Kinh đỊa tạng bồ TÁt bổn nguyện thiển thíCH



tải về 2.73 Mb.
trang12/32
Chuyển đổi dữ liệu08.09.2016
Kích2.73 Mb.
#31926
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   32

Này Văn Thù Sư Lợi! Không thể nói hết không thể nói hết số kiếp lâu xa về trước, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát là con trai của một vị đại Trưởng Giả. Thuở đó, trong đời có đức Phật hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai."

Lược giảng:

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mà bảo rằng: "Này Văn Thù Sư Lợi! Oai thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn đến được." "Bồ Tát đó" tức là vị Bồ Tát nào? Chính là Bồ Tát Ðịa Tạng! Oai đức thần thông và thệ nguyện không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Ðịa Tạng có công năng độ thoát tất cả chúng sanh có tội ác sâu nặng. Ngài dùng oai thần của chính mình để chiết phục chúng sanh; Ngài nguyện rằng: 

“Địa ngục chưa trống không, thề chưa thành Phật, 

Chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ Đề." 

(Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, 

Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Đề.) 

Bao giờ địa ngục còn chưa trống không, thì bấy giờ Bồ Tát Ðịa Tạng còn chưa thành Phật; chỉ khi nào tất cả chúng sanh đều được độ thoát rồi thì khi đó Ngài mới thành Phật, nếu vẫn còn một chúng sanh chưa độ xong thì Ngài vẫn chưa thành Phật. 

Trải qua quãng thời gian lâu dài như vậy mà Bồ Tát Ðịa Tạng vẫn chưa thành Phật, cũng vì hễ Ngài độ chúng sanh này xong thì lại có chúng sanh khác đến, cứ liên tục không bao giờ ngớt. Không phải là cứ một chúng sanh ra đời thì có một chúng sanh tạ thế; cũng chẳng phải là cứ chúng sanh kia tạ thế thì chúng sanh nọ mới chào đời. Số chúng sanh ra đời nói chung vẫn nhiều hơn số chúng sanh tạ thế gấp mười lần, trăm lần, ngàn lần và có thể cả vạn lần. Quý vị thử làm thống kê xem tại thành phố San Francisco hiện nay thì mức độ tử vong cao hơn hay sinh sản cao hơn?

Thường thì người ta phải chết là vì tuổi già sức yếu hoặc có bệnh hoạn, do đó trung bình thì con người sống cũng được chừng vài chục năm; trong khi đó, hầu như chỉ sau mười tháng hoài thai là có thêm người được sinh ra, cho nên dân số gia tăng rất nhanh, và xác suất sinh sản có thể cao hơn xác suất tử vong đến hằng ngàn, hằng vạn lần. Chính vì thế mà cho đến bây giờ Ðịa Tạng Bồ Tát vẫn còn vất vả, bận rộn, và vẫn chưa thể thành Phật được.

Thế nhưng, quý vị nghĩ rằng Ðịa Tạng Bồ Tát có hối hận về thệ nguyện của mình hay không? Ðương nhiên là Ngài không hối hận! Chúng sanh càng đông đúc thì Ngài càng có nhiều công việc để bận rộn; nếu không có chúng sanh thì Ngài không có việc làm và đã thành Phật từ lâu rồi-mà thành Phật rồi thì chẳng còn việc gì để làm nữa cả! Cho nên, đây là Ðịa Tạng Vương Bồ Tát "không có việc thì kiếm việc mà làm"! Lẽ ra thì Ngài có thể sống rất thanh nhàn, rảnh rỗi, song Ngài lại thích suốt ngày lăng xăng bận rộn đi cứu độ chúng sanh, bởi đó chính là hạnh nguyện của Ngài vậy. 

Tại sao Ðịa Tạng Vương Bồ Tát lại lập thệ nguyện lớn lao này? Bởi vì Ngài nhận thấy rằng Ngài và chúng sanh vốn đồng một thể-nếu chúng sanh chưa thành Phật thì Ngài thành Phật cũng chẳng có ý nghĩa gì, vì thế Ngài tự nguyện chờ đợi chúng sanh, gìn giữ thứ nhân duyên "vĩnh viễn đồng thể" với chúng sanh. Nguyện lực của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thì không cách nào đo lường hoặc hiểu rõ được. Những gì chúng ta nói ra được thì chỉ là một phần hết sức nhỏ, bởi thật ra, nguyện lực của Ngài vốn không thể suy lường hay luận bàn đến được.

 

"Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào nghe thấy danh tự của Bồ Tát đó-Ðịa Tạng Vương Bồ Tát-rồi hoặc tán thán..." Sau khi được nghe giảng, nếu có cơ hội thì quý vị nên giới thiệu nguyện lực từ bi của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát cho các bạn đồng nghiệp hoặc thân bằng quyến thuộc của mình được biết. Ðồng thời, quý vị cũng nên tự hỏi chính mình: "Ðịa Tạng Vương Bồ Tát có thể lập thệ nguyện rộng lớn như thế, còn mình thì sao? Mình có nên lập một thệ nguyện nho nhỏ chăng? Chẳng hạn nguyện là mình sẽ hóa độ cho một chúng sanh thành Phật rồi mình mới thành Phật? Hoặc là hóa độ cho hai chúng sanh thành Phật rồi mình mới thành Phật?"



Quý vị không lập nguyện lớn mà chỉ lập nguyện nhỏ thôi cũng được, như thế cũng là không uổng công nghe giảng Kinh Ðịa Tạng. Nếu quý vị nghe rồi bỏ qua, cho rằng Bồ Tát là Bồ Tát, còn mình là mình, Bồ Tát và mình chẳng có liên quan gì với nhau cả; như thế tức là nghe rồi mà cũng như là chưa nghe vậy!

Thí dụ, người nam có thể phát nguyện rằng: "Trước kia tôi có một người bạn gái, phen này nếu tôi thành Phật thì tôi nhất định sẽ độ cho cô ta cũng được thành Phật." Thế còn người nữ thì sao? Người nữ cũng có thể lập nguyện rằng: "Trước kia tôi có quen một người bạn trai, người này đối với tôi rất tương thân tương ái. Nay tôi muốn tu hành, nên tôi nguyện sẽ độ cho anh ta thành Phật, rồi tôi mới thành Phật." Quý vị nên lập những thệ nguyện đại loại như thế; chứ không nên có khuynh hướng: 

 “Di Đà Phật, thân ai nấy lo, 

Ma Ha Tát, chẳng màng người khác.” 

(Di Đà Phật các cố các, 

Ma Ha Tát bất quản tha!) 

Có người nói rằng: "Tôi còn nhỏ nên chưa có bạn trai, cũng chưa có bạn gái!" Nếu thế thì hãy nghĩ tới cha mẹ của mình và phát nguyện độ cho họ thành Phật. Trường hợp cha mẹ của quý vị đã qua đời rồi thì sao? Thì quý vị hãy nghĩ tới anh chị em của mình. Nếu không có anh chị em gì cả thì sao? Thì quý vị hãy nghĩ tới bạn bè, hàng xóm láng giềng. Quý vị chọn người nào làm mục tiêu cứu độ của mình cũng đều được cả. Nếu vẫn không nghĩ ra được một người nào cả thì quý vị có thể nguyện rằng: "Tôi có một vị sư huynh đệ, tôi nhất định độ cho vị ấy được thành Phật."

Bản thân tôi cũng từng lập nguyện rằng trong số những người đã quy y với tôi, nếu có một người chưa thành Phật thì tôi cũng chưa thành Phật. Tuy nhiên, vì tôi không có được nguyện lực lớn lao như Ðịa Tạng Vương Bồ Tát để có thể độ cho tất cả chúng sanh đều thành Phật, do đó tôi có đặt điều kiện-phải là đệ tử quy y và phải thật tâm tin tưởng nơi tôi thì tôi mới chờ đợi. Nếu người ấy bị đọa địa ngục, tôi sẽ vào địa ngục để tìm và cứu người ấy ra. 

Giả sử về đời sau, có người tấm tắc ngợi khen rằng Ðịa Tạng Vương Bồ Tát có nguyện lực không thể nghĩ bàn, thần thông không thể nghĩ bàn và lòng từ bi cũng không thể nghĩ bàn; đồng thời giới thiệu cho mọi người biết về Ngài, và "hoặc chiêm lễ, hoặc xưng niệm danh hiệu ‘Nam Mô Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát’..."

"Chiêm" là dùng mắt để nhìn ngắm; "lễ" là lễ bái, vái lạy. Khi chúng ta quỳ lạy trước tượng Phật, tức là chúng ta đang "chiêm lễ" Phật. Chúng ta hiện đang giảng Kinh Ðịa Tạng, tôi nói Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thật là bất khả tư nghì; thì đó là "tán thán," khen ngợi. Trong lúc chiêm ngưỡng và đảnh lễ, chúng ta niệm "Nam Mô Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát"; thì đó gọi là "xưng niệm danh hiệu." 

 "Hoặc cúng dường." Chúng ta đã cung thỉnh tượng Ðịa Tạng Vương Bồ Tát về giảng đường này, và bây giờ mọi người ngày ngày thắp hương, lễ lạy, dâng cúng hoa quả... trước tôn tượng; như thế gọi là "cúng dường." 

 "Cho đến tô vẽ, chạm khắc, tạc đúc, sơn thếp hình tượng của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát..." Ðừng nói tới dùng gỗ, chỉ cần dùng màu sắc để tô vẽ một bức hình của Bồ Tát Ðịa Tạng cũng là rất đáng quý.

Người nào vẽ được một bức tranh Phật thì tướng mạo của người đó sẽ trở nên trang nghiêm, viên mãn thêm một chút. Ðức Phật có ba mươi hai tướng tốt cùng tám mươi vẻ đẹp-nếu quý vị vẽ một bức hình Phật thì tướng mạo của quý vị sẽ tốt đẹp hơn một chút, vẽ hai bức thì tướng mạo lại đẹp lên một chút nữa; vẽ ba bức, bốn bức, năm bức..., thậm chí cả trăm ngàn vạn ức bức tranh Phật, thì quý vị cũng sẽ có được ba mươi hai tướng tốt cùng tám mươi vẻ đẹp như Phật vậy. Nói tóm lại, nếu quý vị tô vẽ hình Phật, tạc tượng Phật, đắp tượng Phật, thì tướng mạo của quý vị sẽ được đẹp đẽ hơn.

"Chạm khắc" tức là dùng dao để đẽo gọt và chạm trổ trên gỗ, làm thành tượng Phật hoặc Bồ Tát.  

"Thì người đó sẽ được một trăm lần sanh lên cõi trời Tam Thập Tam." Nếu quý vị tô vẽ tranh ảnh Phật, điêu khắc từ gỗ tốt hoặc tạc từ đá quý thành hình tượng Phật, hoặc là dùng sơn keo để tô đắp và sơn thếp tượng Phật, thì sẽ được sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba một trăm lần. "Một trăm lần" này không phải chỉ ở cõi trời Ba Mươi Ba, mà trước tiên là sanh lên sáu tầng trời Dục Giới, mười tám tầng trời Sắc Giới-tức là ba tầng trời Sơ Thiền, ba tầng trời Nhị Thiền, ba tầng trời Tam Thiền và chín tầng trời Tứ Thiền-và luôn cả các tầng trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ở Vô Sắc Giới. Cứ ở mỗi cõi giới-Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới-quý vị sẽ được tái sanh một trăm lần, sau đó sanh về cõi trời Ba Mươi Ba một trăm lần nữa. Quãng thời gian này vô cùng lâu dài.  

"Vĩnh viễn chẳng còn bị đọa vào ác đạo." Nếu quý vị thành tâm tán thán, chiêm ngưỡng đảnh lễ, xưng niệm danh hiệu, cúng dường, hoặc tạc đúc các hình tượng của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, thì vĩnh viễn sẽ không bị đọa lạc vào đường ác nữa.

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bồ Tát Văn Thù: "Này Văn Thù Sư Lợi! Bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp lâu xa về trước, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát là con trai của một vị đại Trưởng Giả." Quãng thời gian "lâu xa" này không có cách nào để diễn tả cho đích xác được. Nếu lấy tất cả lúa, đay, tre, lau, núi, đá, bụi bặm,... cứ mỗi vật làm một sông Hằng, rồi mỗi hạt cát trong mỗi sông Hằng làm một cõi giới, mỗi hạt bụi trong mỗi cõi giới làm một kiếp... như tỷ dụ nói trên, thì làm sao có thể tính cho xuể được? So với việc tính toán các số liệu để có thể phóng hỏa tiễn lên tận mặt trăng thì tỷ dụ trên còn phức tạp và nan giải hơn nhiều. 

Hiện nay, con người phóng hỏa tiễn vào không gian được là nhờ dùng số học để tính toán tốc lực, định phương hướng, cũng như suy luận xem làm thế nào để có thể ngừng lại hoặc đáp xuống, khi lọt vào quỹ đạo không gian thì phải di chuyển ra sao... Công việc này đòi hỏi bao nhiêu hỏa lực để đạt được, tất cả đều căn cứ vào toán học để tính toán. Sau khi tính ra được những số liệu chuẩn xác rồi thì người ta mới có thể phóng hỏa tiễn vào tầng khí quyển. Tuy nhiên, những số liệu này còn có thể tính ra được, duy có số kiếp tu hành lâu dài của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thì chúng ta không thể nào tính được. Cho dù môn số học có tiến cao hơn nữa, khoa học có tinh vi hơn nữa, cũng chẳng có cách nào tính toán ra cả.  

"Thuở đó, trong đời có đức Phật hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai."

Sư tử là chúa tể của loài thú. Hễ sư tử gầm lên một tiếng thì núi rừng rúng động, muôn thú đều đinh tai nhức óc và đều khiếp sợ đến nỗi chạy không được, đứng cũng không vững, toàn thân bủn rủn, thậm chí còn ngã lăn ra đất. 

"Phấn" tức là hưng phấn, hăng hái; "tấn" có nghĩa là nhanh chóng, mau lẹ; biểu thị sư tử chạy nhanh vô cùng. Do đó, "sư tử phấn tấn" hàm ý dõng mãnh, tinh tấn, nhanh nhẹn.

"Cụ túc vạn hạnh" là chỉ Ðức Phật có đủ Lục Ðộ Vạn Hạnh.

Vậy, lúc Ðịa Tạng Vương Bồ Tát là con trai của một vị đại Trưởng Giả, thì có Ðức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh đang trụ thế.    

Kinh văn:

"Lúc bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả thấy Ðức Phật tướng mạo tốt đẹp, ngàn phước trang nghiêm, bèn bạch hỏi Ðức Phật đó tu hạnh nguyện gì mà được tướng mạo như thế.

Khi ấy, Ðức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo con trai vị Trưởng Giả rằng: ‘Muốn chứng được thân tướng này, cần phải lâu đời độ thoát tất cả những chúng sanh bị khốn khổ.’" 

Lược giảng:

"Lúc bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả thấy Ðức Phật tướng mạo tốt đẹp, ngàn phước trang nghiêm..."

Nhờ đâu mà Ðức Phật có được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp? Nhờ có "ngàn phước trang nghiêm." Thế nào gọi là "ngàn phước"? Chúng ta trì Ngũ Giới, hành Thập Thiện thì được một trăm phước; rồi cứ mỗi số mục lại biến thành mười nên thành ra một ngàn; đó gọi là "một thiện, một phước." Tập trung lại thì thành một ngàn phước, đây chính là "ngàn phước trang nghiêm."

Ðương thời, con trai ông Trưởng Giả thấy Ðức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ngàn phước trang nghiêm, tướng mạo vô cùng viên mãn, vi diệu, "bèn bạch hỏi Ðức Phật đó tu hạnh nguyện gì mà được tướng mạo như thế." Trưởng Giả tử thỉnh vấn Ðức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai rằng: "Bạch Ðức Như Lai! Chẳng hay Ngài đời trước nhờ tu pháp môn gì, lập thệ nguyện gì mà nay có được tướng tốt viên mãn, hoàn hảo như thế?" 

"Khi ấy, Ðức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo con trai vị Trưởng Giả rằng: ‘Muốn chứng được thân tướng này, cần phải lâu đời độ thoát tất cả những chúng sanh bị khốn khổ! Ông muốn có được thân tướng giống như Ta ư? Vậy thì Ta sẽ nói cho ông rõ: Ông cần phải trải qua thời gian rất lâu và rất dài để cứu vớt cho hết tất cả những chúng sanh đang chịu cảnh trầm luân khổ sở. Các chúng sanh ấy được xa lìa khổ não thì ông được tướng mạo viên mãn. Như thế có nghĩa là ông độ cho chúng sanh thành Phật, thì bản thân ông cũng được thành Phật.’"

 

Kinh văn:



"Này Văn Thù Sư Lợi! Bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả nhân đó liền phát nguyện rằng: ‘Từ nay cho đến tận vị lai kiếp chẳng thể tính đếm về sau, tôi sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo mà quảng thiết nhiều phương tiện, làm cho họ được giải thoát tất cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo.’

Bởi đã ở trước Ðức Phật đó mà lập đại nguyện như thế, nên đến nay đã trăm ngàn vạn ức na-do-tha không thể nói hết số kiếp, mà vẫn còn làm vị Bồ Tát." 

Lược giảng:

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi Bồ Tát Văn Thù: "Này Văn Thù Sư Lợi! Bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả nhân đó liền phát nguyện rằng: ‘Từ nay cho đến tận vị lai kiếp chẳng thể tính đếm về sau ...’"

"Tận vị lai kiếp" tức là chỉ cho vô số vô lượng kiếp về sau, tận cùng của số kiếp trong đời vị lai, đến hết kiếp vị lai. Kiếp vị lai vì sao lại có thể hết được? Kiếp vị lai vốn chẳng thể hết hay cùng tận được; song ở đây nói "hết" là ám chỉ quãng thời gian dài bất tận, lâu dài đến nỗi không thể nào tính xuể là bao nhiêu kiếp.

Sau khi được nghe Ðức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai giải thích xong, con trai ông Trưởng Giả bèn phát tâm lập nguyện rằng: "Kể từ bây giờ cho đến tột số kiếp chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo mà quảng thiết nhiều phương tiện..." Bởi chúng sanh ở thế giới Ta Bà cử tâm động niệm không chi là không tội, không chi là không nghiệp, cho nên họ được mệnh danh là "những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo." 

"Lục Ðạo" tức là sáu nẻo đường-Trời, Người, A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh.

"Quảng" là rộng rãi; "thiết" là thiết lập, đặt ra. Vậy, "quảng thiết nhiều phương tiện" tức là tùy nghi mà đặt ra vô số pháp môn phương tiện, chứ chẳng phải chỉ có một mà thôi.

 

"‘Làm cho họ được giải thoát tất cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo.’" Trưởng Giả tử nguyện rằng đến khi nào mọi chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo đều lìa khổ được vui và đều thành Phật cả rồi, thì bấy giờ anh ta mới thành Phật; nếu còn sót một chúng sanh chưa thành Phật, thì vị Trưởng Giả tử này cũng sẽ chưa thành Phật!



Có câu:

”Nếu c̣n một kẻ chưa thành Phật, 

Tôi quyết không về cơi Nê Hoàn.” 

(Như nhất chúng sanh vị thành Phật, 

Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn.) 

(Kinh Lăng Nghiêm, quyển 3)

Nghĩa là giả sử còn một chúng sanh chưa thành Phật, thì tôi dứt khoát chưa vào Niết Bàn. ("Nê Hoàn" tức là Niết Bàn.)

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: "Này Văn Thù Sư Lợi! Ðịa Tạng Vương Bồ Tát bởi đã ở trước Ðức Phật đó mà lập đại nguyện như thế, nên đến nay đã trăm ngàn vạn ức na-do-tha bất khả thuyết kiếp, mà vẫn còn làm vị Bồ Tát."

"Na-do-tha" là một con số rất lớn của Ấn Ðộ. "Bất khả thuyết" cũng ám chỉ một con số lớn vô kể. Do đó, "na-do-tha bất khả thuyết kiếp" có nghĩa là số kiếp nhiều đến nỗi không thể nói hết. 

Trưởng Giả tử-tiền thân của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát-đã đối trước Ðức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai mà phát lời đại nguyện đó, và từ ấy đến nay đã trải qua quãng thời gian lâu dài tới cả trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp như thế, mà Ngài Ðịa Tạng vẫn còn làm vị Bồ Tát, chứ chưa thành Phật.

 

Kinh văn:



            "Lại không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp về trước, thuở đó trong đời có đức Phật hiệu là Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai; thọ mạng của Ðức Phật ấy là bốn trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp."

 

Lược giảng:



            Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni kể tiếp: "Lại bất khả tư nghị a-tăng-kỳ kiếp về trước..." "A-tăng-kỳ kiếp" là số kiếp nhiều đến nỗi không thể suy đoán, không thể luận bàn được; và ở đây không chỉ nói tới ba đại a-tăng-kỳ kiếp, mà là "bất khả tư nghị a-tăng-kỳ kiếp"—quãng thời gian này càng lâu càng dài hơn nữa. 

            "Thuở đó, trong đời có đức Phật hiệu là Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai." 

"Giác Hoa" là nhân, "Tự Tại Vương" là quả. "Giác Hoa" là gốc, "Ðịnh Tự Tại Vương" là ngọn. Như thế, Ðức Phật này nhờ ở nhân địa đã tu "Giác Hoa" nên chứng được quả "Tự Tại Vương." Ngài dùng cái gì để tu "Giác Hoa"? Ngài dùng "Ðịnh" để tu. Do đâu mà Ngài thành tựu được quả "Tự Tại Vương"? Cũng là do tu "Ðịnh" mà thành. Ðó gọi là "Ðịnh nhân, Ðịnh quả"—nhân là Ðịnh, mà quả cũng là Ðịnh. Bởi do tu Ðịnh nhân mà kết thành Ðịnh quả, cho nên Ðức Phật này có danh hiệu là "Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai." Trong đó, "Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương" là danh hiệu riêng của Ngài, và "Như Lai" là danh hiệu chung của chư Phật—danh hiệu của Phật cũng có chung có riêng như thế.

            "Thọ mạng của Ðức Phật ấy là bốn trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp." "Thọ" là tuổi thọ, sự lâu dài; "mạng" là sanh mạng, mạng sống. Theo Kinh Pháp Hoa thì Ðức Phật có ba thân:

            1) Pháp Thân. Pháp Thân Chân Như của Ðức Phật vốn không tách rời các pháp. Chân Như của Pháp Thân cùng chư pháp không mảy may ngăn cách; đó gọi là "thọ." Ở đây lấy lý Như Như làm "mạng" của Pháp Thân. Ðiều này thật không phải dễ giải thích! Lý Như Như là gì? Ðó chính là đạo lý căn bản xưa nay, là sanh mạng của Phật, và cũng chính là Pháp Thân.

            2) Báo Thân. Còn Báo Thân thì sao? Thì lấy Thật Tướng Trí Huệ làm "mạng." "Cảnh, trí tương ưng"—"cảnh" là "trí," "trí" cũng là "cảnh"—cảnh giới của Phật chính là trí huệ, trí huệ cũng là cảnh giới. 

            Ðức Phật dùng trí huệ chiếu soi tất cả các cảnh giới, đó gọi là "cảnh, trí tương ưng" (cảnh giới và trí huệ hỗ tương tương ứng), và cũng là "cảnh, trí bất nhị" (cảnh giới và trí huệ chẳng phải hai). Ðó cũng là hễ cảnh giới đến lúc nào thì chiếu soi lúc đó; soi chiếu tới đâu thì liễu ngộ tới đó. Cảnh giới nào xảy đến thì Ðức Phật cũng đều nhận biết, đều hiểu rõ; chứ không bị cảnh giới làm chướng ngại mà không nhận rõ được nó. 

            Tuy cảnh giới và trí huệ vốn là hai, nhưng rốt ráo cũng biến thành một. Báo Thân lấy đạo lý này làm "thọ," lấy trí huệ làm "mạng." Ðây là nói về thọ mạng của Báo Thân Phật.

            3) Ứng Thân. Ứng Thân còn được gọi là Ứng Hóa Thân. "Hóa" chính là Ứng Thân. Ứng Thân lấy kỳ hạn một trăm năm không gián đoạn làm "thọ"—sống đến một trăm tuổi tức là "thọ" vậy. Ứng Hóa Thân, Hóa Thân, hoặc Ứng Thân, lấy nhân duyên trong một đời này làm "mạng." 

Trên đây là nói về Tam Thân (ba thân) căn cứ theo Kinh Pháp Hoa. Tuy nhiên, trong Kinh Thập Lục Quán thì lại giảng cách khác; khác như thế nào? Trong kinh này có chép rằng: "Ứng Thân thị đồng sanh diệt"; nghĩa là sự thị hiện của Ứng Thân cũng có sanh có diệt. Phật có ra đời thì cũng có nhập Niết Bàn—đó gọi là "đồng sanh diệt." Vậy, "thị đồng sanh diệt" tức là sự thị hiện "hữu thủy hữu chung," có khởi đầu và cũng có kết thúc—và đó chính là thọ mạng của Ứng Thân Phật.

Thế còn Báo Thân thì sao? Báo Thân này một khi đã chứng đắc được rồi thì vĩnh viễn thường còn.Hễ có được Báo Thân của Phật thì mãi mãi được sở hữu thân ấy—đây gọi là "hữu thủy vô chung," có khởi đầu mà không có kết thúc; và đó chính là thọ mạng của Báo Thân Phật.

Còn thọ mạng của Pháp Thân thì như thế nào? Thì "phi thọ, phi bất thọ." Quý vị nói rằng Pháp Thân này thọ, tồn tại lâu dài ư? Cũng chẳng được lâu dài lắm! Thế thì Pháp Thân này không thọ, không lâu dài sao? Cũng lâu dài lắm chứ! "Chẳng thọ," song "chẳng phải là không thọ"—đó là thọ mạng của Pháp Thân Phật. Chính vì không thể nói được Pháp Thân của Phật sống thọ được bao nhiêu lâu, cho nên nói là "phi thọ" (chẳng thọ); lại vì tuổi thọ của Pháp Thân ấy cũng không phải là ngắn ngủi cho nên nói "phi bất thọ" (chẳng phải không thọ). 

"Phi thọ phi bất thọ, vô thủy vô chung" (không có sự khởi đầu, cũng chẳng có sự kết thúc)—đó là thọ mạng của PhápThân Phật. 

Như vậy, trong kinh nói rằng thọ mạng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai là bốn trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp, là chỉ cho thứ thọ mạng nào? Ðó là thọ mạng của Báo Thân Phật và Ứng Thân Phật.  

Kinh văn:

            "Trong thời Tượng Pháp, có một người con gái dòng Bà La Môn nhiều đời tích phước sâu dày, được mọi người kính nể, đi đứng nằm ngồi đều được chư Thiên theo hộ vệ; song bà mẹ lại tin theo tà đạo, thường khinh chê ngôi Tam Bảo. 

            Thuở ấy, Thánh Nữ lập nhiều phương tiện để khuyến dụ mẹ, hầu làm cho bà sanh chánh kiến, nhưng bà chưa tin hẳn; và chẳng bao lâu thì bà mệnh chung, thần hồn bị đọa vào địa ngục Vô Gián.

            Lúc đó, Thánh Nữ Bà La Môn biết rằng bà mẹ khi còn sống không tin nhân quả, ắt phải theo nghiệp mà sanh vào đường ác, bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương, hoa, cùng những đồ lễ cúng, rồi đem đến chùa tháp thờ tiên Phật mà làm đại lễ cúng dường."  

Lược giảng:

            "Trong thời Tượng Pháp." Phật Pháp của mỗi đức Phật đều gồm có ba thời kỳ là Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp.  

            Vào thời kỳ Chánh Pháp, các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, đều thành tâm tu Ðạo và chứng đắc quả vị (cho nên gọi là thời Chánh Pháp!)

            Còn thời kỳ Tượng Pháp thì thế nào? Trong thời Tượng Pháp thì người thật tâm tu hành rất ít, đa số chỉ là dụng công ngoài mặt mà thôi. Ðây là thời kỳ "tự miếu kiên cố"—mọi người đều thích làm việc công đức như xây chùa cất tháp, dựng am lập miếu, kiến tạo những chùa tháp tôn nghiêm để thờ Phật. Con người trong thời kỳ này chỉ muốn cầu phước chứ không cầu trí huệ. Ðó là thời kỳ Tượng Pháp—"tự miếu kiên cố," mạnh về mặt xây dựng chùa chiền.

            Thời kỳ Chánh Pháp kéo dài một ngàn năm, thời kỳ Tượng Pháp cũng một ngàn năm, còn thời kỳ Mạt Pháp thì một vạn năm. Chúng ta hiện nay đang ở vào thời kỳ Mạt Pháp. Con người thời Mạt Pháp thì "đấu tranh kiên cố"—mạnh về mặt đấu tranh, hiếu chiến.

            Vậy, trong thời Tượng Pháp sau khi Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai nhập Niết Bàn, "có một người con gái dòng Bà La Môn..."

            Bà La Môn là một phái ngoại đạo của Ấn Ðộ. Người theo phái ngoại đạo này tu hạnh thanh tịnh—họ chủ trương ăn chay, không ăn thịt, cũng giảng về việc tu Ðạo, không có hành vi nam nữ bất tịnh— cho nên còn gọi là "Tịnh Duệ." "Tịnh" tức là hạnh thanh tịnh, trong sạch. "Thanh tịnh" là không có hành vi bất tịnh giữa nam nữ, nếu phạm tức là không thanh tịnh. 

            Dòng Bà La Môn này tuy cũng tu pháp môn "viễn ly," song tu tới tu lui vẫn không đến được chỗ cốt tủy, không đạt được đạo lý rốt ráo. Ðây là một giáo phái có tự ngàn xưa của nước Ấn Ðộ; và cho đến hiện nay, tại Ấn Ðộ vẫn còn rất nhiều loại giáo phái như thế. Ðiển hình là phái Du Già, một giáo phái thoát thai từ đạo Bà La Môn. Ðối với người Trung Hoa thì đạo Bà La Môn chính là Ðạo Giáo (đạo Lão), một giáo phái cũng chủ trương tu hạnh thanh tịnh.

            "Nhiều đời tích phước sâu dày." Vào thời Tượng Pháp của Ðức Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, có một người con gái thuộc dòng Bà La Môn mà trong những đời trước đã từng làm rất nhiều việc tốt, tạo được rất nhiều công đức; cho nên đời này cô ta được hưởng rất nhiều phước báo, và "được mọi người kính nể." Mỗi khi gặp cô gái Bà La Môn này, mọi người đều tỏ ra khâm ngưỡng, kính trọng. Vì sao mọi người đều ngưỡng mộ, kính nể cô ta như vậy? Ðó là phước báo do đời trước cô ta đã từng làm nhiều việc công đức. Cho nên, tướng mạo con người xấu hay đẹp là tùy thuộc vào công đức mà họ đã tạo được trong đời quá khứ. Nếu trong đời trước quý vị có tạo được công đức thì đời này tướng mạo của quý vị sẽ viên mãn, hoàn hảo. Còn nếu không tạo được công đức thì thế nào? Thì tướng mạo sẽ không được viên mãn—không viên mãn tức là xấu xí vậy!

            Ðức Phật có ba mươi hai tướng hảo, tám mươi vẻ đẹp—đó là "ngàn phước trang nghiêm." Thế nào gọi là "ngàn phước"? Cứ làm một ngàn việc thiện thì được "một phước." Vậy, quý vị phải hoàn tất một ngàn việc thiện thì mới có được "một phước," thế thì nếu làm mười ngàn việc thiện tức là được "mười phước," làm một trăm ngàn việc thiện tức là được "một trăm phước," và làm một triệu việc thiện thì được "một ngàn phước." Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni do dùng "ngàn phước trang nghiêm" nên mới có được ba mươi hai tướng tốt cùng tám mươi vẻ đẹp. Tướng mạo của chúng ta trong đời này là tùy thuộc vào nhân duyên của đời trước; do đó có người sinh ra thì xinh xắn đẹp đẽ, song cũng có người lại xấu xí khó coi.



tải về 2.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   32




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương