Kinh đỊa tạng bồ TÁt bổn nguyện thiển thíCH



tải về 2.73 Mb.
trang13/32
Chuyển đổi dữ liệu08.09.2016
Kích2.73 Mb.
#31926
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   32

            Vậy, cô gái dòng Bà La Môn này được mọi người kính nể, nói gì cũng được mọi người hoan hỷ lắng nghe, và khởi xướng việc gì cũng được mọi người hoan hỷ tán thành, hết lòng hỗ trợ. Chẳng những thế, "đi đứng nằm ngồi đều được chư Thiên theo hộ vệ." Hằng ngày, cô ta luôn luôn được chư Thiên âm thầm che chở, phù hộ. 

            Như tôi đã nói ban nãy, chúng ta hiện nay đã "kết giới," cho dù quý vị có nghiệp chướng—thí dụ có ma quỷ muốn gây chướng ngại cho quý vị—thì chúng cũng phải đình hoãn lại, không được đến quấy nhiễu quý vị trong lúc này. Bởi vì quý vị đến đây để nghe giảng kinh và bây giờ nơi này đã được "kết giới," thì mọi nợ nần vay trả đều phải tạm thời đình chỉ, không ai được phép đến đây gây rắc rối hoặc sinh sự lôi thôi, mà phải để cho quý vị một lòng một dạ chuyên chú nghe giảng kinh.

            Mặc dù cô gái dòng Bà La Môn này có phước đức sâu dày, khi đi đứng lúc nằm ngồi đều có các vị Hộ Pháp, Thiện Thần, Thiên Long Bát Bộ, hoặc chư Thiên theo phù hộ; "song bà mẹ lại tin theo tà đạo, chứ không tin Chánh Pháp, và thường khinh chê ngôi Tam Bảo."

            Thế nào gọi là "tin theo tà đạo"? "Tin theo tà đạo" không nhất thiết là tin theo bàng môn tả đạo, mà còn có nghĩa là vừa tin vừa ngờ. Thí dụ có người hôm nay tin Phật, ngày mai lại sanh lòng hoài nghi, phân vân lưỡng lự, không biết mình đúng hay sai: "Nói là tin Tam Bảo Phật Pháp Tăng, nhưng tôi chưa hề gặp một ông ‘Phật’ nào cả. Tôi cũng chưa hề gặp được ‘Pháp’; tuy nói là có kinh điển, song giáo lý chứa đựng trong các kinh sách đó cũng tầm thường, chẳng có gì đặc biệt. Còn ‘Tăng’ thì bất quá chỉ là những con người phàm phu tục tử như bao kẻ khác thôi, vì sao tôi lại phải kính trọng họ?" Sanh lòng hoài nghi như thế, thì cũng gọi là "tin theo tà đạo." Nói tóm lại, không có chánh niệm thì đó chính là tà niệm; và không có chánh tín thì đó là tà tín, là "tin theo tà đạo" vậy.

            Như có kẻ ngoại đạo rêu rao rằng: "Quý vị đưa cho tôi một triệu đồng thì tôi sẽ giúp quý vị mua một cái ngôi Hoàng Ðế, bảo đảm đời sau quý vị sẽ được làm vua! Chỉ cần đưa tôi một triệu đồng là mọi việc đều ổn thỏa cả!" Nghe cũng bùi tai, quý vị liền xiêu lòng: "Ồ! Chỉ cần bỏ ra một triệu đồng mà kiếp sau được lên làm vua! Nên lắm chứ!"; và lật đật đếm tiền đem nộp cho người ấy. Ðó tức là quý vị "tin theo tà đạo"; bởi sự thật thì ngôi vị Hoàng Ðế làm sao có thể mang ra bán buôn tùy tiện như thế được!? Quý vị làm gì mà có thể mua được ngôi vua!

            Ở các quốc gia dân chủ hiện nay thì có thể có chuyện mua bán chức vị Tổng Thống, do đó cũng có thể có kẻ dám gạ gẫm: "Ðời này cô mang thân nữ nên không thể ra ứng cử Tổng Thống được, vậy cô đưa tôi một triệu đồng, tôi bảo đảm kiếp sau cô sẽ được làm Tổng Thống!" Thế nhưng, đến kiếp sau, bất luận quý vị có được làm Tổng Thống hay không thì cũng chẳng tìm ra người ấy để đòi tiền lại! Hắn ta cũng chẳng có công ty bảo hiểm để bảo đảm cho "quý thân chủ"! Cho nên, tin vào những chuyện viễn vông như thế thì gọi là "tin theo tà đạo," đi theo đường tà! 

            Làm sao mà có thể dùng tiền để mua chức Tổng Thống được kia chứ? Không thể nào có chuyện đó! Nếu nói rằng dùng một triệu đồng để mua chức vị Tổng Thống ngay trong đời này, thì may ra còn có thể tin là có thật; vì sao? Vì nếu quý vị dùng số tiền đó để đi vận động "mua" phiếu, mua chuộc người ta để họ bầu cho mình, thì may ra cũng có thể được lên làm Tổng Thống nước Mỹ! Tuy nhiên việc đó còn đòi hỏi nhiều điều kiện khác nữa; chẳng hạn muốn ra tranh cử thì quý vị phải là công dân Mỹ, phải mang quốc tịch Mỹ mới được, chứ quốc tịch nước khác là không xong. Vì vậy, nếu quý vị tin tưởng vào những việc mua bán kiểu đó tức là quý vị "tin theo tà đạo." 

            "Tin theo tà đạo" cũng có nghĩa là nói ra những điều không có đạo lý, không hợp tình hợp lý. Chẳng hạn có người tuyên bố một cách phi lý rằng: "Quý bà quý cô chỉ cần đưa tôi một trăm đồng (hoặc một ngàn đồng, một vạn đồng), tôi bảo đảm kiếp sau ai nấy đều được sanh làm thân nam, không còn phải mang thân nữ nữa!" Thế nhưng, quý vị nghe xong liền nhẩm tính: "Ồ! Ðược đấy chứ! Một triệu đồng mà mua được thân nam thì đâu có đắt, quá rẻ nữa là khác"; và ngoan ngoãn đem tiền ra nộp cho ông thầy ngoại đạo. Cất tiền vào hầu bao rồi là hắn tha hồ nhậu nhẹt, chơi bời thỏa thích. Tiền bạc một khi đã bị hắn tiêu xài hết rồi, quý vị chẳng có cách nào đòi lại được. Cho nên, tuy nói là bảo đảm kiếp sau làm thân nam, song cũng không có bảo chứng để quý vị có thể đòi bồi thường. Ðó gọi là "tin theo tà đạo." Trên đây là tôi chỉ mới kể ra một vài thủ đoạn lường gạt của bọn "cáo già" (những kẻ chuyên môn đi lường gạt thiên hạ) mà thôi.

            Bà mẹ của cô gái dòng Bà La Môn này "thường khinh chê ngôi Tam Bảo." Chỉ vì bà ta toàn là tin vào tà thuyết, cho nên không tin theo Chánh Pháp. 

            Thế nào gọi là tà thuyết? Chẳng hạn nói rằng: "Quý vị cần gì phải tin Phật? Quý vị chính là Phật kia mà! Chỉ cần mỗi người đưa cho tôi sáu mươi lăm đồng là được!" Sáu mươi lăm đồng mua được một quả vị Phật—những kiểu nói như thế đều là tà thuyết, đều là luận điệu của tà pháp, tà đạo. Quả vị Phật thì làm sao mà mua bằng tiền được chứ? Ai ai cũng có thể làm Phật, song đó không phải là dùng tiền bạc để mua mà được. Quý vị chỉ dùng tiền để làm công quả, làm thiện sự, và đến bao giờ công đức đầy đủ thì quý vị được thành Phật. Chẳng những làm công quả mà quý vị còn phải dụng công tu Ðạo, phải ngồi tham Thiền nữa; nếu không chịu khó tu tập thì không đời nào có thể thành Phật được cả! Nếu có thể dùng tiền mà mua được quả vị Phật thì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đâu cần phải trải qua "sáu năm khổ hạnh rừng già" trên dãy Tuyết Sơn, rồi sau đó lại ngồi dưới cội Bồ Ðề, đêm nhìn sao mai mà ngộ Ðạo? Vả lại, khi Ngài còn làm Thái Tử thì sẵn tiền rừng bạc bể trong tay, nếu quả vị Phật mà mua được thì Ngài đã mua rồi! Cho nên, vấn đề là quả vị Phật không phải là thứ có thể mua được bằng tiền bạc!

            "Khinh chê ngôi Tam Bảo" tức là coi thường Tam Bảo, gặp Tăng, Ni—người xuất gia— thì đều hủy báng, buông lời xúc phạm. Những người thường tỏ ra bực bội, ghét trông thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni; đó cũng là "khinh chê ngôi Tam Bảo" vậy.

            "Thuở ấy, Thánh Nữ—tức là cô gái thuộc dòng Bà La Môn nói trên—lập nhiều phương tiện để khuyến dụ mẹ." "Phương tiện" ở đây có nghĩa là đối với những người xem chừng có thể tin tưởng Phật Pháp, thì chúng ta tùy thuận theo hoàn cảnh và trình độ của họ mà linh động giảng giải để họ có thể lãnh hội được. "Khuyến" là dùng lời lẽ khéo léo để khuyên lơn; "dụ" là dẫn dụ, tức là dùng sự lợi lộc để cám dỗ. Thí dụ, biết trẻ con thường thích ăn kẹo, quý vị bèn bảo: "Tôi có nhiều kẹo lắm, đi theo tôi rồi tôi sẽ cho em thật nhiều kẹo!" Như thế gọi là "dụ dỗ." Vậy, cô gái dòng Bà La Môn cũng nói với bà mẹ: "Mẹ hãy cùng học Phật Pháp với con. Phật Pháp vi diệu và mầu nhiệm vô cùng, mẹ ạ!" 

            Mặc dù Thánh Nữ nhiều lần khuyên nhủ thân mẫu như thế, "hầu làm cho bà sanh chánh kiến, nhưng bà chưa tin hẳn." Bà mẹ của cô gái dòng Bà La Môn này cũng có sanh lòng tin song chỉ tin đôi chút thôi, chưa hoàn toàn tin hẳn, vẫn còn vừa tin vừa ngờ, bán tín bán nghi: "Con nói thì dường như cũng có lý đấy, song mẹ nghĩ không phải hoàn toàn là như thế!" Cũng như có mấy đệ tử quy y của tôi vẫn còn nửa tin nửa ngờ, chưa hoàn toàn tin tưởng ở lời giảng của thầy mình: "Sư Phụ giảng như thế chẳng biết có đúng hay không?" Ðó gọi là vừa tin vừa ngờ, chưa trọn lòng tin cậy vậy. 

            "Và chẳng bao lâu thì bà mệnh chung." Không lâu sau thì bà mẹ của cô gái dòng Bà La Môn này qua đời.

            Nếu nói rằng con người chết rồi thì chẳng còn hay biết gì nữa cả, không cần ăn uống, không cần ngủ nghỉ, không cần đi làm—nói tóm lại là chết rồi thì chẳng phải làm gì cả—như thế thì tốt lắm chứ! Song le, có một điều chẳng tốt chút nào; đó là điều gì? Sau khi chết, nếu trước kia quý vị đã từng làm việc thiện, thì quý vị sẽ được thác sanh vào ba đường lành (Tam Thiện Ðạo); còn nếu làm điều ác thì quý vị phải thác sanh vào ba đường dữ (Tam Ác Ðạo), như đọa địa ngục, chuyển làm thân ngạ quỷ hoặc làm thân súc sanh.

            Hôm qua có một số du khách đến viếng Phật Ðường, và tôi có nói chuyện với họ về trách nhiệm của một người lính. Tôi bảo cho họ biết rằng trong hàng ngũ quân đội thì thường có cả Bồ Tát lẫn Tu La. Bồ Tát ở trong quân đội là để giáo hóa chúng sanh, khiến cho họ không giết chóc nhiều quá; còn Tu La thì trà trộn vào quân đội để xúi giục binh lính giết người càng nhiều càng tốt. Trong khi Tu La kêu gọi binh lính rằng hễ giết được càng nhiều người thì mình càng trở nên oai phong, công lao lập được càng to tát; thì Bồ Tát lại khuyên họ chớ nên tàn sát, mà nên làm cho đất nước của đôi bên đều được thanh bình, cùng nhau hòa đàm để giải quyết sự việc. Bồ Tát cũng bảo cho họ biết rằng nếu được như thế, thì công lao của họ rất lớn và họ sẽ được thăng quan tiến chức rất nhanh. 

            Tôi cũng nhấn mạnh với các người khách đó rằng chúng ta nên học làm Bồ Tát, chứ đừng bắt chước Tu La!

            Sử Trung Hoa có chép về hai vị tướng là Quan Vũ[1] và Bạch Khởi[2]. Quan Vũ làm tướng nên phải ra trận và giết người rất nhiều, nhưng sau khi tạ thế thì làm Bồ Tát. Còn Bạch Khởi, một võ tướng tài ba đời nhà Tần, thì giết người cũng rất nhiều, và sau khi chết thì phải đọa làm trâu, làm ngựa... Vì sao Bạch Khởi lại bị đầu thai làm thân trâu, ngựa? Bởi vì ông ta đã tàn sát hơn hai mươi vạn hàng binh bằng cách chôn sống. Thuở ấy, có hơn hai mươi vạn binh lính quy thuận đầu hàng ông ta, nhưng ông ta lại nhẫn tâm cho đào một cái hố thật lớn để chôn sống tất cả bọn họ—đây quả là thứ tâm địa của Tu La. Quan Công thì chỉ giết người ác, không giết người thiện; đó gọi là "trừ bạo an lương," dẹp trừ kẻ bạo ác để bảo vệ người hiền lương vô tội. Cho nên, cùng làm tướng cả, mà rốt cuộc thì một người thành Bồ Tát và một người thành trâu, ngựa, heo, dê...

            Có một đạo hữu người Mỹ vốn là lính Hải quân hỏi tôi rằng: "Thầy có tin là sau khi chết, con người có thể đầu thai làm súc sanh không?" 

            Lúc bấy giờ, tôi trả lời rằng: "Anh tin là con người sau khi chết có thể đầu thai làm súc sanh thì cũng được, mà anh không tin là con người có thể đầu thai làm súc sanh thì cũng chẳng sao! Nếu anh tin là có chuyện đầu thai làm súc sanh và nếu anh đáng phải làm súc sanh, thì anh sẽ phải đầu thai làm súc sanh; còn nếu anh không tin là có chuyện đầu thai đó và nếu anh đáng phải làm súc sanh, thì anh cũng vẫn phải đầu thai làm súc sanh như thường! Cho nên, anh tin thì cũng vậy mà không tin thì cũng vậy, chẳng thay đổi được gì cả! Anh làm việc Phật thì anh chính là Phật; anh làm việc Bồ Tát thì anh là Bồ Tát; anh làm việc người thì anh là người; anh làm việc quỷ thì anh là quỷ; và anh làm việc súc sanh thì anh là súc sanh. Nói tóm lại, hễ mình làm việc gì thì bản thân mình sẽ đón nhận hậu quả tương ưng của việc làm đó. Ðừng tưởng rằng chuyện gì mình tin là có thì mới xảy ra, còn nếu mình không tin là có thì sẽ không xảy ra. Phải biết rằng bất luận là anh tin hay không tin, nếu tội anh đáng phải làm súc sanh thì nhất định là anh phải làm súc sanh, chẳng trốn chạy đi đâu được cả; còn nếu anh không đáng phải làm súc sanh thì chắc chắn là anh không phải làm súc sanh! Do đó, vấn đề không phải là tin hay không tin mà được!"

            Trở lại với phần kinh văn, bây giờ mỗi người trong chúng ta hãy tự phản tỉnh: "Bao giờ thì mình chết? Mẹ của cô gái dòng Bà La Môn là ‘chẳng bao lâu thì bà mệnh chung’; còn mình thì bao giờ? Chết rồi thì mình sẽ đi về đâu? Mình có phải bị đọa địa ngục như bà mẹ của cô gái dòng Bà La Môn đó không?" 

            Phàm nghe giảng kinh, hễ chúng ta nghe đến đâu thì phải "hồi quang phản chiếu" đến đó, phải "soi" lại chính mình; chứ không phải nghe giảng mà xem như "gió thoảng qua tai," không lưu lại dấu vết, chẳng hiểu được gì cả. Ai ai cũng đều có lúc phải chết. Quý vị chớ cho rằng chết là một việc tốt nhất; cũng đừng nghĩ rằng chết là một việc xấu hoặc xui xẻo nhất—bất luận là tốt hay xấu, hên hay xui, may hay rủi, ai rồi cũng sẽ chết cả. Cho nên, quý vị làm điều tốt thì sẽ là tốt, làm điều không tốt thì sẽ là không tốt. Vừa rồi tôi cũng đã nói với quý vị:

Trồng nhân lành th́ được quả lành, 

Gieo nhân ác th́ gặt quả ác.) 

(Chủng thiện nhân, kết thiện quả, 

Chủng ác nhân, kết ác quả.)


 

            Người xưa có nói: 

 “Trông thấy người khác chết, 

Ḷng ta như lửa đốt, 

Chẳng phải xót cho người, 

Mà v́ nghĩ đến ḿnh. » 

(Nhược kiến tha nhân tử, 

Ngă tâm nhiệt như hỏa, 

Bất thị nhiệt tha nhân, 

Khán khán luân đáo ngă.) 

            Mấy hôm trước đây tôi có nói về vấn đề sanh sản và tử vong. Mặc dù tỷ lệ sanh sản có cao hơn tử vong, nhưng con người thì ai rồi cũng phải chết; do đó mà cổ nhân đã nói: "Khi thấy người khác chết, thì lòng ta như thiêu như đốt. Song, ta đau đớn không phải vì xót xa thương tiếc kẻ vừa qua đời, mà vì ta nghĩ rằng sớm muộn gì rồi cũng có ngày sẽ đến phiên mình!"

            Nếu quý vị nói rằng mình không sợ chết thì ngay bây giờ hãy chết liền đi! Tại sao quý vị lại chưa thể chết được ngay? Vấn đề chẳng phải là sợ chết hay không sợ chết, mà chính là cái chết ấy thuộc loại nào—chết "tốt" (hảo tử) hay chết "xấu" (ác tử). Cái chết "xấu" tức là bị chết vì "phi tai hoạnh họa," như bị xe đụng, máy bay rớt, thuyền chìm, xe lửa lật... Những cái chết như thế, chính đương sự không thể nào ngờ tới và cũng không có ý muốn chết, đều gọi là những trường hợp "ngoài ý muốn." Cái chết "ngoài ý muốn" tức là cái chết "xấu." Nếu khi quý vị muốn chết, đã sẵn sàng để chết và cái chết tự nhiên đến, thì đó là cái chết "tốt"; và trong trường hợp này, nếu quý vị chưa muốn chết thì sao? Thì cũng có thể không bao giờ chết, cứ sống mãi để tu Ðạo!

            Người tu Ðạo có thể đạt được sự tự do về vấn đề sanh tử—muốn sống thì cứ sống hoài sống mãi, lúc nào không muốn sống nữa thì chỉ việc ngồi mà vãng sanh, nhập Niết Bàn. Muốn được như thế, quý vị cần phải có công phu tu hành để làm chủ sự sống chết của chính mình—tánh mạng sanh tử của ta là do chính ta chứ không phải do Trời, không ai cai quản được ta, chỉ một mình ta tự quyết định lấy; hễ ta muốn chết thì liền được chết ngay, còn nếu chưa muốn chết thì ta vẫn cứ tiếp tục sống mãi. Tu Ðạo chính là tu tập để có được năng lực này vậy. Tuy nhiên, khi đạt được năng lực này rồi, e rằng quý vị lại không muốn lưu lại cõi "ngũ trược ác thế" này nữa, bởi nơi đây quá ô trược!

            Như vậy, sau khi thân mẫu của Thánh Nữ Bà La Môn nọ qua đời thì "thần hồn bị đọa vào địa ngục Vô Gián." "Thần" là thần thức, và "hồn" là linh hồn. "Thần hồn" cũng chính là thức thứ tám. Vì sao gọi là địa ngục Vô Gián (không gián đoạn)? Bởi ở địa ngục này thì thời gian và thân mạng đều không hề gián đoạn—đây là chỉ cho việc dù có một hay nhiều tội nhân thì địa ngục cũng chật đầy như nhau. Trong những bài giảng sắp tới, chúng ta sẽ được biết tường tận hơn về địa ngục Vô Gián.

            "Vô gián" nghĩa là gì? "Vô gián" có nghĩa là liên tiếp không ngừng, không hề có sự gián đoạn. Ở địa ngục này, tội nhân mặc dù phải chịu muôn phần khổ sở, nhưng mạng vẫn không đứt đoạn; do đó họ cứ liên tục chết đi rồi sống lại, sống lại rồi chết đi. Ðó là do tác dụng của thần thức, mà thần thức thì bất biến.

            "Lúc đó, Thánh Nữ Bà La Môn biết rằng bà mẹ khi còn sống không tin nhân quả, ắt phải theo nghiệp mà sanh vào đường ác." "Không tin nhân quả" tức là không tin rằng phàm trồng thiện nhân thì được thiện quả, gieo ác nhân tất gặp ác báo. Bà mẹ của Thánh Nữ không chịu tin rằng hễ cái nhân mà không thanh tịnh thì quả cũng không thanh tịnh, và nếu cái nhân không chánh đáng thì quả cũng sẽ không chánh đáng. 

            Bởi biết rằng mẹ mình sinh thời đã tạo nhiều ác nghiệp, sau khi chết tất phải bị đọa vào đường ác, nên Thánh Nữ "bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương, hoa, cùng những đồ lễ cúng—trái cây, đèn đuốc, tràng phan, bảo cái ...—rồi đem đến chùa tháp thờ tiên Phật mà làm đại lễ cúng dường." Ở đây, "chùa tháp thờ tiên Phật" tức là nội viện chùa tháp của Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai.  

Kinh văn: 

            "Trong một ngôi chùa kia, trông thấy hình tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm, Thánh Nữ Bà La Môn chiêm lễ tôn dung, lòng càng bội phần kính ngưỡng, thầm nghĩ rằng: ‘Ðức Phật là đấng Ðại Giác đầy đủ mọi trí huệ. Nếu Ðức Phật còn tại thế, thì sau khi mẹ tôi mất, thảng như tôi đến bạch hỏi Phật, tất biết được nơi mẹ tôi thác sanh!’"

 

Lược giảng: 



            "Trong một ngôi chùa kia, Thánh Nữ trông thấy hình tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm..." Pho tượng này làm bằng đất sét, dung mạo được tô vẽ trông rất trang nghiêm, đầy uy đức, và đủ cả ba mươi hai tướng tốt cùng tám mươi vẻ đẹp, vô cùng viên mãn. 

            Bấy giờ, "Thánh Nữ Bà La Môn chiêm lễ tôn dung, lòng càng bội phần kính ngưỡng." Càng ngắm nhìn dung mạo uy nghi của tượng Phật, Thánh Nữ càng thêm sanh lòng cung kính, ngưỡng mộ, và "thầm nghĩ rằng: ‘Ðức Phật là đấng Ðại Giác đầy đủ mọi trí huệ. Nếu Ðức Phật còn tại thế, còn trụ ở đời, thì sau khi mẹ tôi mất, thảng như tôi đến bạch hỏi Phật, tất biết được nơi mẹ tôi thác sanh! Chắc chắn là Ðức Phật biết rõ mẹ tôi hiện đang ở nơi đâu.’"

            Phật là một người đã đại giác đại ngộ; Ngài có đủ cả ba thứ trí huệ—Ðạo Chủng Trí, Nhất Thiết Trí và Nhất Thiết Chủng Trí. 

            "Thảng" có nghĩa là nếu, nếu như, giả sử.

            Có một vấn đề mà nay tôi muốn nêu ra để mọi người cùng suy nghĩ. Ðành rằng chúng ta tu hành thì không nên nghĩ ngợi nhiều, nhưng bây giờ mọi người hãy thử suy nghĩ về một vấn đề; đó là vấn đề gì? Ðó là, "loài người chúng ta đến thế gian này là để ăn mà sống, hay sống để mà ăn?"  

Kinh văn:

            "Lúc ấy, Thánh Nữ Bà La Môn cúi đầu khóc rất lâu, rồi lại chiêm luyến tôn tượng của Như Lai, bỗng nghe trên không trung có tiếng bảo rằng: ‘Này Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay Ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi!’

            Thánh Nữ chắp tay hướng lên hư không mà bạch rằng: ‘Chẳng hay đức thần nào đã giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi ngày đêm thương nhớ, không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào.’ 

            Bấy giờ, trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: ‘Ta là Ðức Phật quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đương chiêm lễ đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh, nên Ta đến chỉ bảo.’"

Lược giảng:

            Bấy giờ, cô gái giòng Bà La Môn quỳ trước tôn tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà trầm tư nghĩ ngợi: "Ðức Phật là bậc Ðại Giác Ngộ có đầy đủ trí huệ nhất, tiếc thay nay Ngài đã vào cõi Niết Bàn rồi! Giá như Ðức Phật còn tại thế, thì sau khi mẹ tôi qua đời, tôi có thể đến thưa hỏi Phật—Ngài nhất định biết rõ mẹ tôi phải đầu thai về chốn nào!"

            "Lúc ấy, suy nghĩ đến đó, Thánh Nữ Bà La Môn cúi đầu khóc rất lâu, rồi lại chiêm luyến tôn tượng của Như Lai." "Chiêm" là chiêm ngưỡng, ngắm nhìn; "luyến" là quyến luyến, không đành lòng rời xa, tưởng chừng như bị níu kéo bởi một sợi dây vô hình vậy. Thánh Nữ này "chiêm luyến tôn tượng của Như Lai" tức là cô ta đăm đăm ngắm nhìn, và trong lòng cứ thấy quyến luyến, không muốn xa rời tôn tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. 

            Lúc bấy giờ, Thánh Nữ Bà La Môn đang thân tâm chuyên chú, trong lòng không có một vọng tưởng nào khác, ngoại trừ một niệm chí thành chiêm ngưỡng tượng Phật—một tấm lòng thiết tha nhớ nghĩ đến Phật tánh. Do đó, có thể nói rằng đây là lúc mà tâm của Thánh Nữ hết sức thuần thành, thanh tịnh. Bấy giờ, cô ta "bỗng nghe trên không trung có tiếng bảo rằng: ‘Này Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay Ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi. Vậy ngươi chớ nên khóc lóc sầu thảm như thế nữa!’" Mặc dù bà mẹ của cô ta có tội, nhưng bản thân cô ta có căn lành nên vẫn được gọi là "Thánh Nữ."

            "Thánh Nữ Bà La Môn chắp tay hướng lên hư không mà bạch rằng: ‘Chẳng hay đức thần nào đã giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Chẳng hay Ngài là vị Bồ Tát nào, thần tiên nào, mà từ bi chiếu cố, đến an ủi khiến cho tôi được khuây khỏa, không còn bi ai thống khổ nữa thế?’" Chữ "đức" ở đây là chỉ cho đức hạnh từ bi.

            "‘Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi ngày đêm thương nhớ.’" Thánh Nữ nói tiếp rằng: "Kể từ khi mẹ tôi qua đời, tôi ngày nào đêm nào cũng nhớ nghĩ đến người. Bởi thân thể này của tôi là nhờ mẹ tôi mà có; người đã khó nhọc sanh ra tôi, thì tôi cần phải hiếu thảo với người. Song le, tôi chưa tròn hiếu thuận, thì mẫu thân tôi đã vội qua đời! Vì thế, tôi cảm thấy vô cùng hổ thẹn và lại càng đau xót, tiếc thương hơn nữa!" 

            Có câu:

Cây muốn lặng, gió chẳng ngừng, 

Con muốn phụng dưỡng, cha mẹ không c̣n. 

(Thụ dục tĩnh nhi phong bất chỉ, 

Tử dục dưỡng nhi thân bất tại.) 

            Thế nào là "Cây muốn lặng, gió chẳng ngừng "? Có những lúc cây chỉ muốn đứng lặng yên, không thích lay động nữa; nhưng gió lại chẳng chịu để yên, cứ thổi đến làm cho cành lá cứ lắc lư xào xạc. Đó gọi là "Cây muốn lặng, gió chẳng ngừng." 

            " Con muốn phụng dưỡng, cha mẹ không c̣n," nghĩa là con cái muốn phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục, song tiếc thay, bấy giờ cha mẹ không c̣n ở đời nữa! 

            "Không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào." Ý của Thánh Nữ Bà La Môn muốn nói rằng: "Công ơn của cha mẹ cao hơn trời, dày hơn đất. Bởi tôi ăn ở không tròn hiếu thuận với mẹ, nên nay tôi cảm thấy đau khổ và hối hận khôn nguôi. Tôi muốn biết tin tức của mẹ tôi, song chẳng có nơi nào để có thể dò hỏi được cả. Không biết mẹ tôi được sanh lên cõi trời hay bị đọa vào địa ngục?’"

            "Bấy giờ, trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: ‘Ta là Ðức Phật quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đương chiêm lễ đó...’" Thánh Nữ vừa dứt lời thì kỳ diệu thay, từ không trung vọng xuống tiếng trả lời rằng: "Ngươi muốn biết Ta là đức thần nào đến giải bớt lòng sầu lo của ngươi ư? Ta chính là Ðức Phật quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, là đức Phật mà ngươi hiện đang chiêm ngưỡng, lễ bái đó!"

            Vì sao Thánh Nữ Bà La Môn có thể cảm động đến Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, khiến Ngài thị hiện từ trên hư không nói chuyện với cô ta như thế? Câu trả lời hết sức rõ ràng: "‘Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh nên Ta đến chỉ bảo. Bởi Ta thấy ngươi thương nhớ mẫu thân quá thiết tha, không giống như những người bình thường khác. Lẽ thường, người ta thương nhớ cha mẹ được mười phần, thì ngươi lại có đến hai mươi phần—bởi nhiều hơn bội phần nên mới đặc biệt, khác thường. Chính vì ngươi quá sức thiết tha, thành khẩn, nên mặc dù đã nhập Niết Bàn, Ta cũng phải cảm động mà đến để chỉ bảo cho ngươi!’"

 

Kinh văn:



            "Thánh Nữ Bà La Môn nghe nói xong liền nhảy chồm lên và bị té rớt xuống, các khớp tay chân đều bị tổn thương; những người ở cạnh bên liền đỡ dậy. Một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại, rồi bạch cùng trên hư không rằng: ‘Cúi xin Ðức Phật từ bi thương xót, bảo ngay cho con rõ chỗ thác sanh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!’"

 

Lược giảng:



            Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni kể tiếp: "Thánh Nữ Bà La Môn nghe nói xong liền nhảy chồm lên và bị té rớt xuống, các khớp tay chân đều bị tổn thương." Lúc bấy giờ, tinh thần của Thánh Nữ vô cùng căng thẳng, có thể nói là như không còn lý trí nữa, chẳng nghĩ ngợi suy tính gì cả, nên mới nhổm dậy và lao mình nhảy phóc lên không trung như thế!

            Khi biết được tiếng nói từ trên hư không vọng xuống là của Ðức Phật quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, Thánh Nữ vì nóng lòng muốn được gặp Ngài ngay lập tức, bèn nhoài người nhảy chồm lên hư không và bị té rất nặng. Tôi tin rằng Thánh Nữ Bà La Môn này không biết "kung fu" mà cũng chẳng rành võ thuật, nên khi bị rớt xuống cô không biết cách chống đỡ, vì thế tay chân mình mẩy đều bị tổn thương—có thể là bị trật khớp hoặc gãy xương—không tự đứng dậy được. 

            "Những người ở cạnh bên liền đỡ dậy." "Những người ở cạnh bên" có thể là bà con thân thích hoặc bạn bè cùng đi với Thánh Nữ đến cúng dường Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, hoặc cũng có thể là các vị Sư hoặc Ni Sư trong chùa, vì trông thấy cô té nặng đến thế kia bèn vội vàng chạy lại giúp đỡ.

            "Một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại, rồi bạch cùng trên hư không rằng..." Bấy giờ, vì bị té quá đau đớn nên Thánh Nữ bị ngất xỉu, chẳng còn hay biết gì nữa, phải một lúc lâu cô ta mới hồi tỉnh; và nhớ lại việc phóng mình lên không trung vừa rồi, cô liền hướng lên hư không mà bạch rằng: "‘Cúi xin Ðức Phật từ bi thương xót, bảo ngay cho con rõ chỗ thác sanh của mẹ con. Hiện nay con chỉ có một nguyện vọng duy nhất là xin Ngài, Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, hãy rũ lòng từ bi thương xót mà mau nói cho con biết, chẳng hay mẹ con phải đầu thai vào chốn nào? Cúi xin Ngài hãy cho con biết mau lên, kẻo nay thân tâm của con sắp chết mất! Con giờ đây đã bị té đến nông nỗi như thế này rồi, thân thể và tâm trí con đều rã rời, kiệt quệ.’"

 

Kinh văn:



            "Lúc ấy, Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ rằng: ‘Cúng dường xong, ngươi hãy mau trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời sẽ biết được chỗ thác sanh của mẹ ngươi.’

            Bấy giờ, lễ Phật xong Thánh Nữ Bà La Môn liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu của Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Trải suốt một ngày một đêm, Thánh Nữ bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia, nước trong biển đó sôi sùng sục, có rất nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhảy trên mặt biển, chạy rảo bên này, xua đuổi bên kia; và thấy những trai cùng gái, số nhiều đến trăm ngàn muôn, thoạt chìm thoạt nổi trong biển, bị các thú dữ giành nhau ăn thịt; lại thấy các Dạ Xoa hình thù khác nhau—hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều chân, nhiều đầu..., răng nanh chìa ra ngoài miệng, bén nhọn dường gươm—đang lùa những người tội đến gần thú dữ."

 

Lược giảng:



            "Lúc ấy, Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ Bà La Môn rằng: ‘Cúng dường xong, ngươi hãy mau trở về nhà. Vì ngươi vừa bị té, thân thể bị nhiều thương tích, vậy sau khi cúng dường ở đây xong thì ngươi nên sớm trở về nhà. Về đến nhà rồi thì thế nào? Rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta. Mặc dù tay chân ngươi đều bị tổn thương, song ngươi hãy cố gắng ngồi cho ngay thẳng đoan chánh mà tưởng niệm đến danh hiệu của Ta—Nam Mô Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai—thời sẽ biết được chỗ thác sanh của mẹ ngươi.’"

            "Bấy giờ, lễ Phật xong, Thánh Nữ Bà La Môn liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, lòng quá chân thành thiết tha nghĩ đến mẫu thân, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng, quên hết mọi đau đớn, cũng chẳng nhớ tay chân mình đang bị thương, chỉ một lòng một dạ chuyên chú niệm danh hiệu của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai."

            "Trải suốt một ngày một đêm." Trong suốt quãng thời gian lâu như thế, Thánh Nữ tuyệt nhiên không nghỉ ngơi, chẳng ăn chẳng uống, cũng không đi tiêu đi tiểu. Thánh Nữ ngồi ngay thẳng—chứ không phải quỳ—suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, và chỉ chuyên tâm chí thành niệm Phật, ngoài ra không làm việc gì khác.

            Bấy giờ, sau một ngày một đêm kiên trì niệm Phật, "Thánh Nữ bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia." Trạng thái này gọi là gì? Ðây không phải là cô ta nằm mộng, mà là do thành tâm đến cực điểm cho nên "linh tánh" của cô ta xuất khỏi thân thể.

            "Linh tánh" này—còn gọi là "thần thức" hoặc "hồn phách," danh xưng tuy nhiều như vậy song cũng chỉ là một—chính là "thức thứ tám"[3] của con người. Khi Thánh Nữ ngồi quá lâu, lại quên cả đau đớn, thì tất cả đều như ngừng lại, chỉ còn duy nhất một niệm là tưởng nghĩ đến danh hiệu của Ðức Phật. Bởi một niệm này rất chân thành, khiến thức thứ tám có thể lìa khỏi thân thể để đi đến nơi khác, do đó Thánh Nữ thấy mình bỗng dưng lại ở tại một bờ biển xa lạ. 

            Những người ngồi Thiền mà nếu định thần ngồi được lâu, thì cũng có thể thấy được một vài cảnh giới nào đó. Ấy là vì lúc bấy giờ thức thứ tám của họ có thể rời khỏi thể xác, cho nên họ có thể thấy được cảnh giới khác. 

            Nếu quý vị được khai mở Ngũ Nhãn thì có thể nhìn thấy quỷ, thần, Bồ Tát, Phật...; chưa mở Ngũ Nhãn thì không thể nào thấy được. Linh tánh (thức thứ tám) của người tu Ðạo cũng có Ngũ Nhãn; khi linh tánh tách ra khỏi nhục thể, thì Ngũ Nhãn khai mở, do đó họ có thể trông thấy vô số cảnh giới. Thánh Nữ Bà La Môn này nhất định là có tu Ðạo từ lâu, nên mặc dù Ngũ Nhãn của nhục thể chưa được khai mở, nhưng khi thức thứ tám rời khỏi xác thân thì cô ta liền có thể thấy được các cảnh giới, và biết được rằng mình bỗng nhiên ở tại một bờ biển xa lạ.

            "Nước trong biển đó sôi sùng sục." Nước trong biển ấy không phải mát lạnh mà là rất nóng—nước đang sôi sùng sục. Trong biển nước sôi ấy, Thánh Nữ nhìn thấy "có rất nhiều thú dữ." Có bao nhiêu thú dữ? Quý vị cũng không cần biết là bao nhiêu, nói chung là trong biển đó có rất nhiều thú dữ chứ chẳng phải ít! Các ác thú này, "thân thể toàn bằng sắt, cứng chắc kiên cố, bay nhảy trên mặt biển. Chúng bay qua bay lại trên mặt biển với tốc độ rất nhanh, hết chạy rảo bên này, lại xua đuổi bên kia, chạy qua chạy lại, rượt bắt lẫn nhau."

            "Và, Thánh Nữ lại còn thấy những trai cùng gái, số nhiều đến trăm ngàn muôn, thoạt chìm thoạt nổi trong biển. Số người này hết  trồi lên thì lại hụp xuống, rồi lại bị các thú dữ giành nhau ăn thịt." Những ác thú nói trên ở trong biển nước sôi này để làm gì? Ðể ăn thịt những người nam kẻ nữ đang ngoi ngóp dật dờ đó! Ðây đều là những ác thú hết sức hung dữ, mạnh mẽ; miệng chúng rất to, bụng cũng rất lớn, cho nên chúng có thể há miệng nuốt chửng từng người một.

            Thánh Nữ "lại thấy các Dạ Xoa hình thù khác nhau." "Dạ Xoa" tức là quỷ Dạ Xoa, vốn có tên là "quỷ Tiệp Tật," vì chúng có thể bay và chạy vô cùng mau lẹ. Hình dạng của loài quỷ Dạ Xoa này rất kỳ dị và không giống nhau. Chúng trông như thế nào? "Hoặc nhiều tay—có quỷ Dạ Xoa có tới mấy chục cánh tay; nhiều mắt—có quỷ Dạ Xoa thì chỉ có hai cánh tay nhưng lại rất nhiều mắt, trông xấu xí kỳ quái, lại rất hung ác dữ tợn; nhiều chân—có quỷ Dạ Xoa thì tay không nhiều, mắt cũng không nhiều, song lại mọc rất nhiều chân; nhiều đầu—có quỷ Dạ Xoa lại có rất nhiều đầu." 

            "Răng nanh chìa ra ngoài miệng, bén nhọn dường gươm." Miệng của quỷ Dạ Xoa giống như bồn máu, há ra có thể lớn bằng cái thúng, có thể nuốt chửng rất nhiều người trong cùng một lúc. Răng chúng thì lợi hại như đao kiếm, đã nhọn lại sắc bén vô cùng. 

            Các quỷ Dạ Xoa đó "đang lùa những người tội đến gần thú dữ." Chúng xua đuổi các tội nhân, đẩy họ đến gần bọn ác thú như thế để làm gì? Ðó là chúng giúp cho những con thú dữ kia kiếm mồi! Có lúc, vì loài người thì khôn ngoan hơn loài thú, nên tội nhân cũng trốn chạy ra xa được, nhưng rồi lại bị quỷ Dạ Xoa đón đường, chận lại. Cho nên, đằng sau thì có thú dữ rượt đuổi, phía trước lại gặp quỷ Dạ Xoa cản đường; quả là "tiền vô khứ lộ, hậu hữu truy binh." Các tội nhân ở đó đúng là bị dồn vào bước đường cùng, không còn lối thoát—trời trên đất dưới, chẳng trốn đi đâu được cả! Cho dẫu muốn tìm một người bạn để tới nhà lánh tạm một đêm cũng không được!  

Kinh văn:

            "Rồi chúng lại tự chụp bắt, túm quắp đầu chân lại với nhau, hình trạng muôn thứ, chẳng dám nhìn lâu. 

            Khi ấy, Thánh Nữ Bà La Môn nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ. Có một Quỷ Vương tên là Vô Ðộc, đến cúi đầu nghênh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: ‘Lành thay, Bồ Tát! Do duyên sự gì mà Ngài đến chốn này?’

            Bấy giờ, Thánh Nữ Bà La Môn hỏi Quỷ Vương rằng: ‘Ðây là chốn nào?’

            Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ðây là tầng biển thứ nhất ở phía Tây núi Ðại Thiết Vi.’

            Thánh Nữ hỏi rằng: ‘Tôi nghe trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thật chăng?’

            Vô Ðộc đáp rằng: ‘Thật có địa ngục!’

            Thánh Nữ hỏi rằng: ‘Nay tôi làm sao được đến chốn địa ngục?’

            Vô Ðộc đáp rằng: ‘Nếu không phải sức oai thần, cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra, ắt không bao giờ có thể đến được.’

            Thánh Nữ lại hỏi: ‘Do duyên cớ gì mà nước trong biển này sôi sùng sục và có những người tội cùng các thú dữ như thế?’

            Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ðây là những chúng sanh tạo ác ở cõi Diêm Phù Ðề mới chết, quá bốn mươi chín ngày không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho; lúc sống, họ lại không làm được nhân lành nào cả; vì thế nên cứ theo bổn nghiệp mà chiêu cảm lấy địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này trước.

‘Cách biển này mười vạn do-tuần về phía Ðông lại có một cái biển, những sự thống khổ ở đó còn gấp bội chốn này. Phía Ðông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ ở đó càng trội hơn. Do ác nhân của Tam Nghiệp cảm vời ra và gọi chung là biển nghiệp, chính là chốn này vậy.’"   

Lược giảng:

            "Rồi chúng, tất cả những thú dữ và quỷ Dạ Xoa này, "lại tự chụp bắt, túm quắp đầu chân lại với nhau, hình trạng muôn thứ, chẳng dám nhìn lâu." Những ác thú và quỷ Dạ Xoa này hè nhau túm lấy tội nhân, rồi bẻ quặp đầu và chân tội nhân lại. Hoặc có lúc quỷ Dạ Xoa túm lấy ác thú rồi bẻ quặp đầu và chân của ác thú; hoặc ác thú chụp bắt Dạ Xoa rồi cũng bẻ quặp đầu và chân của Dạ Xoa lại; hoặc quỷ Dạ Xoa và ác thú cùng bắt tội nhân rồi bẻ quặp đầu và chân của tội nhân lại với nhau—nói chung là ai nấy đều bị bẻ vặn thành muôn hình vạn trạng, toàn là những hình thù rất ghê rợn, khủng khiếp, đến nỗi người thường chẳng dám nhìn lâu.

            "Khi ấy, Thánh Nữ Bà La Môn nhờ nương sức niệm Phật–Nam Mô Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai—nên tự nhiên không kinh sợ trước những cảnh tượng hãi hùng đó."

            "Có một Quỷ Vương tên là Vô Ðộc, đến cúi đầu nghênh tiếp. Bấy giờ, thủ lãnh của loài quỷ là Quỷ Vương Vô Ðộc tiến đến lạy chào Thánh Nữ Bà La Môn, rồi hỏi Thánh Nữ rằng: ‘Lành thay, Bồ Tát! Do duyên sự gì mà Ngài đến chốn này? Thưa vị Bồ Tát có thiện tâm, chẳng hay vì duyên cớ gì mà Ngài lại đến nơi đây?’"

            "Bấy giờ, Thánh Nữ Bà La Môn hỏi Quỷ Vương rằng: ‘Tôi không rõ làm thế nào tôi lại đến được nơi này nữa; chẳng hay đây là chốn nào?’

            Quỷ Vương Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ðây là tầng biển thứ nhất ở phía Tây núi Ðại Thiết Vi.’ Núi Ðại Thiết Vi là một trong những hòn núi lớn ở bên ngoài núi Tu Di.

            Thánh Nữ hỏi rằng: ‘Tôi nghe trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thật chăng? Tôi thường nghe người ta nói rằng bên trong núi Thiết Vi có địa ngục, chẳng hay có thật như thế chăng? Có nhiều người không tin là có địa ngục; thế thì có thật là có địa ngục hay không?’

Vô Ðộc đáp rằng: ‘Thật có địa ngục! Quả thật có địa ngục—đây chẳng phải là do con người tưởng tượng ra, mà đích thực là có địa ngục!’

            Thánh Nữ lại hỏi: ‘Nay tôi làm sao được đến chốn địa ngục? Do duyên cớ gì mà bây giờ tôi lại đến địa ngục này?’

            Vô Ðộc đáp rằng: ‘Nếu không phải sức oai thần, cần phải do nghiệp lực; ngoài hai điều này ra, ắt không bao giờ có thể đến được.’ Có hai nguyên nhân dẫn dắt đến chốn địa ngục. Thứ nhất, là phải có oai thần, sức thần thông, đức hạnh, mới có thể đến được nơi này. Thứ hai, là do nghiệp lực—tức là vì có nghiệp tội nên mới bị đọa vào địa ngục. Như vậy, nếu không do oai thần hoặc nghiệp lực dẫn dắt, thì không thể nào đến được địa ngục.

            Thánh Nữ lại hỏi: ‘Do duyên cớ gì mà nước trong biển này sôi sùng sục và có những người tội cùng các thú dữ như thế? Vì sao nước trong biển này nóng dữ dội như thế? Vì sao lại có nhiều tội nhân bị dìm trong nước sôi, và vì sao lại có đông đảo ác thú đến thế?’

            Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ðây là những chúng sanh tạo ác ở cõi Diêm Phù Ðề mới chết, quá bốn mươi chín ngày—tức là bảy tuần lễ, thường gọi là "thất tuần" hoặc "bảy thất"—không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho; lúc sống, họ lại không làm được nhân lành nào cả...’

            "Diêm Phù Ðề" là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là "thắng kim." Bởi vì lá của cây Diêm Phù Ðàn Kim rụng xuống sông thì biến thành vàng ròng; thứ vàng này là thù thắng nhất, đặc biệt nhất, nên gọi là "thắng kim." Thế giới mà chúng ta đương sống được gọi là cõi Nam Diêm Phù Ðề. 

            Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề khởi tâm động niệm đều là tội, đều là nghiệp—chúng ta thường xuyên tạo tác nghiệp tội. Những tội nhân trong biển này chính là những chúng sanh đã từng gây tạo ác nghiệp ở cõi Diêm Phù Ðề vừa mới chết hoặc mới chết gần đây. 

            Ðối với người đã chết, nếu quý vị muốn làm việc công đức để giúp cho họ được siêu thoát, cần phải làm trước ngày thứ bốn mươi chín kể từ ngày họ chết. Bởi vì trước ngày thứ bốn mươi chín, nghiệp tội của người chết vẫn chưa được xét xử, quý vị có thể kịp thời vì họ mà làm công đức, để họ được hưởng sự lợi ích. Nếu để quá bốn mươi chín ngày thì khi ấy nghiệp tội của họ đã được phán định xong xuôi—cũng như tòa án đã kết án, định tội rồi vậy—không thể nào thay đổi được nữa. Vì thế, trong vòng bốn mươi chín ngày này, nếu quý vị có thể tụng Kinh tụng Chú hồi hướng cho họ, thì có thể giúp họ được siêu độ, khiến họ đạt được sự lợi ích. 

            Thế thì, nếu sau bốn mươi chín ngày, nghiệp tội của người quá vãng đã được xét xử xong, mà quý vị mới tụng Kinh siêu độ cho họ, thì họ có được hưởng công đức gì không? Tất nhiên là có, nhưng công đức mà họ được hưởng có ít bớt, năng lực có yếu hơn; tuy là không lớn lao song chẳng thể nói là hoàn toàn không có. Do đó, từ rày về sau, nếu quý vị muốn làm công đức để hồi hướng cho những người quá vãng, thì tốt nhất là nên làm trước kỳ hạn bốn mươi chín ngày sau khi họ qua đời.

            Vậy, những chúng sanh đang trôi nổi trong biển nước sôi là những kẻ mà lúc còn ở cõi Diêm Phù Ðề đã trót gây tạo nhiều ác nghiệp, không hề làm việc thiện, chưa từng trồng nhân lành và chết đã quá bốn mươi chín ngày mà vẫn không có ai làm thiện sự để hồi hướng công đức ngõ hầu giải bớt khổ nạn cho; ‘vì thế nên cứ theo bổn nghiệp mà chiêu cảm lấy địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này trước.’ Căn cứ vào nghiệp tội trước đây họ đã tạo tác mà cảm thọ quả báo địa ngục, tự nhiên trước hết họ phải lội qua cái "đại khổ hải" này, nhận lãnh nghiệp báo mà họ đáng phải nhận lãnh.

            Quỷ Vương Vô Ðộc lại nói tiếp: "Cách biển này mười vạn do-tuần về phía Ðông lại có một cái biển. Ở phía Ðông của biển nước sôi này lại có một biển lớn khác; biển ấy cách biển này mười vạn do-tuần và những thống khổ ở đó còn gấp bội chốn này." Thấy những người trong biển này bị ác thú và quỷ Dạ Xoa xua đuổi, rượt bắt, quý vị cho rằng như thế là thống khổ, nhưng khi đến biển kia thì quý vị sẽ thấy rằng ở đó còn khổ sở và lợi hại hơn ở biển này rất nhiều!

            "Phía Ðông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ ở đó càng trội hơn, càng nhiều hơn so với biển trước." 

            Do nguyên nhân nào mà có những biển này? "Do ác nhân của Tam Nghiệp cảm vời ra và gọi chung là biển nghiệp, chính là chốn này vậy." 

            Tam Nghiệp tức là ba nghiệp—thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân có ba nghiệp ác là sát, đạo, dâm—sát sanh, trộm cắp, và tà dâm, không giữ quy củ. Ý có ba nghiệp ác là tham, sân, si—lòng tham lam, lòng sân hận, lòng si mê. Khẩu (miệng) có bốn nghiệp ác là ỷ ngữ, vọng ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt.

            "Ỷ ngữ" là nói những chuyện trai gái không chánh đáng. "Vọng ngữ" là chuyên nói những lời gian dối, nói láo. "Ác khẩu" là dùng lời hung dữ mắng chửi người. "Lưỡng thiệt" là nói lưỡi đôi chiều—gặp Trương Tam thì nói xấu Lý Tứ, gặp Lý Tứ thì nói xấu Trương Tam, để gây xích mích lẫn nhau. Một người mà nói hai lời trái nghịch nhau—đi với Giáp thì nói Ất thế này thế nọ, đi với Ất thì lại nói Giáp thế nọ thế kia—một cái lưỡi mà nói hai lời đâm thọc nhau, chẳng khác nào có hai cái lưỡi, cho nên gọi là "lưỡng thiệt."  

            Miệng có bốn nghiệp ác, thân có ba nghiệp ác, ý có ba nghiệp ác, gọi chung là Thập Ác (mười điều ác), hoặc Tam Nghiệp Ác Nhân—tức là những chủng tử hoặc mầm mống gây tạo tội ác qua thân, khẩu và ý.

            Vì sao lại có biển "nước ác" (ác thủy), cùng nhiều thú dữ và quỷ Dạ Xoa như thế? Ðây đều là do những nghiệp nhân xấu ác của con người tạo ra mà chiêu cảm lấy quả báo. Trồng nhân lành thì gặt quả lành, gieo ác nhân thì chịu ác báo—nghĩa là "bụng làm dạ chịu," nghiệp tội đều là do mình tự gây ra và tự chuốc lấy.

            Vậy, ba cái biển này được gọi chung là "biển nghiệp" (nghiệp hải), và đều do nghiệp lực của con người cảm vời ra.  

Kinh văn:

            "Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Ðộc rằng: ‘Ðịa ngục ở đâu?’

            Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ở trong ba cái biển đó đều là đại địa ngục, nhiều đến số trăm ngàn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thì có mươi tám chỗ; bực kế đó có năm trăm chỗ, đủ không lường sự khổ sở; bực kế nữa có đến ngàn trăm, cũng đầy không lường sự thống khổ.’

            Thánh Nữ lại hỏi Ðại Quỷ Vương rằng: ‘Thân mẫu tôi mới mất gần đây, song không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?’" 

Lược giảng:

            "Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Ðộc rằng: ‘Ðịa ngục ở đâu? Ngài nói có địa ngục, vậy chẳng hay địa ngục rốt cuộc ở nơi đâu?’

            Quỷ Vương Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ở trong ba cái biển đó đều là đại địa ngục.’

            Tại sao gọi là "biển nghiệp" (nghiệp hải)? "Biển nghiệp" tức là cái biển do nghiệp lực của chúng sanh tập hợp lại mà thành. Chữ "biển" còn ngụ ý rộng lớn, dồi dào; chứ không nhất thiết là một biển nước thật sự. Do đó, "biển nghiệp" ám chỉ nghiệp lực của chúng sanh nếu dồn lại, kết nhóm lại, thì cũng rộng lớn vô lượng vô biên như biển cả vậy. 

            Ba cái biển vừa kể này cũng có thể gọi là "biển nghiệp," do ba nghiệp thân, khẩu, ý của con người tạo thành; cho nên Quỷ Vương Vô Ðộc mới nói với Thánh Nữ Bà La Môn rằng: "Ở trong ba cái biển đó đều là đại địa ngục, nhiều đến số trăm ngàn, mỗi ngục đều khác nhau." 

            Có bao nhiêu địa ngục? Có đến hàng ngàn hàng vạn địa ngục, và mỗi ngục mỗi có những thiết bị khác nhau, không ngục nào giống với ngục nào. Có thể nói rằng mỗi người gây mỗi nghiệp, chẳng ai giống ai, cho nên mỗi người tự tạo mỗi địa ngục cho chính mình. Ðịa ngục hoàn toàn không phải được xây sẵn hoặc chuẩn bị sẵn cho con người trước khi chết. Không phải thế! Ðịa ngục là do tự nghiệp của mỗi người chiêu cảm mà hiện ra—tự mình tạo nghiệp tội gì, thì phải gánh chịu quả báo tương ứng với tội lỗi đó—gây vô số ác nghiệp tất gặp vô số ác báo.

            Thí dụ, có một nơi gọi là địa ngục "bào lạc"—cột đồng nung. Ở địa ngục này có cây cột làm bằng đồng, rỗng ruột, nên có thể đốt lửa ở bên trong. Hạng người nào phải đọa vào địa ngục này? Ðó là những người háo sắc đa dâm, chuyên làm điều bất chánh; bởi địa ngục cột đồng nung nóng này là do nghiệp lực của họ cảm vời mà ra! Họ nhìn cột đồng song đối với họ thì đó không phải là một cột đồng rực lửa, mà là hình dáng của một con người—người nam thì thấy đó là một mỹ nữ, nên liền mừng rỡ nhào tới ôm chầm lấy, và vì thế bị lửa thiêu đốt đến bỏng da cháy thịt, muốn gỡ cũng gỡ không ra; còn người nữ nhìn cột đồng nóng thì lại thấy đó là một người nam khôi ngô tuấn tú, hoặc là bạn trai cũ của mình, liền vui mừng cho rằng "đất khách gặp cố nhân," bèn hớn hở chạy ào đến ôm chầm lấy, nhưng tới nơi thì liền bị "lửa dục" (dục hỏa) này thiêu chết.

            Tội nhân bị chết rồi, thì sau đó trong địa ngục có một ngọn "xảo phong" (gió tinh khôn)—do một thứ diệu pháp tạo thành—thổi lướt qua. Ngọn gió này thổi đến thì họ đều sống trở lại, nhưng sau khi sống lại, họ lại quên mất hình phạt vừa mới thọ nhận, mà chỉ nhớ điều ưa thích trước, nên cứ "chứng nào tật nấy," do đó lại phải tiếp tục chịu khổ báo, và các hình phạt tại địa ngục cột đồng nung cứ thế mà tái diễn. 

            Ngoài ra còn có rất nhiều loại địa ngục, mỗi loại đều có những đặc điểm riêng; do đó nói là "mỗi địa ngục đều khác nhau."

            ‘Về địa ngục lớn thì có mười tám chỗ.’ Có tất cả mười tám đại địa ngục, trong mỗi địa ngục ấy lại ngăn thành mười tám gian, mười tám gian này chính là mười tám chỗ riêng biệt.

            ‘Bực kế đó có năm trăm chỗ, đủ không lường sự khổ sở.’ Thứ đến lại có năm trăm địa ngục, mà sự khổ sở ở nơi này nhiều đến đếm không xuể, kể không xiết.

            'Bực kế nữa có đến ngàn trăm, cũng đầy không lường sự thống khổ.' Kế nữa thì lại có đến hàng trăm hàng nghìn địa ngục, sự khổ sở ở những ngục này so với năm trăm địa ngục trên tuy có phần nào nhẹ hơn, song nói chung thì vẫn là vô lượng vô biên.

            "Thánh Nữ lại hỏi Ðại Quỷ Vương rằng: ‘Xin Ngài mở lòng từ bi mà chỉ bày cho. Thân mẫu tôi mới mất gần đây song không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào? Mẹ tôi vừa mới qua đời, tính đến nay cũng chưa được bao lâu, song tôi nóng lòng muốn biết linh hồn của mẹ tôi hiện đương phiêu bạt phương nào, xin Quỷ Vương làm ơn chỉ giúp cho.’"

 

Kinh văn:



            "Quỷ Vương hỏi Thánh Nữ rằng: ‘Thân mẫu của Bồ Tát khi còn sống, quen làm những nghiệp gì?’

            Thánh Nữ đáp rằng: ‘Thân mẫu tôi tà kiến, khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm tin, nhưng rồi chẳng kính; dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ thác sanh về đâu.’

            Vô Ðộc hỏi rằng: ‘Thân mẫu của Bồ Tát tên họ là gì?’

            Thánh Nữ đáp rằng: ‘Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà La Môn. Thân phụ tôi hiệu là Thi La Thiện Kiến, thân mẫu tôi tên là Duyệt Ðế Lợi.’

            Vô Ðộc chắp tay thưa Bồ Tát rằng: ‘Xin Thánh Giả hãy trở về, và chớ thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt Ðế Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi. Nghe nói nhờ con trai của bà có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà thiết cúng để tu phước, và bố thí chùa tháp thờ Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ thân mẫu của Bồ Tát được thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhân Vô Gián cũng đều được an lạc, đồng được thác sanh cả.’

            Nói xong, Quỷ Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui."  

Lược giảng:

            Nghe Thánh Nữ nói muốn biết thân mẫu mình thác sanh vào chốn nào trong sáu nẻo luân hồi, "Quỷ Vương hỏi Thánh Nữ rằng: ‘Thân mẫu của Bồ Tát khi còn sống, quen làm những nghiệp gì? Bà sinh sống bằng nghề gì? Thuở sinh tiền bà thích làm những việc gì?’" Vì thấy Thánh Nữ Bà La Môn đến được địa ngục, thì nhất định là nhờ ở sức mạnh của oai đức nguyện lực, cho nên Quỷ Vương mới gọi Thánh Nữ là "Bồ Tát."

            "Thánh Nữ đáp rằng: ‘Thân mẫu tôi tà kiến. Mặc dù là mẹ của tôi, nhưng tôi không thể che giấu những sai lầm của bà được—mẹ tôi là người tà tri tà kiến.’"

            "Tà kiến" là một trong năm thứ kiến giải sai lầm (Ngũ Kiến) hoặc năm mối sai khiến (Ngũ Lợi Sử)—Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Kiến, Kiến Thủ Kiến và Tà Kiến.

            1) Thân Kiến (chấp là có thân mình). "Thân kiến" là luôn luôn lo toan tính toán cho cái thân của mình," không muốn nó phải chịu thiệt thòi. Thí dụ, ăn uống thì phải là đồ ngon đồ bổ, như thế mới khỏi  lo sợ là sẽ ảnh hưởng không tốt cho cơ thể! Những người có "thân kiến" cứ muốn bồi bổ thân hình cho mập mạp, béo tốt, không ngại thân mình quá thừa thịt thừa mỡ; bởi họ cho rằng như thế mới là thân thể khỏe mạnh, càng mập càng tốt. Lúc nào họ cũng sẵn sàng vì bản thân mà ưu tư, tính toán—phải ở nơi nhà cao cửa rộng, đầy đủ tiện nghi, ăn uống phủ phê, áo quần sang trọng, ... từ sáng đến tối chỉ nghĩ tới chuyện hưởng thụ sung sướng và chăm sóc cái thân này từng ly từng tí. Ðó là nói về "thân kiến"—không muốn cho thân thể chịu thiệt thòi, tổn thất.

            2) Biên Kiến (cực đoan, chỉ thấy một bên). "Biên kiến" tức là nhìn sự việc một cách thiên lệch hoặc quá khích. Thí dụ, hút thuốc lá là có hại, nhưng những kẻ có "biên kiến" lại nói rằng hút thuốc thì chẳng có gì là không tốt cả, và còn ngoan cố bảo rằng làm như thế mới là hay, là tài giỏi nữa! Họ lại còn biện hộ rằng quý vị sở dĩ chống đối việc hút thuốc là vì quý vị chưa hiểu hết được sự thần diệu của nó, chứ một khi được "nếm" qua sự thần diệu đó rồi thì e rằng ai nấy cũng đều không muốn từ bỏ, và biết đâu lại còn hút nhiều hơn!

            Những kẻ có "biên kiến" thường nói năng rất khéo léo, lưu loát, viện dẫn lý lẽ rất hùng hồn, nhưng thực chất thì chỉ toàn là thành kiến lệch lạc.

            3) Kiến Thủ Kiến (cố chấp, bám chặt vào kiến giải sai lầm).

            4) Giới Kiến (hiểu sai về giới, trì giữ những giới sai lạc). "Giới kiến" chính là "tà giới". Thí dụ, có những kẻ khi thấy người theo đạo Phật thì không ăn thịt, liền nói: "Không ăn thịt thì có gì đáng nói? Quý vị biết không, có người ngay cả muối họ cũng không ăn nữa; như thế mới là có bản lãnh chứ! Nếu không tin thì quý vị thử làm xem!" Và họ cố ý cứ thế mà đi dần tới việc hủy báng Tam Bảo. Nói chung, cho dù việc quý vị làm rõ ràng là đúng, song những kẻ có "giới kiến" vẫn "bới lông tìm vết," cố tìm cho ra khuyết điểm để phê phán, dèm pha cho bằng được!

            5) Tà Kiến (cái thấy tà vạy). Thí dụ, khi thấy mọi người đều ca ngợi hạnh hiếu thảo, thì kẻ "tà kiến" lại bảo: "Hiếu thảo cha mẹ để làm gì? Cha mẹ sanh con đẻ cái là hậu quả của lòng ham khoái lạc nhất thời, chứ nào phải tử tế gì đâu?" Và vì thế, họ bỏ mặc cha mẹ, không đoái hoài tới; đến khi cha mẹ già nua rồi qua đời thì họ thở phào nhẹ nhỏm: "Cũng tốt thôi! Như thế là thế giới bớt được một kẻ ngồi không, ăn bám." 

            Những kẻ "tà kiến" thường nói năng dài dòng, viện dẫn lung tung. Nói rằng hiếu thảo cha mẹ là hợp với đạo lý, đúng với lẽ phải, thì họ phản đối và cãi lại: "Thật là ngu xuẩn! Hai ông bà đều già cả, sắp xuống lỗ hết rồi, còn hầu hạ hiếu thuận họ làm gì cho nhọc xác chứ?" Họ bảo quý vị ngu xuẩn; song le, chính họ mới thực sự là ngu xuẩn đến cực điểm! Ðó là điển hình của hạng người đầy rẫy tà tri tà kiến.

            "‘Khinh chê ngôi Tam Bảo.’" Câu này nguyên văn chữ Hán là "cơ hủy Tam Bảo"—"cơ" là giễu cợt, "hủy" là chê bai. Thí dụ, có nhiều người thấy kẻ khác lạy Phật liền mai mỉa: "Xem kìa! Hắn là người sùng tín đạo Phật đấy. Những người tin Phật điều gì cũng làm, xem ra thì họ có gì hay hơn người khác đâu? Không phải là họ cũng chơi bời, cờ bạc, rượu chè, ... như thiên hạ, việc gì cũng tham dự hết sao? Tin Phật thì được lợi ích gì?" Họ gán cho tín đồ Phật giáo cả núi tội, trút lên đầu người Phật tử cả đống lỗi—mà tội nào tội nấy đều nghiêm trọng hơn cả Thập Ác và Ngũ Nghịch rất nhiều—đó gọi là "cơ."

            "Hủy" là chê bai, phỉ báng. Thí dụ có người nói rằng: "Quý vị không nên tin Phật; những người theo đạo Phật đều là những kẻ lừa đảo!"—nói như thế tức là chê bai, hủy báng Tam Bảo vậy. Hoặc có người lại nói rằng: "Phật, Pháp, Tăng đều là giả dối. Phật chỉ là tượng đất, Pháp chẳng qua chỉ là chữ viết trên giấy, còn Tăng nhân thì bất quá cũng là con người phàm phu tục tử mà thôi, đâu có gì đặc biệt? Thế thì tại sao mọi người cần phải tin lời Phật nói? Tại sao phải dập đầu quỳ lạy? Các người quả thật là ngu si tột bực!" Họ mắng nhiếc một thôi một hồi thậm tệ như thế, khiến cho những người tin Phật cũng sanh lòng hoang mang, ngờ vực—thậm chí có kẻ phải giấu giếm, không dám cho ai biết rằng mình theo đạo Phật!

            Trong số những vị cao niên thường đến đây nghe thuyết Pháp vào ngày Chủ Nhật, có một vị cách đây mấy năm đã từng ngỏ ý muốn được quy y với tôi, nhưng tôi trước sau vẫn không nhận lời. Vì sao ư? Vì ông ấy muốn quy y một cách bí mật, không muốn để cho người khác biết! Qúy vị xem, quy y chứ đâu phải đi ăn trộm, thì tại sao phải bí mật, lén lén lút lút chứ? Ông ta muốn bí mật nhưng ở đây tôi không có thứ "quy y bí mật" đó, cho nên tôi bảo ông ấy nên suy nghĩ lại. Việc này thật là kỳ lạ! Ông ấy viện cớ gì ư? Ông ấy nói rằng ông vốn là tín đồ Thiên Chúa giáo và có quen biết rất nhiều người trong giáo đoàn, bây giờ nếu họ biết ông ta theo đạo Phật thì họ sẽ cho rằng ông là kẻ "phản đạo," là một tên "phản đồ"! Song, nếu không thú thật tức là ông ta lừa dối mọi người, như thế lại càng tội lỗi hơn nữa! Ông ta lại còn nêu ra một nguyên do khác, đó là vì ông còn muốn nhận sự cứu tế từ nhà thờ nọ. Quý vị xem, như thế thì làm sao có thể gọi là tin Phật được? Thật là đáng thương!

            ‘Hoặc có lúc tạm tin.’ "Tạm tin" tức là tin tưởng tạm thời, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, chứ chẳng phải mãi mãi tin tưởng.

            Chúng ta tin Phật, thì cần phải phát nguyện vĩnh viễn tin Phật, không nên chỉ tin tạm thời như bà mẹ của Thánh Nữ Bà La Môn. Thí dụ có nhiều người nói rằng: "Tôi chỉ tin trong vòng một tiếng đồng hồ, quá một tiếng đồng hồ rồi thì tôi không tin nữa"—như thế gọi là "tin tạm thời," hay "tạm tin." Những người đó không thể nào duy trì lòng tin lâu tới hai tiếng đồng hồ được, họ chỉ tin trong một giờ đồng hồ mà thôi. Có người thì lòng hăng hái và nhiệt tình tin tưởng của họ chỉ kéo dài tối đa là năm phút, quá năm phút thì nguội lạnh hẳn—họ chỉ có thể giữ được tín tâm trong năm phút! Tuy nhiên, chúng ta học Phật thì cần phải tin Phật và cần phải phát nguyện mãi mãi có đức tin.

            Vậy thì, có thể là cũng trong năm phút ngắn ngủi nào đó, bà mẹ của Thánh Nữ chịu theo con đi lễ Phật, quy y Tam Bảo, hoặc lạy một vị Sư làm Thầy, ‘nhưng rồi chẳng kính.’ Khi đối trước tượng Phật thì bà lạy Phật tin Phật, nhưng chỉ vừa quay lưng là lập tức không còn cung kính nữa.

            ‘Dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ thác sanh về đâu. Mẹ tôi vừa mới qua đời, song tôi không biết bà phải đầu thai vào chốn nào.’

            Vô Ðộc hỏi rằng: ‘Thân mẫu của Bồ Tát tên họ là gì?’ Vì Thánh Nữ Bà La Môn chưa cho biết danh tánh của bà mẹ, nên Quỷ Vương không thể không hỏi cho rõ ràng: "Chẳng hay mẹ của Ngài tên họ là gì? Bà cư ngụ nơi đâu? Ðịa chỉ của Ngài là gì? Xin Ngài hãy kể rõ."

            Thánh Nữ đáp rằng: ‘Thân phụ và thân mẫu tôi đều dòng dõi Bà La Môn.’

            Xã hội Ấn Ðộ thời bấy giờ có bốn chủng tánh (những người có nghiên cứu về Ấn Ðộ cần phải biết bốn chủng tánh này là gồm những gì):

            1) Bà La Môn (tức là "tịnh duệ," dòng dõi thanh tịnh);

            2) Sát Ðế Lợi (dòng dõi vua chúa);

            3) Phệ Xá (hạng người hành nghề "thương cổ"—"thương" là đem hàng hóa đi bán, "cổ" là ngồi bán. "Hành thương tọa cổ" là chỉ cho nghề buôn bán);

            4) Chiên Ðà La (giai cấp hạ tiện, thấp kém nhất trong xã hội, như hàng đồ tể chuyên giết heo, giết bò...)

            Tại Ấn Ðộ, những kẻ làm nghề đồ tể lúc đi đường đều phải đi nép một bên, không được đi chung hoặc ngang hàng với người thuộc ba giai cấp trên; và càng không được đi cùng một con đường với hàng quý tộc. Trên thân những người đồ tể đều có đánh dấu, ai trông thấy thì liền biết đó là hạng Chiên Ðà La. Ðồ tể là một công việc rất thấp hèn, cho nên những người hành nghề này đều bị liệt vào giai cấp thấp hèn nhất trong xã hội. 

            Thánh Nữ đang được nói đến trong Kinh này vốn thuộc dòng Bà La Môn, tức là ở hàng quý tộc. 

            Xã hội Ấn Ðộ và Anh Quốc đều chú trọng giai cấp, và cho đến nay họ vẫn còn đặt nặng vấn đề giai cấp. Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ, không ai có quan niệm phân chia giai cấp cả, mọi người đều sống rất bình đẳng. Còn Ấn Ðộ thì lại khác—những người thuộc giai cấp cao không được trò chuyện với người ở giai cấp thấp thua mình; nếu vi phạm, họ sẽ bị những người thuộc giai cấp cao khinh rẻ, xem như kẻ chẳng ra gì, không có chút giá trị! Quan niệm phân chia giai cấp này rất lợi hại!

            ‘Thân phụ tôi hiệu là Thi La Thiện Kiến.’ "Thi La" là tiếng Phạn và có nghĩa là "giới luật"; tuy nhiên ở đây thì hàm nghĩa "thanh lương" (mát mẻ). 

            ‘Thân mẫu tôi tên là Duyệt Ðế Lợi.’ "Duyệt Ðế Lợi" cũng là Phạn ngữ. Trong kinh Phật, không có cái gì thuyết pháp một cách chánh thức; có điều ở đây tôi chú giải thêm chút đỉnh—"duyệt" nghĩa là hoan hỷ, vui vẻ; "đế" tức là hoàng đế. Vậy, "hoàng đế vui thích" là ý nói người này rất xinh đẹp, ngay cả hoàng đế cũng phải yêu thích—cũng có thể giải thích như thế.

            Thật ra, ý nghĩa của tên gọi thì không nhất định—quý vị muốn giảng nghĩa thế nào cũng được, miễn sao hợp lý thì thôi, nhất là đối với tiếng Phạn. Do đó, sau khi nghe giảng rồi, quý vị xem kinh văn có chỗ nào không hiểu, thì chớ vội nói là mình không biết. Qúy vị phải vận dụng trí huệ của chính mình để nghiền ngẫm, suy luận! Trí huệ của quý vị một khi khai mở thì: "Ồ! Tôi biết rồi, thì ra là như vậy!" Hễ nói cho hợp lý thì giảng giải thế nào cũng được, chỉ cần đừng mắng chửi người khác, đừng nói xấu hoặc bôi nhọ, cũng chớ nên cứng nhắc, cố chấp!

            "Vô Ðộc chắp tay thưa Bồ Tát rằng... Quỷ Vương Vô Ðộc nghe Thánh Nữ Bà La Môn nói xong, liền chắp hai tay lại—biểu thị sự cung kính—và nói với Thánh Nữ rằng: ‘Xin Thánh Giả hãy trở về và chớ thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Xin Bồ Tát hãy trở về nơi ở của mình; và xin Ngài chớ nên lo âu, buồn bã, nhớ thương thân mẫu nữa. Xin Ngài hãy bớt lòng lưu luyến, tiếc thương bởi vì tội nữ Duyệt Ðế Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi.’"

            Vì sao bà Duyệt Ðế Lợi lại được sanh lên cõi trời? ‘Nghe nói nhờ con trai của bà có lòng hiếu thuận—mặc dù là con gái, nhưng ở đây biểu thị là con trai—vì mẹ mà thiết cúng để tu phước, và bố thí chùa tháp thờ Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai.’ "Bố thí" tức là "trai tăng cúng chúng," làm cơm chay cúng dường chư tăng. Như vậy, bà Duyệt Ðế Lợi này có một người con trai rất hiếu thảo, đã bán hết tất cả gia sản để thiết trai tăng, cúng dường đại chúng tại các chùa và tháp thờ Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, ngõ hầu tu tạo phước lành cho mẫu thân.

            ‘Chẳng phải chỉ thân mẫu của Bồ Tát được thoát khỏi địa ngục, mà ngày hôm đó, những tội nhân Vô Gián cũng đều được an lạc, đồng được thác sanh cả.’ Ngoài ra, cũng trong ngày hôm đó, không riêng gì thân mẫu của Thánh Nữ Bà La Môn, mà vô lượng vô biên tội nhân ở địa ngục Vô Gián lúc bấy giờ cũng đều được thoát khỏi tội khổ, được sự an vui, và đều được sanh lên cõi trời.

            "Nói xong, Quỷ Vương chắp tay mà cáo lui." Quỷ Vương Vô Ðộc nói xong, liền cung kính chắp tay làm lễ chào Thánh Nữ, rồi rút lui.  

Kinh văn:

            "Thánh Nữ Bà La Môn dường chiêm bao chợt tỉnh, rõ biết các việc rồi, bèn đối trước tháp tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà lập hoằng thệ nguyện rằng: ‘Tôi nguyện từ nay cho đến tận vị lai kiếp, sẽ vì những chúng sanh mắc phải tội khổ mà quảng thiết phương tiện, khiến cho họ đều được giải thoát.’"

            Ðức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: "Quỷ Vương Vô Ðộc ngày trước, nay chính là Tài Thủ Bồ Tát; còn Thánh Nữ Bà La Môn đó, nay là Bồ tát Ðịa Tạng vậy."  

Lược giảng:

            "Thánh Nữ Bà La Môn dường chiêm bao chợt tỉnh." Câu này, nguyên văn chữ Hán là "Bà La Môn nữ, tầm như mộng quy." Chữ "tầm" ở đây ngụ ý là thời gian không lâu. "Tầm" vốn có nghĩa là tìm kiếm, nhưng ở đây hàm ý khoảng thời gian không lâu lắm, chỉ trong khoảnh khắc. Cho nên, "tầm như mộng quy" tức là dường như vừa tỉnh dậy sau một cơn mơ ngắn ngủi vậy. 

            "Rõ biết các việc rồi." Tỉnh dậy rồi, Thánh Nữ hồi tưởng: "Ồ! Tôi vừa đến một bờ biển và gặp Ðại Quỷ Vương Vô Ðộc. Sau đó, tôi lại còn trông thấy các thú dữ ở địa ngục cùng các tội nhân nữa. Tôi có hỏi về chỗ thác sanh của mẹ tôi, và được Quỷ Vương cho biết là bà đã sanh lên cõi trời rồi!" Thánh Nữ biết rằng mọi việc mình vừa được chứng kiến hoàn toàn không phải là hư dối, mà là nhờ oai thần của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai gia bị, giúp cho mình được thành tựu ý nguyện. 

            Thánh Nữ "bèn đối trước tháp tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà lập hoằng thệ nguyện rằng..." "Hoằng" có nghĩa là rộng lớn, to tát. Thánh Nữ Bà La Môn phát thệ nguyện rộng lớn như thế nào? Cô ta nguyện rằng: "Tôi nguyện từ nay cho đến tận vị lai kiếp, sẽ vì những chúng sanh mắc phải tội khổ, những kẻ đang trầm luân trong sáu đường, mà quảng thiết phương tiện, lập ra nhiều phương chước, khiến cho họ đều được giải thoát, lìa khổ được vui."

             "Tận vị lai kiếp" tức là đến tận bao giờ? Khi nào sẽ là lúc cùng tận? Không thể có lúc cùng tận! Do đó, thệ nguyện của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát cũng không có cùng tận.

            Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: "Quỷ Vương Vô Ðộc ngày trước, vị Quỷ Vương đã cùng hỏi đáp với Thánh Nữ Bà La Môn thuở nọ, nay chính là Tài Thủ Bồ Tát." Như vậy, Bồ Tát Tài Thủ vốn là Vô Ðộc Quỷ Vương tu tập mà thành. Ngài đã tu pháp Thất Thánh Tài—bảy món của cải quý báu của hàng Thánh giả:

1. Tín. Ðức tin là một báu vật của sự tu hành.

2. Giới Tài Bảo. Truyền Giới và thọ Giới là những sự kiện hết sức hy hữu (đặc biệt là trong thời Mạt Pháp), mà người xuất gia thì nhất định phải thọ Giới mới là người xuất gia hoàn chỉnh.

3. Ða Văn Tài Bảo. Ðược nghe nhiều biết rộng cũng là một tài sản quý báu.

4. Xả. Biết bố thí, biết xả bỏ, cũng là một hạnh quý báu trong sự tu hành.

5. Trí Huệ. Có trí huệ là điều rất thiết yếu, cho nên trí huệ cũng là báu vật của sự tu hành.

6. Tàm. "Tàm" tức là lòng xấu hổ. 

7. Quý. "Quý" là lòng hổ thẹn (sợ người chê).

            Hai chữ "tàm" và "quý" này vốn thường đi chung với nhau, nhưng ở đây thì tách riêng ra. Trên đây là những "bảo bối" mà người tu hành cần phải có. 

            Do có bảy món tài sản quý báu, thiêng liêng—Tín, Giới, Ða Văn, Xả, Trí Huệ, Tàm, Quý—nên gọi là Tài Thủ Bồ Tát. 

            "Còn Thánh Nữ Bà La Môn đó nay chính là Bồ Tát Ðịa Tạng vậy." Cho nên, chúng ta cần phải học theo đức hạnh tốt đẹp của tiền thân Bồ Tát Ðịa Tạng—phải hiếu thảo với cha mẹ, độ thoát cha mẹ!


 
 

[1] Quan Vũ tức là Quan Vân Trường (thường được gọi là Quan Công), là một danh tướng đời Thục Hán, thời Tam Quốc; và cũng là anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi. Sau khi chết, Quan Công được thờ chung với Nhạc Phi ở Võ Miếu.

[2] Bạch Khởi là một võ tướng đời Chiêu Tương Vương nhà Tần, thời Ðông Châu Liệt Quốc. Ông có tài dụng binh quán thế, bách chiến bách thắng, nhưng tánh tình độc ác khôn lường. Trong trận tấn công nước Triệu, Bạch Khởi đại thắng và thâu được hơn hai mươi vạn hàng binh Triệu, và tất cả đều bị ông tàn sát hết nội trong một đêm.  

[3] "Thức thứ tám" tức là A-lại-da Thức, hoặc Tàng Thức (thức tích chứa). 

Tám Thức: 1) Nhãn Thức, 2) Nhĩ Thức, 3) Tỹ Thức, 4) Thiệt Thức, 5) Thân Thức, 6) Ý Thức, 7) Mạt-na Thức, 8) A-lại-da Thức.
 



tải về 2.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   32




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương