LỜi vàng phật dạY (kinh pháp cú dhammapada)



tải về 345.16 Kb.
trang10/10
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích345.16 Kb.
#29802
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

95 . Ví vô minh.

96 . Dụ trí tuệ.

97 . Chín chỗ nơi thân: hai mắt, hai mũi, hai tai, miệng, đường đại, đường tiểu.


98 . Thân này do trên 300 đốt xương hợp thành.

99 . Lầm nghĩ thân này mỹ lệ êm đềm.


100 . Hư ngụy (makkho), xưa dịch là che lấp (phủ).


101 . Chỉ Phật, Bích Chi, La hán.


102 . Đây là lời đức Thích Ca khi thành đạo, tâm sinh hoan hỷ mà nói ra. Sau này có lần nhân Ngài A-nan hỏi nên Phật nói lại lời đó. Kẻ làm nhà chỉ nguyên nhân luân hồi, lòng tình dục, nhà là chỉ thân thể, rui mè là chỉ các thứ dục khác, kèo cột là chỉ vô minh.


103 . Thông thường nói ba thời là đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm. Ở đây ba thời chỉ vào một đời người thanh niên, trung niên, lão niên. Người ta lúc thanh niên nên nỗ lực học tập, trung niên nên hoằng pháp, tu Thiền định v.v… Nhưng trong hai thời gian đó mà chưa kịp thích thời hành sự thì lúc lão niên phải tỉnh ngộ học tập gấp rút, nếu không thì luống uổng một đời, mang lấy thống khổ chẳng ích chi.

104 . Phật giáo chủ trương mỗi cá nhân phải tự lực lo giải thoát cho mình. Phật giáo đồ phát nguyện quy y Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, không có nghĩa là phát một lời cầu đảo để Tam Bảo lo giải thoát cho. Song Tam Bảo là thầy chỉ đạo tu hành đúng đường để được giải thoát. Vậy nên, muốn đến cảnh giới giải thoát tự tại thì tự mỗi người phải gắng sức thực hành đúng lời Tam Bảo chỉ dạy.

105 . Chỉ quả vị La hán.

106 . Mạn-la-phạm (Maluva) một loại dây bìm. Cây Ta-la khi đã bị nó leo quấn vào thì khô chết ngay.

107 . Cách-tha-cách (Kattha), loại cây lau. Có tên là Cách-tha-cách-trúc (Velusankhatakattha), hễ ra hoa kết trái rồi thì chết liền.


108 . Chỉ việc giải thoát sanh tử.

109 . Ở Xri-Lanca giải thích là luân hồi.

110 . Sau khi Đức Phật thành đạo, lần đầu tiên Ngài trở về hoàng cung tại thành Ca-tỳ-la (Kapila). Sáng hôm sau Ngài vẫn chiếu lệ mang bát đi khất thực. Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thấy vậy vội bước đến trước Phật mà nói rằng: “Này con ơi! Sao con làm nhục nhà ta vậy? Con vốn là chủ thành này, từng ở trên châu báu, nay cứ cầm bát lần đi từng nhà, không hổ nhục cho ta lắm sao?” Đức Phật liền nói cho vua nghe đó là phép tắc lâu đời của chư Phật, và nói hai bài này. Nên theo chỗ chú giải xưa này thì hai bài này có nghĩa như sau: bài 164: “Chớ nhác bỏ việc lần theo từng nhà khất thực. Cẩn thận giữ thật đúng hạnh trì bát này, ai làm theo hạnh này thì đời này, đời sau đều khoái lạc”; bài 165: “Cẩn thận làm đúng hạnh này, chớ làm theo sự buông thả. Ai làm theo đúng hạnh này thì đời này, đời sau đều được khoái lạc”.

111 . Lầu sò chợ bể là dịch nghĩa từ chữ “Thần lâu hải thị” để chỉ thị cảnh huyễn hóa không thật. Những làn khí bốc lên trên mặt biển, đụng phải ánh nắng, hoặc là không khí tương phản mà hiện ra những bóng hình nhìn xa như lâu đài chợ búa. Người xưa tin những làn khí ấy là hơi của giống sò thần tự dưới đáy bể phun lên.


112 . Nhất pháp (Ekham Dhanman) tức là chân đế, chân lý (Saccam).

113 . Dự lưu quả (Sotapattiphalam) là quả vị đầu trong bốn quả vị Niết-bàn Thanh văn.


114 . Hai bài này Phật đối Ma nữ mà nói.

115 . Ý toàn câu là “Cái tình dục đã bị chinh phục rồi, thì dù đang ở thế gian này, nó cũng không thể theo dõi người kia nữa”.

116 . Đã bỏ hết ái dục.

117 . Trong Tứ phần (giới bản) đức Như Lai Tỳ Bà Thi dạy: “Nhẫn nhục đệ nhất đạo, Phật thuyết vô vi tối, xuất gia não tha nhơn, bất danh vi Sa-môn”.


118 . Nguyên văn: Patimokkha tức là Biệt giải thoát luật nghi giới, gồm 227 giới điều chủ yếu mà tất cả Tỳ-kheo phải giữ.

119 . Chỉ tám định (Atthasalacattu): bốn thiền định và bốn không định.


120 . Thọ chi đề (Rukkhacetia) là “thọ miếu”, vị thọ thần của Ấn Độ tín ngưỡng. Lấy cây làm đối tượng sùng bái, như đối với tháp miếu vậy.


121 . Bát Chánh đạo (Ariyam utthangikkhamamagam): chánh kiến (Samaditthi), chánh tư duy (Sammasankappa), chánh ngữ (Sammavaca), chánh nghiệp (Sammakamanta), chánh mạng (Sammajiva), chánh tinh tấn (Sammavayama), chánh niệm (Samma-sati), chánh định (Samasamadhi). Hai câu này chỉ về đạo diệt khổ, nói gọn là Đạo đế.

122 . Nhật Bản dịch là An lạc phẩm.


123 .Phật tự xưng.

124 . Tật bệnh đây chỉ các phiền não thống khổ.


125 . Không còn các phiền não chướng như tham, sân, si v.v…

126 . Lúc Phật ở tạm nơi thôn của một Bà-la-môn tên Ngũ-ta-la (Pancasala), một hôm Ngài vào xóm làng khất thực, không gặp ai cúng dường, một kẻ Ma vương đứng ở cửa làng thấy Phật mang bát đi về không, mới cười chọc nói rằng: “Ngài chưa được thực phẩm, ắt phải đi vào thôn xóm khất thực để giải quyết sự đói”. Nhân đó Phật nói bài này.

127 . Nguyên văn: Sankhara dịch là hành, tức là pháp hữu vi có sanh diệt, trong Pali chú thích uẩn (khandha).

128 . Câu này là câu tiếp liền trên dưới.

129 . Những Tỳ-kheo vì bị dục lạc mê hoặc, bỏ việc hành đạo để sinh hoạt theo thế tục, sau thấy kẻ khác tu hành có công quả, lại luống tỏ lòng hâm mộ, chứ tự mình không thành được chi.

130 . Năm câu 202-206, theo bản dịch của Đại đức Narada là: “From endearment spings gief, from endearment spings fear for him who is free from endearment there is no gief, much less fear. From affection… From delight… From lust…, From craving…”.

131 . Chỉ bốn hướng, bốn quả và Niết-bàn, cộng là chín pháp thù thắng.


132 . Chỉ bốn Thánh đế.


133 . Chỉ giới, định, tuệ.


134 . Bậc thượng lưu (Ubddhamsoto), chỉ quả vị Bất hoàn (Anagami) gần đến Niết-bàn A-la-hán.

135 . Danh sắc (Namarapa) tức là tinh thần và vật chất, tâm và thân.


136 . Nếu tự chủ, ngăn ngừa nóng giận kịp thời, mới là người thiện ngự, ngoài ra toàn như kẻ cầm cương hờ, chứ không khống chế được

137 .Nguyên văn còn có một chữ “thiểu”, ít (Appam), tức là mình có vật gì dù ít, cũng có thể chia sớt cho người đến xin được.

138 . A-đa-la (Atula) là tên một người Phật tử xưa.


139 . Diêm phù kim (jambunaba) là tên đặc biệt để chỉ một thứ vàng phẩm chất rất quí. Ý nói vàng này từ sông Diêm phù (Jambu) mà có.

140 . Thánh cảnh hàng chư Thiên đây là chỉ 5 cõi trời Tịch cư (Panca Anddhvasabhumi): Vô phiền (A-viha), Vô nhiệt (Atappa), Thiện hiện (Suddassa), Thiện kiến (Suddssi), Sắc cứu kính (Akanittha) là năm chỗ của hàng A-na-hàm ở.

141 . Sa-môn (Samano) ở đây chỉ những vị chứng ngộ bốn thánh quả.


142 . Nguyên văn: Papanca, gồm có nghĩa hư vọng và chướng ngại. Ở đây đặc biệt chỉ cho Ái (Tan-ha), Kiến (Ditthi), Mạn (Mano).

143 . Pháp trụ (Dhammattha), có nghĩa là thực hành đúng pháp, an trụ phụng thờ đúng pháp, nên cũng dịch là “Phụng pháp”.

144 . Lỗ mãng (Sahasa), bao hàm nghĩa cẩu thả, khinh xuất, độc đoán. Ở đây chỉ cho cái quan niệm bất chính xác, bởi chịu ảnh hưởng của tham, sân, si, bố úy mà sinh ra.


145 . Do thân (Kayena), nguyên chú thích là “do danh thân” (Namakayena). Trong văn Pali chia năm uẩn ra hai loại: A. Danh thân (Namakayena), tức danh uẩn là thọ, tưởng, hành, thức uẩn; B. Sắc thân (Rupakayena) tức là sắc uẩn. Như vậy, do thân thật thấy Chánh pháp tức là nói do tâm thật thấy Chánh pháp, là do tự nội tâm chứng ngộ Chánh pháp, đích thực, chứ không vịn lấy chỗ ngộ do người làm cho mình ngộ… Chữ thân là một chứa nhóm, đồng nghĩa với chữ uẩn.

146 . Trưởng lão (Thera), tiếng tôn xưng người đã giữ giới Tỳ-kheo mười năm trở lên, nhưng vốn trọng về thực tu thực chứng, nếu không thì chỉ là cách gọi suông.


147 . Chỉ lý Tứ đế.

148 . Chỉ bốn quả, bốn hướng và Niết-bàn.

149 . Chỉ hết thảy giới luật.

150 . Đặc biệt chỉ điều phục năm căn: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân.


151 . Thiện đây chỉ cái thiện hữu lậu, là cái thiện làm với tâm bỉ thử ngã nhân.


152 . Biết giới, biết định, biết tuệ.

153 . Chữ Ariya có nghĩa là hiền đức, cao thượng. Phật đối với người đánh cá tên Ariya mà nói ra bài này.

154 . Giới luật đây chỉ cho Biệt giải thoát luật nghi giới, căn bản luật nghi giới. Đầu đà (Dhutanga) là hạnh tu kham khổ, tiết độ trong việc ăn, mặc, ở, để dứt sạch phiền não, gồm có mười hai hạnh, riêng cho một số người tu.


155 . Học ba tạng (Tripitaka).

156 . Bốn đế (tứ cú): Khổ (dukkha), khổ tập (dukkha-ssamudaya), khổ diệt (dukkhanirodha), khổ diệt đạo (dukkhaniaodhagaminipatipada). Xưa dịch là: khổ, tập, diệt, đạo.


157 . Chỉ Niết-bàn.

158 . Chỉ Phật đà. Phật đủ năm mắt: nhục nhãn (namsacakkha), thiên nhãn (dibhacakkha), huệ nhãn (pannacakkha), Phật nhãn (Buddhacakkhu), nhất thế trí nhãn (Samantacakkhu).

159 . Tứ đế, Bát chánh đạo, Niết-bàn.

160 . Chỉ cho tham, sân, si v.v…

161 . Các Tăng già Xri-Lanca mỗi khi khai một hội nghị để luận bàn việc trọng đại, thường lấy bài này làm khẩu hiệu kêu gọi.

162 . Như Lai chỉ bày chánh đạo, còn hành đạo là do người.


163 . Tất cả hiện tượng.

164 . Du già (Yoga) tức là định

165 . Thiện thệ (Sugato) tức là Phật đà.


166 . Chẳng biết sự nguy hiểm về cái chết là cách nào, ở đâu, lúc nào.


167 . Chỉ ý nghĩa của bài trên.

168 . Hai bài này đều mượn ví dụ để cắt nghĩa.


169 . Dụ thường kiến (Sassataditti) và đoạn kiến (Ucchedaditthi).


170 . Chỉ 12 xứ (dvrdasatana) mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

171 . Chỉ sự dục lạc (nadirago).

172 . Chỉ quả vị lậu tận A-la-hán.

173 . Hổ tướng thứ năm (veyyagghapancaman) tức bằng với nghi thứ 5 (Vicikicchannivarana). Vì trong năm cái (ngăn, cheancanivarana) thì nghi cái (vicikicchannivarana) ở về thứ 5. Năm cái là: tham dục (kamacchanda), sân nhuế (viavada), hôn trầm thụy miên (thinamiddha), trạo cử ác tác (Uddhaccukukkucca), nghi (Vikicikiccha).

174 . Kiều đáp ma (Gotama) tức là đức Phật.

175 . Quần thần gồm có 32 thứ bất tịnh: Tóc, lông, móng, răng, da v.v…


176 . Thánh tài là gia tài của thánh giả (nhờ đó mà thành đạo quả), có 7: tín, giới, tàm, quý, văn, xả, huệ.

177 . Tuyết sơn (Himayanto) tức Hy mã lạp sơn.


178 . Lừa và ngựa giao hợp với nhau sinh ra con gọi là La.


179 . Tín độ (Sidha) là con sông Ấn Độ. Giống ngựa Tuấn sinh ở địa phương này.


180 . Kiều la (Kunjara) tên voi.


181 . Ý nói người chưa điêu luyện thì tánh hung hăng hơn cả voi ngựa, nhưng khi tu luyện được rồi thì quí hơn nhiều.

182 . Voi đến kỳ phát dục thường tiết ra một thứ nước thối tha và tính tình hung hăng khó trị.


183 . Cổ tích kể voi có lòng nhớ mẹ nó là có ý để khuyên người ta hãy hiếu thuận cha mẹ.


184 . Phật tự xưng.

185 . Ái dục có ba thứ: a. Dục ái (kamatanha); b. Hữu ái (Bhavatanha) sự ái dục dính líu với thường kiến; c. Phi hữu ái (Vibhavatanha) sự ái dục tương quan với đoạn kiến. Trong sáu căn, ngoài sáu trần, đều là ái, họp thành 12: Dục ái 12, Hữu ái 12, phi hữu ái 12, cộng thành 36 ái dục, 36 ái dục thường lưu động không ngừng như dòng nước, nên gọi là dục lưu.


186 . Là từ sáu căn phát ra.

187 . Chỉ Niết-bàn.

188 . Lìa thế dục để xuất gia

189 . Xuất gia rồi lại hoàn tục.


190 . Chứng Niết-bàn.

191 . Bỏ sự tham đắm theo ngũ uẩn quá khứ, hiện tại, và vị lai.


192 . Chỉ A-la-hán.

193 . Từ đây không còn luân hồi sanh tử nữa.


194 . Câu này theo nguyên văn là: Niruttipada Kovido, dịch thẳng là thông đạt và tha cú; tức chỉ cho bốn thứ biện giải vô hại (Catupaatisambbida): Nghĩa vô hại (Atha) là thông suốt lý nghĩa; Pháp vô ngại (Dhamma) là thông suốt giáo pháp như 3 tạng 12 bộ; Từ vô hại (Nirutti), là thông suốt lời lẽ văn cú; Biện thuyết vô ngại (Patibhana), là giảng nói (biết thứ lớp của tự, tứ, cú, là chỉ môn biện thuyết vô ngại).

195 . Sau khi Phật thành đạo, từ Bồ đề tràng đi tới Lộc dã uyển, giữa đường gặp nhà tu của đạo khác, tên Ưu-ba-ca (Upaka), hỏi Phật rằng: “Ông xuất gia theo ai?” “Thầy ông là ai?” “Ông tin tôn giáo nào?” Phật liền nói bài trên để trả lời.


196 . Cái đầu nằm ở chỗ cao nhất nơi thân ta.


197 . Ý nói chỉ hâm mộ việc của người thì chẳng ích gì cho việc của mình.


198 . Thuyền dụ thân thể, nước dụ ác tâm phiền não.


199 . Bỏ năm điều là: Bỏ năm kiết sử của hạ giới (ngũ hạ phần kiết – Panca orambhagiyajanani): Dục giới tham (Khamatogo) là sự tham lam ở tại dục giới; sân (Vyapado); thân kiến (Satka-yaditthi) là chấp thân thật hữu; giới cấm thủ (Si-labhataparamato) là cố chấp các giới cấm tà vạy; nghi (Vicikischa).


200 . Đoạn năm điều là: Bỏ năm kiết sử của thượng giới (ngũ thượng phần kiết – panca uddhambha-giyasamiokanani): Sắc giới tham (Ruparaga) là tham đắm ở tại Sắc giới; Vô sắc giới tham là tham đắm thiền định ở Vô sắc giới; Trạo cử (uddhacca) là loạn động; Mạn (Mana) là ngạo mạn; Vô minh (Avijja).

201 . Tu năm điều là tu năm căn lành: tín, tấn, niệm, định, huệ.


202 . Ngũ trược, là năm điều say đắm: tham, sân, si, mạn, ác kiến

203 . Bộc lưu là dòng nước lũ (Ogho), chỉ cho 4 thứ: dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu.


204 . Bạt-tất-ca (Vassika), tên một thứ hoa thơm hơn các hoa khác.


205 . Bà-la-môn (Bhramana) ở đây là tiếng chỉ chung người hành đạo thanh tịnh, chớ không phải như nghĩa thông thường chỉ riêng về giai cấp đạo sĩ Bà-la-môn. Phẩm này Phật dạy, gọi là Bà-la-môn là cốt ở tư cách xứng đáng của họ, chứ không phải là tại dòng dõi, nơi sinh hay những gì hình thức bên ngoài.

206 . Các yếu tố cấu thành sanh mạng.


207 . Hai pháp là chỉ và quán.


208 . Bờ kia là chỉ sáu căn bên trong (Ajjhatikani cho Ayatanani); Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Bờ này là chỉ sáu trần bên ngoài (Bahirani cho ayatanani): sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không chấp trước ta và của ta, nên nói là không bờ này, bờ kia.


209 . Nguyên văn là: dara, cũng có thể dịch là bố úy.


210 . Ở đây chỉ giáo đồ Bà-la-môn.


211 . Chỉ Tứ đế,


212 . Hạnh phúc (Sukhí) bản của Xri-Lanca viết là Suci, nên dịch thanh tịnh.


213 . Một số ngoại đạo Ấn Độ hay dùng da nai làm đồ trải ngồi và áo mặc.


214 . Áo phấn tảo (Pansukula civara) là thứ vải rẻo người ta vứt, người xuất gia lượm lấy giặt sạch chắp lại may áo cà sa mà mặc.


215 . Nguyên văn là Bhovadi, tức là Bho-vadi, dịch là “thuyết bồ”. Đây là tiếng tôn xưng nhau của giáo đồ Bà-la-môn dùng riêng với nhau trong khi nói chuyện.


216 . Bài này toàn dùng những đồ để khớp ngựa mà ví dụ: Đai da dụ lòng sân nhuế, cương dụ ái dục, dây dụ 62 tà kiến, sở thuộc (dây buộc ngựa) dụ những tập tánh tiềm tàng (anusaysg) xưa dịch là “Tùy miên”, có 7 thứ: dục, tham, sân, mạn, ác kiến, nghi, vô minh). Chướng ngại dụ vô minh.

217 . Chỉ các phiền não tham dục.

218 . Khắc phục ngũ uẩn không cho tái sanh.


219 . Nguyên văn là Usabaha, dịch là trâu nái hay trâu chúa. Ở đây hàm chỉ sự thù thắng, là chỉ người hùng mạnh, vô úy, siêu quần.


220 . Thắng phục phiền não ma, uẩn ma, và tử ma, gọi là người thắng lợi.


221 . Người Ấn Độ mê tín nước sông Hằng có thể rửa sạch tội lỗi, nhưng ở đây ý nói không còn các cấu nhiễm trong tâm người Bà-la-môn



tải về 345.16 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương