứng đặng Niết-bàn thì phải trừ 4 ách: dục ách (Kamayogo) sự tham dục, hữu ách (Bha-vayogo) mê chấp ba cõi, kiến ách (Ditthiyogo) điều tà kiến, ác kiến, vô minh ách (Avijjayogo) sự mê mờ.

20 . Như cõi đất cao có thể tránh khỏi thủy tai. Kẻ trí khi chứng được A-la-hán thì không còn bị phiền não quấy nhiễu, nhận chìm.

21 . Các phiền não tham, sân, si buộc ràng và sai sử chúng sanh trong vòng ba cõi.


22 . Ma-già (Maghavà) tên khác của trời Đế Thích (Sarka) khi chưa đủ phúc báu để làm trời, Đế Thích ở nhân gian tên là Ma-già, nhờ công đức siêng năng quét tước sạch sẽ mà được làm chủ cõi chư thiên.

23 . Kiết sử (Samyojana) tức là phiền não (Kilesa) danh từ chuyên môn của nhà Phật.

24 . Mấy câu này đều hình dung cái tâm.

25 . khi chứng được A-la-hán thì vô lậu thiện nghiệp viên mãn, hữu lậu ác nghiệp và hữu lậu thiện nghiệp đã hết rồi, không còn tạo nghiệp mới nữa, và tuy ở trong đạo quả viên mãn mà thường làm những việc lợi tha một cách tự nhiên.

26 . Kết quả thắng lợi là chỉ có cảnh giới Thiền định được tiến bộ.


27 . Không nên nhiễm trước vào Thiền cảnh đã chứng được, phải nỗ lực cầu tiến mãi.


28 . Phật giáo đồ các nước Phật giáo nam phương mỗi khi lâm chung có lệ thỉnh chư Tăng đến để cúng dường làm phước lần chót. Chư Tăng liền tụng bài kệ này ba biến.


29 . Đem tâm hướng về 10 hạnh ác (Akusala): sát sinh (Panatipato), thâu đạo (Adinnadanam), tà dâm (Kamesumicchacara), vọng ngữ (Musavado), lưỡng thiệt (Pisunavaca), thô ác ngữ (Pharusavaca), ỷ ngữ (samphap palapo), tham (abhijjha), sân (Viyapado), tà kiến (Micchadithi).

30 . Đem tâm hướng về 10 hạnh lành (Kusala): cúng dường (Danam), trì giới (Silam), tu thiền định (Bhavana), tôn kính (Apacaijannam), tác sự (Vey-yavaccam), hồi hướng công đức (Pattidacam), tùy hỷ công đức (Pattanumodana), thính pháp (Dham-musavanam), thuyết pháp (Dhammadesana), chánh kiến (Dithujjukamman).

31 . Ngài Ngô Chi Khiêm dịch là Phẩm Vương Hoa.

32 . Chinh phục (Vijessati), là theo Pali nguyên chú. Bản dịch thích kinh Pháp cú rất xưa và đầy đủ chi tiết bằng văn bản Pali của Ngài Buddahaghosa, căn bản của các lời chú thích sau này. Bản do E.W.Burlinghame dịch ra Anh văn trong loại sách Harvard Oriental serie là hiểu xác thật. Bản ở Mianma chép là vicessati, thì nên  dịch là “chọn tìm” hoặc “dò xét”.


33 . Địa giới (Pathavi) là chỉ tự kỷ hay tự thân (Atta-bhava). Bản Dhammapada Anh văn của Đại đức Narada dịch, trang 8, có chú thích rằng: “This is one who will understand this self as if really is". Câu này có nghĩa “như thật tự biết rõ mình”.

34 . Diêm-ma-giới (Yamalokà), theo nguyên chú thì bao quát cả bốn giới (Catubdhidam apayalokan ca): địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la (Asura). Bản chú thích bằng Anh văn của Ngài Narada nói: “The fourwoeful states, viz: Hell (địa ngục), Anima kingdom (súc sanh), Peta realm (ngạ quỉ) and the realm (A-tu-la)”.


35 . Thiên giới (Sadevakam), theo nguyên chú thì bao quát 6 cõi trời dục giới và nhân giới (Imamsade Vakanit mannussalokanca). Ngài Narada chú: “Namely the world of human beings and the six celestial realm’s".

36 . Pháp cú (Dhammapada) tức là pháp tích, pháp, như ba mươi bảy đạo phẩm (Bodhipakkhi-kadham-ma) v.v…

37 . Thợ khéo là thợ làm tràng hoa, để ví dụ cho người khéo giảng nói Pháp cú, có lớp lang, không lộn xộn, như thợ xâu hoa.

38 . Hữu học (Sekha) tức là các vị chứng sơ quả Tu-đà-hoàn (Sotapattiphala), nhị quả Tư-đà-hàm (Sa-kadagamiphala), tam quả A-na-hàm (Anagamphala), và sơ quả hướng, nhị quả hướng, tam quả hướng, tứ quả hướng, vì những vị này còn phải học tập giới, định, huệ. Đến khi chứng tứ quả A-la-hán mới được gọi là Vô học (Asekha).

39 . Bài tụng trên là hỏi, bài này đáp.

40 . Sự dụ hoặc của dục cảnh.

41 . Những người đang say ngủ trong xóm làng giữa đêm khuya, bị nước lũ cuốn đi mà không hay biết gì. Người mê miết trong dục lạc cũng vậy.


42 . Cảnh dục lạc.

43 . Mâu-ni (Muni) có nghĩa là người trầm lặng, nhân từ, trí tuệ, thánh giả, ở đây chỉ hàng Sa-môn khất thực.

44 . Nguyên văn của câu này là “Naparesam katakatam” dịch thẳng là “Chẳng nên dòm ngó người khác làm hay không làm”.

45 . Chiên-đàn-na (Candana) Đa-gia-la (tagara), tên hai thứ cây thơm, Mạt lị ca (Malika) là một thứ hoa nhỏ thơm mọc tùm lum như giây bìm.

46 . Bạt-tất-kỳ (Vassilky) là vũ quý hoa.


47 . Luân hồi (samsara) chỉ sự sanh tử luân chuyển mãi không ngừng.


48 . Thọ quả báo lành dữ trong tương lai tức là thân dị thục (vipaka) ở đây chỉ riêng ác quả.


49 . Đây chỉ thiện quả.

50 . Cô sa (kusa) tên cỏ thơm, nguyên văn là Kusag-gena, tức là dùng đầu ngọn cỏ cô sa.


51 . Người tư duy Chánh pháp (Sankhata dhamman) là người thâm nhập Chánh pháp, đây là người giác ngộ Tứ đế.

52 . Muốn sữa đông đặc thành đề hồ không phải một ngày một đêm mà đông được kịp.

53 . Trong Hán văn chữ này cũng gọi là đầu thủ, đầu não.


54 . Bản chữ Nhật dịch là Hiền phẩm.


55 . Người không còn điều ác ở thân khẩu ý nữa, chuyên việc tế độ chúng sanh.


56 . Chư Phật và A-la-hán.

57 . Khắc chế năm căn đừng cho thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc điều quấy.

58 . Cảnh giới Niết-bàn.

59 . Cảnh giới sanh tử.


60 . Cảnh giới sanh tử. Câu này ý nghĩa liên quan với câu trên.


61 . Giác chi (Sambodhiyangam) là thất Bồ-đề phần hay là “thất giác chi” là: niệm giác chi (Satisanm-bojjhango), trạch pháp giác chi (Pitisam bojjhango), khinh an giác chi (Passadhisambojjhango), định giác chi (Sama-dhisambojjhango), xả giác chi (Upekhasambojjha-ngo).

62 . Chứng được Niết -bàn, giải thoát tự tại

63 . Nguyên văn: Khinasava, dịch nghĩa là “Dứt hết các lậu” hoặc “các lậu đã sạch hết”, tức là dứt hết mọi phiền não.

64 . A-la-hán (Arahaant) tức là bậc thánh đã dứt hết phiền não, chứng Niết-bàn, không bị sanh tử nữa.

65 . Trói buộc (Gantha) có bốn thứ: Tham (Abhijjha), sân (Vijjapada), giới cấm thủ (Sibhataparomasà), kiến thủ (Idan saccabhinivesa).

66 . Con đường hữu vi lậu nghiệp đã đi cùng. Có chỗ gọi là “các lậu đã dứt sạch, việc tu hành đã xong, phạm hạnh đã thành lập”.

67 . Con ngỗng mỗi khi ra khỏi ao thì chẳng còn nghĩ tưởng đến mồi, cỏ, nước trong ao là của mình. Vị A-la-hán đã xuất gia rồi thì không còn luyến tưởng tới gia tài của cải nữa.


68 . Chẳng còn hoạt động theo nghiệp lực.


69 . Biết rõ sự ăn uống là cốt để duy trì tánh mạng mà tu hành.


70 . Chứng được Niết-bàn gọi là giải thoát (Vimokha); lại gọi là không (Sinnàta), vì không còn tham, sân, si, phiền não; lại gọi là vô tướng (Animitta) vì từ nay đã được tự tại không còn đắm trước tưởng tham dục.


71 . Lậu có bốn thứ: dục lậu (Kamasava), hữu lậu (Bhavasavha), kiến lậu (Dithasava), vô minh lậu (Avijjasava).

72 . Nhân-đà yết-la (Indakhila), nhiều bản dịch là môn hạn (chấn cửa) tức là đặt một tảng đá giữa chỗ cửa lớn, dùng chấn then cửa để đóng cho chắc. Có một chỗ nói indakhila theo Phạn tự là indra-khila tức là cái trụ của Nhân đà la (Đế Thích). Ở tại chỗ tiến vào thành, dựng một cái trụ lớn để tượng trưng chỗ ở của Nhân đà la (thần bảo hộ của dân Ấn Độ). Chính ngày xưa đã dịch là cái tràng kiên cố, là bảy tràng Đế Thích, là đài tọa.


73 . Vô tín (Assaddha) hoặc dịch là bất tín, ý nói vị Thánh nhân tự mình chứng biết chứ không phải do ai làm cho giác ngộ.

74 . Các nghiệp thiện, nghiệp ác trong vòng hữu lậu thế gian.


75 . Sanh tử luân hồi.


76 . Nguyên văn chép: Nina là chỗ thấp, Thala là chỗ cao.


77 . Theo bản Xri Lanca thì chữ này là Dhammapada nên dịch là “Pháp cú” nhưng theo bản của “Hiệp hội xuất bản Pali thánh điển” thì chép là Gathapada, chữ này nên dịch là “nhất cú kệ”.

78 . Câu này liên quan đến câu trên.

79 . Càn-thát-bà (Gandhàbha) tên một vị thần ở Thiên giới.

80 . Tên một vị Thiên thần.

81 . Phạm thiên tức là Bà-la-môn thiên (Brahma).

82 . Nguyên văn: “Yitthamva hutamva”, nghĩa là cúng hy sinh, là tế tự, là cúng dường, v.v… Đồng nghĩa là cúng dường trong hội hè, lễ tiết; hutam có nghĩa là dự bị cung cấp khách qua đường, hoặc làm việc cúng dường dựa theo một tín ngưỡng về tác nghiệp và quả báo mà mình tin tưởng.

83 . Chỉ tứ quả thánh nhân.

84 . Người tuổi cao đức trọng.

85 . Các Tăng lữ ở các nước phương Nam, mỗi khi thọ người lễ kinh thì đọc bài tụng này.


86 . Năm uẩn sanh diệt tức là các phép do nhân duyên hòa hợp không thường trú.

87 . Nguyên văn: Mappamannatha có hai nghĩa:

a. Mappaanati, là “chớ khinh thị”.



b. Mappamanati, là “chớ tưởng ít”.


88 . Đạo trượng (Danda) cũng dịch là hình phạt.

89 . Chỉ vị A-la-hán đã sạch hết các lậu hoặc.


90 . Đây là một cách ngồi xổm, đặc biệt là người tu ngoại đạo xưa Ấn Độ, thường dùng để hành hạ xác thân.

91 . Bài này nói về cách tu khổ hạnh vô ích, không thể chứng được Niết-bàn.


92 . Trí và hành đầy đủ.

93 . Nói về sự già.

94 . Thế giới bị 11 thứ lửa này thường thiêu đốt: tham (raga), sân (dosa), si (moha), bệnh (vyad-hiểu), lão (jara), tử (marana), sầu (soda), bi (Pariv-eda), khổ (dukkha), ưu (domandsa), não (upya-sa).


tải về 345.16 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương