Đinh Tấn Thành



tải về 1.41 Mb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu19.04.2018
Kích1.41 Mb.
#36960
1   2   3   4

PHẢI CHỌN MỘT CON ĐƯỜNG

Gần bước sang năm Ất Mùi, nhân danh đấng tạo hóa Cao Đài bất diệt Bần Đạo gởi cùng toàn thể nhân loại bức thông điệp này để thiết tha kêu gọi những vị cầm quyền chánh phủ, lãnh đạo các dân tộc, nhận định nhiệm vụ một cách khôn khéo hơn. Bao giờ cũng vây, nhân loại cố kiếm một con đường để tạo một đời sống hòa bình, hạnh phúc, mà không đạt được như ý muốn, chỉ vì không biết nghe theo mênh trời… Ngày nay nhân loại đang trải qua môt cơn khủng hoảng tinh thần ghê gớm mà vẫn còn phải hỏi đâu là con đường sống? Ở trên thế gian này không có chi là bất di bất dịch cả. Theo luât trời mọi việc đều tiến triển. Lẽ dĩ nhiên xã hội loài người cũng phải theo định luât ấy.



"Hai chủ thuyết đang đối chọi nhau:"

Thuyết thứ nhất mệnh danh là Dân Chủ thì tán dương sự Quốc Gia tương trợ và tôn trọng giá trị con người, càng bảo tồn cái gì hay và đẹp. Thuyết ấy cao cả biết bao, nhưng lại thiếu thành thật mà những điều khoản ghi trong tập nhân quyền đã được Liên Hiệp Quốc tán dương gần đây vẫn chưa thực hiện.

Thuyết thứ hai mệnh danh là Cộng Sản, xúi giục giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản, chủ trương tiêu diệt, những việc bất công xã hội, và hứa hẹn quân phân lại tài sản, nhưng vì có tính vô thần và độc tài, nên đã trở thành qúa khắc khe.

Nay 2 bên Cộng Sản và Tư Bản đã thực hiện tranh chấp, vì 2 Chủ thuyết đều hứa hẹn tạo cho nhân loại một đời sống tốt hơn xưa, có một điều mà chúng ta nhận xét thấy rõ rệt là cả hai không đạt tới đích xác hòa bình và hạnh phúc. Trái lại nhân loại vẫn cứ bị phân hóa, vì cuộc xung đột vẫn kéo dài không lối thoát, cả nhân loại đều lo lắng hỏi rằng: Thế giới sẽ đi đến đâu. Khi cả hai khối đều chuẩn bị những chiến cụ có sức phá hoại mãnh liệt, nếu không phải đi đến chỗ diệt vong? Sự cộng tồn được đem ra thí nghiệm ở các nước Á Châu như Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam không được như ý muốn, mà chỉ tạo được một nền hoà bình phù phiếm làm cho tình hình thế giới thêm căng thẳng, và các nước nói trên phải chịu gian khổ nhiều nhất. Do đó tất cả trách nhiệm đều trút vào những ông cầm đầu các Chánh Phủ lãnh đạo quần chúng nếu các ông cứ tiếp tục dẫn dắt nhân loại đến cảnh diệt vong, vậy thì mọi người chúng ta phải nghe theo tiếng gọi của đấng thiêng liêng, ấp ủ ở bản thân ta, và nên hiểu rằng: chỉ có lòng yêu thương trong bác ái, đoàn kết trong hòa khí và công bằng mới có thể có hòa bình và hạnh phúc.



Bần đạo xin ngõ lời cùng nhân dân Pháp và đồng bào Việt Nam vốn có những liên hệ trực tiếp với nhau. Đối với người Pháp, Bần Đạo có thể nói và tuyên bố trước thế giới rằng: "Trong 80 năm chung sống, hai dân tộc Pháp và Việt Nam đã từng trải qua nhiều nỗi thống khổ trong 2 cuộc chiến 1914-1918 và 1939-1945. Hỏi các người Pháp! Các ông chắc cũng hiểu hơn ai hết, dân tộc Việt Nam với nền văn minh cố cựu cương quyết theo đuổi nguyện vọng được độc lập của họ, các ông hẳn không lạ gì người Việt Nam, có một đức tính không biết phụ bạc, và biết phân biệt bạn và thù. Các ông không thể phủ nhận một đức tính sẵn có của nhân dân Việt Nam. Các ông có đủ tư cách để chứng tỏ rằng trong giờ phút này, sau khi hủy bỏ nền thống trị của các ông, nước Việt Nam cũng không công nhận một uy quyền nào khác thay thế. Trước, sau như một, người dân Việt Nam luôn thiết tha một nguyện vọng là: được quyền tự định đoạt lấy số phận mình. Đồng thời, các ông có thể tuyên bố với: ... Trước hết với dân tộc Mỹ vốn có thiện chí tỏ tình giúp đỡ Việt Nam, rằng các dân tộc vẫn được coi như... nhưng phải coi chừng, đừng phạm vào những lầm lỗi đã đi từ chánh sách thực dân đến chánh sách can thiệp, bất cứ dưới hình thức nào trong công việc riêng của Việt Nam để tránh khỏi phải chịu hậu qủa về cuộc thí nghiệm của họ.

Đối với nhân dân Việt Nam và riêng đối với các vị lãnh đạo Miền Nam cũng như Miền Bắc, Bần đạo xin các ông cống hiến cho nhân loại ở trong tình trạng nguy vong, một tấm gương sáng lạng về sự đoàn kết vì mọi người đều biết rằng đoàn kết là sống. Trong những giờ phút này trách nhiệm của các ông thật nặng nề, nếu các ông cứ cố chấp theo đuổi một cuộc đấu tranh lý tưởng quốc tế đầy dẫy những dục vọng và phe đảng thì các ông sẽ là những người có tội với tổ quốc và nhân dân Việt Nam.

Các ông không thể quên rằng hạnh phúc của dân tộc Việt Nam là kết tinh của tình đoàn kết và tình thương yêu, hoà khí và công bằng. Đó là lý tưởng quốc gia mà tổ tiên từ ngàn xưa lưu truyền lại chớ không phải là sản phẩm của cuộc đấu tranh chánh trị và bè phái. Phải nên mạnh bạo và thẳng thắng, như thế thì các ông sẽ được toàn dân ủng hộ. Người Việt Nam phải đau khổ ê chề, vì sự chia rẽ nội bộ và cuộc tuyền cử riêng rẽ do 2 chánh phủ đối lập tổ chức, không thể nào tránh khỏi được những dục vọng bè phái.

Các ông cầm đầu chánh phủ Miền Bắc và Miền Nam, các ông còn ngại gì mà không nêu gương đoàn kết, thành lập một chánh phủ lâm thời duy nhất, thoát ly khỏi ảnh hưởng ngoại quốc, với sự tham dự của các phần tử thuộc mọi khuynh hướng chánh trị, Tôn Giáo hầu tiến tới cuộc tổng tuyền cử Toàn Quốc Việt Nam. Toàn dân sẽ ghi công các ông. Do đó bằng tấm gương qúi báo ấy, các ông sẽ là những người được tiếng là đã cứu vãn nước Việt Nam trước hết và sau là toàn cả thế giới.

Trước khi ngừng bút, Bần Đạo xin thành khần cầu nguyện Chí Tôn Cao Đài của chúng ta, để cho nhân loại sang năm mới sẽ thoát qua giấc triền miên, hướng thẳng vào ánh hào quang chói lọi và chân lý của Thượng Đế đặng lựa chọn lấy con đường hạnh phúc. Cuộc đấu tranh để sinh tồn sẽ đưa đến cuộc binh đao, gây nên khổ nảo, tàn phế và chết chóc. Trái lại sự hổ tương để sinh tồn bằng cách thương yêu trong tình huynh đệ, đoàn kết trước hòa khí và công bằng, đó là điều kiện tạo nên sự hợp tác hòa bình, sáng tạo hạnh phúc và tự do. Mỗi người chúng ta đều có thể tự do Chọn Lấy Một Con Đường"

Người tín hữu Cao Đài làm sao quên được vụ án cựu Trung Tướng Trần Quang Vinh, nguyên Tổng Tư Lệnh quân đội Cao Đài, nguyên Tổng Trưởng Quốc Phòng Chánh Phủ Miền Nam, đã bị quân đội liên minh của Thiếu Tướng Trình Minh Thế chận đường bắt cóc, đốt xe, lên án tử hình và bắt đưa về giam ở núi Bà Đen (Tây Ninh). Đức Hộ Pháp liền chỉ định Thừa Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn vào mật khu của Quân đội Liên Minh trên núi Bà Đen để "phản điều tra" vụ án Trần Quang Vinh (Cố vấn hành chánh đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh). Được mật lịnh của đức Hộ Pháp, Thánh Vệ Trưởng Tòa Thánh Tây Ninh chuẩn bị cho một phái đoàn Cơ Thánh Vệ hộ tống đưa Thừa Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn vào mật khu của quân đội Liên Minh trên núi Bà Đen để phản điều tra vụ án Trần Quang Vinh, cùng đi có Luật sư Phan Thanh Liêm (em ruột Thừa Sử Phước) lên đường tại Hòa Viện Tòa Thánh Tây Ninh, trực chỉ vào chân núi Bà.

Thiếu Tướng Trình Minh Thế cho lệnh Thiếu Tá Đòn hướng dẫn một tiểu đoàn Liên Minh túc trực tại chân núi Bà tiếp đón phái đoàn chức sắc của Hội Thánh vào chiến khu để phản điều tra vụ án ông Trần Quang Vinh. Đoàn hộ tống của Cơ Thánh Vệ thấy được khẩu hiệu của quân đội Liên Minh ở chân núi Bà chờ đợi. Đôi bên giao lãnh cùng nhau, và Thiếu Tá Đòn mời Thừa Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn lên đường về tư lệnh bộ hội kiến với Thiếu Tướng Trình Minh Thế. Mãi đến 16 giờ phái đoàn mới đến chót núi Bà Đen thì được Thiếu Tướng Trình Minh Thế và các Sĩ Quan trong bộ Tham Mưu ân cần tiếp đón, cùng trao đổi thân mật. Phái đoàn phản điều tra vụ án phải tạm nghỉ nơi tư lệnh bộ 2 ngày đêm mới gặp ông Trần Quang Vinh, do Trung Úy Trưởng, sĩ Quan bổn bộ áp giải đến một hang đá rất kiên cố và rộng rãi. Sau này mới được biết là nơi trú ẩn đặt biệt của Thiếu Tướng Trình Minh Thế khi có cuộc oanh tạc, hoặc biến động. Sĩ Tải Lê Quang Tấn bắt đầu thẩm vấn, lấy khẩu cung ông Trần Quang Vinh, phản điều tra vụ án đã bị quân đội Liên Minh lên án tử hình. Tiếp nhận được phúc trình kết quả cuộc phản điều tra vụ án ông Trần Quang Vinh, đức Hộ Pháp chỉ thị cho Thiếu Tướng Trình Minh Thế phải đưa vụ án ra xét xử lại (trong 6 tháng bị giam giữ mới đưa ra xét xử).

Tuân lịnh đức Hộ Pháp một tòa án quân sự Liên Minh được thiết lập ngay tại chân núi Bà Đen, có mấy ngàn đồng bào và Tín Hữu đến tham dự rất đông đảo. Dịp này Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh đề cử Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đại diện cho Hội Thánh với tư cách biện hộ trong phiên tòa án quân sự xét xử vụ án ông Trần Quang Vinh. Được biết Ngài Bảo Đạo trước kia là một đốc phủ sứ thượng hạng, xuất thân trường luật tại Hà Nội, và là cựu tỉnh trưởng tỉnh Châu Đốc. Thật là một việc hi hửu, một chức sắc Hiệp Thiên Đài phải vào tận chân núi Bà để biện hộ cho một chức sắc Cửu Trùng Đài là Phối Sư Thượng Vinh Thanh. Trước những lời biện hộ vững chắc của Ngài Bảo Đạo suốt cả buổi sáng và buổi chiều, Tòa Án Quân Sự Liên Minh tuyên án: miễn truy tố, nhưng bắt buộc ông Trần Quang Vinh không được tham gia chánh trị nữa. Ông Phối Sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) sau 2 ngày làm thủ tục được tự do trở về Tòa Thánh Tây Ninh trình diện đức Hộ Pháp và trọng ân đức Ngài đã kịp thời cứu giúp để tiếp tục lập công với Hội Thánh. Một thời gian sau, Hội Thánh sắp xếp cho ông Thượng Vinh Thanh sang Pháp để điều trị bệnh sốt rét rừng.

Sau ngày Hiệp Định Génève kết 20-7-1954, lịnh ngưng bắn ban hành khắp cả Miền Nam Việt Nam, vào ngày 11-8-1954, quân đội Việt Minh tập họp vào 3 khu: Xuyên Mộc, Đồng Tháp Mười và Cà Mau đúng theo kế hoạch của hội nghị trung giá và Génève bắt đầu trao đổi tù binh tại Việt Trì, 3 sĩ quan Pháp được về trước nhất là: Trung Uý Boder, Jego và Morin bị bắt tại Cao Bằng.

Đức Hộ Pháp phán dạy: Thiếu Tướng Trình Minh Thế hãy hướng dẫn quân đội Liên Minh đến thay thế những căn cứ quân đội Việt Minh đã rút đi tập kết. Tuân theo lời đức Hộ Pháp quân đội Liên Minh đã đóng quân ở các tỉnh Miền Đông, đến Đồng Tháp Mười, và các tỉnh Miền Tây Nam Bộ, thì gặp phải sự đụng chạm với lực lượng Phật Giáo Hòa Hảo của Thiếu Tướng Lê Quang Vinh tức bộ đội của Ba Cụt tại tỉnh Châu Đốc, nhưng nhờ sự khéo léo tương nhượng và dàn xếp, nên đôi bên tránh được nổ súng với nhau.

Sau đó, Đại Tá Lansdale, cố vấn của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thân hành vào tận tư lệnh bộ quân đội liên minh tại núi bà Đen hội đàm cùng Thiếu Tướng Trình Minh Thế và thuyết phục ông Trình Minh Thế đem quân ra cộng tác với ông Ngô Đình Diệm, lãnh đạo chánh phủ Cộng Hòa Việt Nam. Đại tá Lansdale khôn khéo hứa hẹn, khiến ông Trình Minh Thế chấp nhận tiếp đón Bác Sĩ Chương, Tổng Trưởng bộ y tế chánh phủ Miền Nam vào thăm chiến khu Liên Minh để đặt điều kiện cho quân đội Liên Minh ra hợp tác với chánh quyền Ngô Đình Diệm. Trước ngày ra hợp tác với Thủ Tướng Diệm, Thiếu Tướng Trình Minh Thế hướng dẫn một số sĩ quan trong bộ tham mưu đến tận Trí Huệ Cung xin diện kiến đức Hộ Pháp, với trọng tâm thỉnh cầu đức Hộ Pháp đi SàiGòn làm chủ tọa buổi lễ quân đội Liên Minh ra hợp tác với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa. Đức Hộ Pháp phán dạy: "Bần Đạo không thể đi chứng kiến cái chết của các con! Các con không nghe lời Bần Đạo thì tự các con lo liệu!"

Buổi lễ tiếp nhận quân đội Liên Minh xáp nhập vào quân đội quốc gia được tổ chức tại SàiGòn rất trọng thể, và ông Trình Minh Thế được Thủ Tướng Diệm chánh thức gắng quân hàm Thiếu Tướng quân đội Quốc Gia Việt Nam trước sự hiện diện của Đại Sứ các nước, cùng các Tổng Trưởng trong nội các Chánh Phủ Ngô Đình Diệm đều có mặt.

Còn nhớ rõ, một hôm đức Hộ Pháp đến thăm các chức sắc thời quân tại văn phòng Hiệp Thiên Đài, đức Hộ Pháp ân cần luận đàm vói Qúi Ngài: Bảo Thế Lê Thiện Phước, Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, Hiến Pháp Trương Hữu Đức, Khai Đạo Phạm Tấn Đãi, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng v.v... và một số đông chức sắc Hiệp Thiên Đài gồm có Thừa sử, Truyền Trạng, Sĩ Tải, Luật Sư (trên 30 vị). Đức Hộ Pháp nói: "Thiếu Tướng Trình Minh Thế, nó lầm tưởng rằng nó đã đủ lông, đủ cánh rồi, nó có thể bay nhảy với đời, nhưng chánh trị nó còn qúa non kém, nhất định sẽ bị người ta hại chết! Nếu không các bạn cứ vanh 2 bàn tay của bần đạo". Đức Hộ Pháp vừa nói vừa đưa 2 bàn tay lên trước mặt các chức sắc hiện diện. Một tháng sau được tin Thiếu Tướng Trình Minh Thế bị chết trong lúc đang đi thị sát mặt trận tại cầu Tân Thuận SàiGòn, một cái chết vô cùng oan uổng mà không thể ngăn chận được.

Hồi tưởng lại vào ngày 22-8-1946, vừa bước chân trở về đến Tòa Thánh Tây Ninh sau 5 năm 2 tháng bị lưu đày ở hải đảo Madagascar, đức Hộ Pháp vô cùng băng khoăng về sự hiện diện của quân đội Cao Đài trong nội ô Tòa Thánh. Trước một sự việc đã rồi, chẳng biết phương cách nào hơn nữa, giũa lằn tên mũi đạn của Việt Minh kháng chiến và quân đội Pháp, lại có thêm quân đội Cao Đài hiện đang đóng trong nội ô Tòa Thánh Tầy Ninh. Đức Hộ Pháp từ từ đưa quân đội Cao Đài ra khỏi nội ô Tòa Thánh, là một quyết định không đơn giản vì vận nước ngữa nghiêng tan tành trong khói lửa, đảng phái phân tranh, cốt nhục tương tàn, huynh đệ phân chia, tình thế còn nhiều gay cấn. Đức Hộ Pháp ngõ lời khuyến cáo các cấp chỉ huy quân đội tự vệ Cao Đài rằng: "các con là lửa Tam Muội, lửa dữ trừ được bọn ma vương, nhưng cũng có thể đốt thiêu luôn Tòa Thánh, nên Thầy không cho các con ở trong nội ô Thánh Địa, hãy ra ngoại vi đồn trú". Vì thế mà quân đội Cao Đài phải rời khỏi Giáo Tông Đường Nội ô Tòa Thánh, dời về đồn trú tại Giang Tân, cách xa Đền Thánh độ 8 cây số. Có một vài vị chức sắc vì quá lo ngại cho sự an ninh cùng tài sản của bổn đạo khi quân đội Cao Đài đã rút ra khỏi nội ô Tòa Thánh, nên đến yêu cầu đức Hộ Pháp cho phép quân đội đóng trong Thánh Địa để bảo vệ cơ sở hữu hiệu hơn, và an lòng chúng sanh. Đức Hộ Pháp tươi cười đáp: "Bần Đạo đã đuổi chúng nó đi, ở đâu đó được rồi! Ở đây có Bần Đạo, chúng nó là lửa dữ, chớ nên để gần".

Lời tiên đoán khuyến cáo của đức Hộ Pháp được ứng nghiệm vào 8 năm sau, là vào năm 1955 quân đội Cao Đài được Quốc Gia hóa vô quân đội Quốc Gia Việt Nam. Đức Hộ Pháp chỉnh đốn lại guồng máy đạo, lo quảng bá chơn truyền bằng các buổi thuyết đạo, tại Giảng Đài Đền Thánh, thuyết minh giáo lý Cao Đài cho toàn cả chức sắc và bổn đạo thấu rõ bí pháp của đạo, nêu cao gương Thánh Đức, thắt chặt tình đồng đạo, làm sáng danh Đại Đạo Kỳ Ba.

Đức Hộ Pháp biết rõ hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam, một nước nhược tiểu đang bị ngoại bang tranh giành quyền lợi, đổi chác lẫn nhau trên bàn hội nghị Génève 1954, người Mỹ muốn thay chân người Pháp, nên vị cố vấn Đại Tá Lansdale đưa ra kế hoạch thúc đẩy Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phải sớm thẳng tay triệt hạ các tôn giáo, đảng phái từng cộng tác với Pháp trước kia, càng sám càng tốt. Chính Thiếu Tá Lucien Comein, cùng 2 vị Trung Úy tin cậy là Joe Henrick và R. Philip có trọng trách thực hiện cho kỳ được khẩu lịnh: "phân hóa các lực lượng võ trang Giáo Phái, đạt hiệu qủa cao, có thể chuyển một phần ba (1/3) lực lượng của Pháp thành lực lượng của Ngô Đinh Diệm". Mưu kế được thực hiện, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm mua chuộc và xúi giục Trung Tướng Nguyễn Thành Phương nguyên là Tổng Tư Lệnh quân đội Cao Đài đem quân về bao vây Hộ Pháp Đường, thanh trừng nội bộ gây khó khăn cho đức Hộ Pháp. Tiên đoán thủ đoạn của ông Diệm, đức Hộ Pháp liền phán dạy một chức sắc Hiệp Thiên Đài đi SàiGòn gặp Trung Tướng Nguyễn Thành Phương tại biệt thự số 13 đường Yên Đỗ, SàiGòn, báo cho ông Phương biết rõ rằng: đừng nghe lời đốc xúi của ông Diệm mà đem quân đội về bao vây Tòa Thánh Tây Ninh, gây việc khó xử trí cho đức Hộ Pháp, đó là mưu kế "trò phản thầy". Bảo ông Diệm tự cho Quân đội Quốc Gia về chiếm Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh đi, đức Hộ Pháp sẽ có biện pháp đối phó rất dễ dàng. Đồng thời, đức Hộ Pháp còn bảo một vị chức sắc Hiệp Thiên Đài đến tận nhà Đại Tá Nguyễn Văn Kiết nguyên là Thánh Vệ Trưởng Tòa Thánh Tây Ninh để thông báo cho Đại Tá Kiết biết rằng: "Đại Tá phải thận trọng, đề phòng cho chính bản thân mình, vì Trung Tướng Nguyễn Thành Phương định bắt Đại Tá trước để tiện bề tiến quân vào chiếm nội ô Toà Thánh, đó là mưu đồ của Trung Tướng Nguyễn Thành Phương được lệnh của ông Diệm đem quân về bao vây Tòa Thánh Tây Ninh một ngày gần đây". (Và sau này Đại Tá Kiết vẫn bị Trung Tướng Phương bắt), cùng đi đến nhà Đại Tá Kiết có ông Sĩ Tải Nguyễn Hữu Khoẻ là người hướng đưa vị chức sắc Hiệp Thiên Đài đến tư gia Đại Tá Kiết.



Vào dịp tết nguyên đáng năm Ất Mùi (1955), đức Hộ Pháp có lời nhắc nhở các chức sắc và toàn thể bổn đạo nam nữ: "Đạo Cao Đài vốn là một Đại Đạo của những Tôn Giáo do đức Chí Tôn sáng lập trên đất nước Việt Nam mấy chục năm nay để thống hợp các Tôn Giáo, mà trước đây các bậc đại huynh, các bậc đại Thánh đã tùy thời, tùy thể dựng lên rãi rác khắp các phương trời để phổ độ chúng sanh".

"Nói đến Tôn Giáo là nói đến nhân nghĩa, đã là nhân nghĩa thì nhân nghĩa của nhà Phật Không thể khác với nhân nghĩa của Cơ Đốc, mọi con đường nhân nghĩa đều giống nhau, nhân nghĩa chỉ có kẻ thù là bất nhân, bất nghĩa và vô Tôn Giáo mà thôi.

Vậy thì các con đừng nên hẹp hòi câu chấp ở cái "Ta" mà lấy làm lạk hi thấy bần đạo ra lênh giúp đỡ đồng bào công Giáo xây dựng nhà thờ, hoặc khi thấy các tín đồ công Giáo, Phật Giáo đi lễ ở Đền Thánh.

Đại Đạo bao giờ cũng bao la như biển cả, sẵn sàng tiếp đón mọi dòng sông. Các con nên nhớ rằng trong nhân loại ngày nay chỉ trừ những người vô đạo, tất cả mọi người đều là anh, em của các con, tất cả đều có đạo Cao Đài, vì đạo Cao Đài gồm có Phật Giáo, Công Giáo, Lão Giáo, Nho Giáo v.v... Sở dĩ đức Chí Tôn chọn đất nước Việt Nam này làm Thánh Địa để phổ độ chúng sanh kỳ ba, chỉ vì Việt Nam là nơi kết hợp được tinh hoa của tất cả các nguồn văn minh trên thế giới, Việt Nam là nơi tổng hợp các ngành đạo đức: Nho, Lão, Thích và cũng là nơi gặp gỡ của hai nền văn minh Đông Tây.

Dân tộc Việt Nam với sức cần cù đã chịu đựng nổi mấy ngàn năm ngoại thuộc mà vẫn quật cường đấu tranh để tồn tại, để đồng hóa cả tàn tích ngoại lai mà xây dựng cho mình một nền văn minh, một ngôn ngữ riêng, một quan niệm sống riêng. Một dân tộc như thế lẽ dĩ nhiên phải có đủ đạo hạnh, đủ năng lực để đảm nhiệm việc hướng dẫn văn minh nhân loại sau này.

Các con hãy thành kính tạ ơn đức Chí Tôn và vui vẻ nhận thấy thiên mạng bảo sanh, bằng con đường nhân nghĩa để đưa nhân loại tới đại đồng vậy. Các con hãy luôn luôn gắng sức, đức Chí Tôn bao giờ cũng phù hộ những kẻ có lòng đạo đức hiền lương. Nhưng muốn làm tròn sứ mạng mà đức Chí Tôn giao phó, các con phải bảo vệ sự tồn vọng của dân tộc Việt Nam, chống lại bọn Ma Vương, bọn Sa Tăng của thời đại, đang cố tiêu diệt dân tộc Việt Nam để phá hoại nền Đại Đạo.

Bần đạo nhắc lại, các con phải thương yêu giúp đỡ đồng bào miền bắc, cũng như đồng bào miền nam, các con ở trong miền nam này được may mắn hơn họ, vì 8 năm qua Việt Minh ở đây còn yếu, họ đối xử tử tế với các con. Còn ở ngoài Bắc chánh sách của Tàu (Trung Quốc) đưa sang, Việt Minh đối xử gay gắt hơn. Dân một nước phải coi như anh em ruột thịt một nhà. Các con phải lo việc an cư lạc nghiệp, nhường cơm xẻ áo cho đồng bào, đùng chia rẻ Bắc Nam mà mắc mưu ly gián của Ngoại Bang.

Hiệp định Génève 1954 đã giúp cho nước Trung Cộng chiếm mất của các con gần một nửa nước. Họ đang đồng hóa và cai trị những anh, em các con còn đang bị kẹt ngoài bắc.

Bần đạo hơi tiếc cho ông Hồ Chí Minh vì sai lầm đường lối, muốn phụng sự dân tộc, mà thành ra phụng sự Nga, Tàu.

Nếu Việt Minh cứ mãi mãi là Việt Minh, đừng biến đổi thành Việt cộng hay Việt Tàu, thì chúng ta được an hưởng độc lập từ lâu rồi!

Bần đạo ái ngại cho ông Hồ Chí Minh, vì nếu cái đường lối sai lầm này cứ kéo dài mãi, thì dân chúng Việt Nam phải nổi dậy hết để chống lại ông ta. Vì nếu không, cả dân tộc sẽ bị tiêu diệt bởi chánh sách đồng hóa và thống trị của nước Tàu cộng kia!

Bổn phận của các con chiến sĩ trong quân đội, lại càng nặng nề hơn, vì các con phải lo phục quốc để giữ nước và giữ đạo. Bần đạo mong các con càng ngày càng bỏ được nhiều điều dở, học thêm những điều hay, gắng chặc mối tình huynh đệ để cứu dân, cứu nước.

Ngày xưa tham vọng xâm lăng của Hốt Tất Liệt, của Càn Long đã bị đại bại, vì những danh thần Nguyễn Trải, Ngô Thời Nhiệm, những chiến tướng Trần Hưng Đạo, Quang Trung, bần đạo tin rồi đây những tướng, tá Tàu cộng như Trần Canh, Chu Đức cũng sẽ biết tay của các con, vì các con là con cháu của những kẻ chiến thắng, mà họ là con cháu của những kẻ xâm lăng đã bị chiến bại.

Bần đạo cũng cần nhắc lại cho các tín đồ trong đạo biết, các con sở dĩ được sống yên ổn làm ăn là nhờ có sức chiến đấu của quân đội, những kẻ đã đem xương máu làm thành trì bảo vệ các con. Các con có bổn phận biết ơn và cứu giúp họ, hãy coi họ là tình ruột thịt "máu chảy ruột mềm, môi hở răng lạnh".

Bần đạo hứa sẽ tìm mọi dịp để bày tỏ nguyện vọng của các con cho các dân tộc bạn như Pháp và Mỹ biết rằng: các con chỉ muốn được các nước bạn giúp đỡ các con đương đầu với phe Tàu Cộng để bảo vệ độc lập Việt Nam mà thôi, chứ các con không muốn bị các nước bạn dùng các con chống cộng, để duy trì quyền lợi bất chánh đáng. Bần đạo sẽ nói cho người Pháp và người Mỹ biết rằng: các nước bạn viện trợ cho nước Việt Nam để chống cộng, tức là bỏ tiền ra để xây bức thành rào giữ ngôi vườn Đông Nam Á, các nước bạn sẽ tìm lợi tức ở trong ngôi vườn sau này, chớ không phải tìm lợi tức ở trong số tiền đã bỏ ra xây thành, nếu Việt Nam này mất thì Đông Nam Á cũng phải mất, thế giới Âu Mỹ cũng không còn, khi kho người, kho lúa ở đây bị rơi vào vòng kiểm soát của Nga, Tàu cộng."

Thiết nghĩ trong đêm giao thùa 30 tháng chạp năm Giáp Ngọ (1955) chào mừng xuân Ất Mùi, đức Hộ Pháp đã để lời huấn giáo căn dặn cả chức sắc và bổn đạo nam nữ trên toàn quốc vài vấn đề đạo lý và thế sự, mà người tín hữu Cao Đài hằng ghi nhớ, những lời vàng tiếng ngọc của đức Ngài. Nhất định lời vàng tiếng ngọc này mãi mãi in sâu trong tâm trí của mồi tín đồ ngoan đạo, và lưu truyền cho hậu thế đời đời kiếp kiếp.

Công việc của đạo càng ngày càng chồng chất chẳng hạn như lo cho đồng bào có nơi sinh cư, có cơm ăn áo mặc, xúc tiến công tác huấn luyện: công dân, giáo dục, vệ sinh, nuôi cô nhi, giúp quả phụ, an ủi kẻ già yếu, trợ giúp người khó khăn, cùng chăm lo việc xây chợ, cất trường học, lập nhà dưỡng lão, bệnh viện, nhà bảo sanh cùng khắp vùng thánh địa.

Đặc biệt một đại hội nhân sanh, đại diện chức việc và bổn đạo trên toàn quốc được khai mạc với lời kêu gọi thống thiết của đức Ngài; Con hạc đã hồi qui, nhìn không gian nhớ tổ, xem nước hoa đổi vẻ thay màu, thảm thiết thay nổi lòng tuông châu, đổ ngọc, rấp kêu cuối cùng một tiếng nỉ non, giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi! Bức tranh thê lương này, ai là kẻ tri kỷ, tri âm củng bần đạo, ngoài chư hiền huynh, hiền muội đã kiếm đặng ai.

Tuy nhiên đức Hộ Pháp không hề lảng quên bổn phận một công dân yêu nước nồng nàn, với đường lối bất di, bất dịch là thống nhất lãnh thổ Việt Nam, thu hồi trọn vẹn chủ quyền dân tộc và cương quyết giải phóng quốc gia khỏi lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp giữa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, nên chế độ Ngô Đình Diệm thúc đẩy Trung Tướng Nguyễn Thành Phương đem quân lính về thanh trừng Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh nhằm hạ uy thế đức Hộ Pháp. Nhưng ông Phương không dám trực tiếp xúc phạm đến uy danh của đức Ngài. Ăn cơm chúa phải múa tối ngày, ông Phương tránh né, bèn ủy nhiệm cho Thiếu Tướng Lê Văn Tất, phó Tổng Tư Lệnh, đem quân đội về bao vây Hộ Pháp Đường, nội ô Tòa Thánh ngày 20 tháng 8 năm Ất Mùi (1955) gọi là thanh trừng Hội Thánh.

Thiếu Tướng Lê Văn Tất tuân lệnh Trung Tướng Nguyền Thành Phương đem quân lính thân chinh đến Hộ Pháp Đường, đe dọa cho lính đặt địa lôi giựt xập Hộ Pháp Đường, đã bị Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa lên tiếng phản đối bằng một lời nói danh thép: "Hãy bước qua xác chết tôi, rồi mới vào Hộ Pháp Đường được."

Một vết nhơ tủi nhục của tình "Trò phản Thầy" nhưng đức Hộ Pháp bình thản "hóa giải" cuộc khủng bố bao vây Hộ Pháp Đường và nội ô Tòa Thánh vô cùng độc đáo tế nhị. Không một tiếng súng nổ, mà mưu đồ nhúng tay vào nội bộ Hội Thánh Cao Đài của Ông Diệm hoàn toàn bị phá hỏng trước tinh thần cương quyết phản đối của chức sắc và bổn đạo nam nữ vì Thầy, vì Đạo nơi vùng Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh, bắt buộc quân đội phải tự rút lui có trật tự khỏi khuôn viên Tòa Thánh một cách êm thấm.

Tiếp theo, bao nhiêu trò hề vu khống hết sức thâm độc bôi lọ thanh danh đức Hộ Pháp, đều bị bổn đạo vạch trần phơi bày trước ánh sáng công lý Kẻ phản Thầy, phản Đạo đã hiện nguyên hình, tạ tội cùng Hội Thánh. Thánh Địa Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh trở lại yên ấm như không có việc gì xảy ra cả.

Hội Thánh tiếp tục mở thêm khóa Hạnh Đường đào tạo chức sắc nam nữ đủ khả năng và đạo đức thuyên bổ đi các tỉnh, quận, cùng rèn luyện một số chức sắc ưu tú hướng dẫn các phái đoàn Cao Đài tham dự đại hội Tôn Giáo Quốc Tế khắp cả năm châu:

- 1928 - Đại Hội Quốc Tế Thần Linh Học tại Londres (Anh Quốc) ngày 7/9/1928 - 11/9/1928 ( có 26 nước đến tham dự Congrès Spirite International).

- 1934 - Đại Hội Thần Học tại Tây Ban Nha (Barcelone).

- 1936 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Anh Quốc (Landres).

- 1937 - Đại Hội Thần Ni Triết Học tại Đức Quốc (Eglise Gnostiques D Alemagne).

- 1937 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Anh Quốc (Londres).

- 1939 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Pháp Quốc (Paris).

- 1948 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Lausane.

- 1950 - Đại Hội Thần Học tại Haywards Henth.

- 1951 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Thụy Điển (Stockholm)

- 1952 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Bỉ Quốc (Bruxelles).

- 1952 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Maroc (Casablanca).

- 1954 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Thụy sĩ (Montreux)

- 1955 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Nhật Bổn (Baguio)

- 1965 - Đại Hội Thần Linh Học Thế Giới tại Bĩ (Bruxelles)

- 1966 - Đại Hội Đại Học LosBanos tại Phi Luật Tân (Bagio)

- 1975 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Ấn Độ (New Delhi)

Hiệp định Génève ngày 20-7-1954 không được tôn trọng, hoàn cảnh nước Việt Nam lúc bây giờ rất đen tối, cả hai chánh phủ Miền Nam và Miền Bắc Việt Nam đều do Ngoại Bang yểm trợ. Chánh phủ Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa Miền Bắc do cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, được sự yểm trợ của khối cộng sản Quốc Tế mà Cường Quốc trực tiếp là Nga và Trung Quốc. Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo, được sự yểm trợ của khối thế giới tự do mà Cường Quốc trực tiếp là Tư Bản Mỹ.

Kể từ ngày Pháp và Việt Minh ký kết hiệp định Génève 20-7-1954 tại Thụy sĩ có 9 Cường Quốc (9 nước) ký tên tham dự chia đôi đất nước Việt Nan làm 2 miền Nam-Bắc chọn con sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 làm ranh giới, cũng như trước kia thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, lấy con sông Gianh làm ranh giới (vào thế kỷ thứ 17 - 1627).

Không thể khoanh tay ngồi nhìn cảnh đồng bào bị Ngoại Bang áp đặt, gây cảnh nồi da, xáo thịt, nên đức Hộ Pháp phải tìm phương gở rối cho thế cuộc phải tự lưu đày thể xác một lần nữa, là tự nguyện qua sống lưu vong tại nước Cao Miên, một nước Trung Lập, và là thành viên của 5 điểm SỐNG CHUNG HÒA BÌNH của Thủ Tướng Nneru (Ấn Độ) chủ xướng.

Sáng ngày mùng 5 tết năm Bính Thân (16-2-1956) đức Hộ Pháp và một chức sắc rời Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh lưu vong qua nước Cao Miên, âu cũng là Thượng Đế đã an bày, thực hiện theo đúng ý nguyện của Thượng Đế bằng một chương trình đã tự định trước, một chuyến đi lưu vong để bảo vệ lập trường Trung Lập, tránh áp lực của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, đang tranh giành quyền bá chủ trên thế giới.

Tại Phnom-Pênh, thủ đô nước Cao Miên, đức Hộ Pháp để xướng bản CƯƠNG LĨNH HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG, cốt để giác ngộ quốc dân Việt Nam sớm biết thực dụng quyền hành của dân, bởi cớ có 3 mục tiêu chánh yếu là: Do Dân, Phục Vụ Dân, Lập Quyền Dân. Chỉ có dân mới cứu vãn được tình thế nguy hại cho tương lai Tổ quốc và giống nòi, chúng ta phải bền giữ hòa bình, hạnh phúc, dù cho các nước Liệt Cường Quốc Tế biến thiên thế nào, chúng ta cần phải khôn ngoan hợp sức, nhất tâm, nhát trí bảo vệ toàn vẹn hòa bình quốc nội của ta.

Ngày 15-3-Bính Thân (26-3-1956), đức Hộ Pháp có gởi 2 bức thư cho cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo chánh phủ VNDCCH và Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo chánh phủ VNCH. Kêu gọi cuộc thi đua "Nhân Nghĩa" giữa 2 miền Nam, Bắc Việt Nam.

Tiếc thay! Lúc bấy giờ vì ảnh hưởng của ngoại bang quá ư nặng nề, nên chánh phủ Miền Nam và Miền Bắc không có thẩm quyền định đoạt đến vận mạng dân tộc mình, chưa dám ngồi gần lại với nhau để thảo luận đề nghị của đức Hộ Pháp trình bày trong bản Cương Lĩnh chánh sách Hoà Bình Chung Sống. Đồng thời, Đức Hộ Pháp có gởi văn thơ số: 138/HP/VPHP. ngày 3/11/1956 thân gởi đến các ông Đại Đức Tôn Giáo:



"Thời cuộc hôm nay lại đến một giai đoạn khắc khe, rất nguy hiểm cho tương lai số phận của Việt Nam là nước bị phân đôi, chia 2 chủng tộc dưới ảnh hưởng của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, gây cuộc Nam-Bắc phân tranh, cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt.

Ngoại Bang mưu đồ lợi dụng xương máu đồng bào Việt Nam đặng định quyền bá chủ của họ.

Hiển nhiên giờ phút này, đồng bào Việt Nam ta đã bị lệ thuộc của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, chớ không có độc lập, tự do chi cả, chánh phủ Miền Nam, cũng như chánh phủ Miền Bắc đều bị lệ thuộc như nhau.

Rồi đây, nội chiến sẽ vì ngoại bang bùng nổ mà ta không thể đề phòng được. Chúng ta là người tu hành, các Chư Đại Đức cũng thế, không thể khoanh tay ngồi đợi để thấy cái thảm họa ấy. Bởi chiều theo thiên ý, chúng ta phải tìm một phương pháp hay để chấm dứt cuộc tương tàn, tương sát do mưu đồ ngoại bang áp đặt tranh giành quyền lợi với nhau.

Đương nhiên đồng bào 2 miền Nam và Bắc đều là nạn nhân của 2 tư tưởng, của quyền lực Quốc Gia và Cộng Sản mà cả đồng bào chúng ta từ Nam chí Bắc đồng bị tiêm nhiễm và xu thời theo 2 chánh sách, dân tâm bất nhất".

Ngoài ra đức Hộ Pháp còn gởi đến ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc một giải pháp hòa bình đại đồng thế giới, hầu dung hoà 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm hiểu biết nhau, tương nhượng để tồn tại sống còn, phải thương yêu nhau như anh em ruột thịt, tất cả đều là anh em trong một đại gia đình cùng nhau chung sống hòa bình.

Máu của người Việt Nam đã đổ trên mảnh đất tổ tiên, chịu nạn ngoại quyền chi phối, là một điều bất hạnh cho đồng bào Việt Nam phải gánh lấy thảm họa nợ máu tiền khiên từ đời Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn lưu lại.

Thiết nghĩ, nếu chánh phủ 2 miền Nam-Bắc Việt Nam do cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Tổng Thống Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ có chút thẩm quyền quyết định vận mạng non sông chủng tộc, cùng nhiệt tình thực hiện chánh sách Hòa Bình Chung Sống "Thủy Tổ" của chủ trương hòa giải, hòa hợp dân tộc, thì mảnh đất quê hương cẩm tú này đâu đến nổi điêu linh, lầm than thống khổ. Nhất định đồng bào Việt Nam đã hưởng được thanh bình, hạnh phúc từ lâu rồi. Một bằng chứng hiển nhiên là sau khi Việt Minh đại thắng trận Điện Biên Phủ, khí thế đánh đuổi xâm lăng của toàn dân Việt Nam từ Nam chí Bắc đang bùng lên sôi nồi, thừa sức tiến lên giải phóng cả Miền Nam quá ư dễ dàng, để nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Nhưng chánh phủ miền bắc lúc bấy giờ bị ảnh hướng nặng nề của ngoại bang là Trung Quốc, đã từng kinh nghiệm đặc quyền, đặc lợi trên bàn hội nghị "Bàn Môn Điếm” năm 1953 chia đôi nước Triều Tiên, với 2 chánh phủ Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên.

Mặc dù giải pháp dung hòa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản của đức Hộ Pháp chưa được các cường quốc nhiệt tình hưởng ứng, nhưng có nhiều cường quốc rất lưu ý, chiếu cố, phúc đáp lại đức Ngài với lời lẽ ân cần, tôn kính.

Đồng thời, nhiều biến chuyển rất tốt đẹp và giải pháp hòa giải 2 khối Cộng Sản và Tư Bản từ từ lố dạng không còn là tiếng gọi trong sa mạc như trước đây. Trái lại, nó trở thành âm thanh vô cùng quen thuộc "Hòa Bình Chung Sống" danh từ được thế giới thường nhắc nhở đến, nhất là trong những cuộc biểu tình khổng lồ của các quốc gia yêu chuộng hòa bình, mà cả 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đều nhận định không có kẻ thắng người thua. Nếu nói giữa chủ nghĩa Cộng Sản và Tư Bản không có vấn đề ai thắng ai thua, thì cũng có mặt đúng và mặt chưa đúng!

Đúng trên khía cạnh không thể thanh toán nhau bằng vũ lực, nếu cả hai đồng đọ sức nhau bằng vũ khí hạt nhân, sẽ dẫn tới thảm họa hủy diệt cả hai khối, cả nhân loại.

Không đúng ở chổ xóa nhòa bản chất xã hội, không dám tin tưởng con đường mình đang đi. Giữa 2 hệ thống có thể vì cần thiết để sống còn, phải hòa bình chung sống, phải tự điều khiển mình để theo qui luật, tự toàn thiện mình để tiếp cận với chân lý.

Niềm phấn khởi cho nhân loại trên thế giới là vào tháng 4 năm 1971, đại hội Đảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ 24 tại Mạc Tư Khoa đã long trọng quyết định hòa hoản với Trung Quốc và giao hảo với Mỹ. Đó là triệu chứng biến chuyển Quốc Tế đáng mừng cho nhân loại. Kế tiếp vị lãnh đạo tối cao Thiên Chúa Giáo, đức Giáo Hoàng Phao Lồ đệ lục tuyên bố: xây dựng một xã hội anh em trên mặt đất này.

Rồi tiếp theo phái đoàn thể thao bóng bàn Mỹ, và 3 ký giả Mỹ được Trung Quốc chánh thức mời viếng thăm Bắc Kinh. Sau 20 năm tuyệt giao, Trung Quốc và Mỹ đã bắt đầu tiếp xúc lại. Cuộc tiếp đón phái đoàn thể thao Mỹ rất nồng hậu, đủ chứng tỏ cho quốc tế hiểu ngầm rằng: Cuộc ban giao hi hửu này nhất định sẽ mang lại một sự thỏa hiệp ngấm ngầm và thay đổi bất ngờ của Mỹ đối với Đông Dương, mà Việt Nam là vai tuồng chánh cần phải giải quyết nhanh chóng và êm đẹp trên bàn hội nghị thương lượng chớ không cần đến vũ lực nữa.

Nhất là sự bắn tiếng vô cùng sâu sắc của Thủ Tướng Chu Ân Lai trong buổi tiếp tân phái đoàn bóng bàn Mỹ đã chứng tỏ dấu hiệu chuyển hướng sau bao cuộc thí nghiệm bằng xương máu "biển người" trên mặt trận Điện Biên Phủ Việt Nam, rồi tiếp đến mặt trận Triều Tiên 1955. Các nước nhược tiểu khác đã thoát khỏi nanh vuốt của tử thần qua một câu tuyên bố ngắn gọn của Thủ Tướng Chu Ân Lai: "TỨ HẢI GIAI HUYNH ĐỆ".

Ngày 26-3-1956, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nêu lên chánh sách Hoà Bình Chung Sống với quyết tâm cứu khổ cho nhân loại. Chính bản thân của người tín hữu Cao Đài có lúc phải trả giá bằng xương máu trong lao tù của Miền Nam Việt Nam để góp phần thực thi chánh sách Hòa Bình Chung Sống, với kỳ vọng nước nhà độc lập, tự do, thống nhứt, thoát ra ngoài cuộc xung đột của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đã thề quyết không sống chung bầu trời, kẻ mất người còn.

Một phái đoàn chức sắc và tín hữu Cao Đài tình nguyện lấp bằng sông Bến Hải đã âm thầm đột nhập vĩ tuyến 17, vào ngày 17-4-Bính Thân (1956) để thượng lá cờ trắng tại nhịp cầu thứ hai, cầu Hiền Lương, Bến Hải và được gọi là "Cờ Nhan Uyên" tượng trưng hòa bình. Việc làm này nhằm kêu gọi chánh phủ 2 miền Nam-Bắc Việt Nam hãy gạt bỏ những hiềm khích, ngồi lại với nhau tìm một giải pháp thích hợp cho đôi bên dung hòa lẫn nhau. Do vị trưởng đoàn là Trung Tá Lê Văn Thoại đà hoàn thành xuất sắc trách nhiệm, ngọn cờ trắng (bạch kỳ) được phất phới tung bay trên cầu Hiền Lương, Bến Hải, làm chấn động khắp cả các tỉnh Miền Nam và Miền Bắc lúc bấy giờ, gây nổi lo âu cho chánh phủ Miền Nam không ít.

Tại Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ cả chức việc, chức sắc, bổn đạo nam nữ đồng quyết tâm hưởng ứng chánh sách Hòa Bình Chung Sống, nên một số đông Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài tình nguyện đảm nhiệm trọng trách trong ban vận động CSHBSC Miền Nam, và thành viên được cử vào ban vận động Miền Nam được đệ trình lên Trung Ương.

Ngày 20-3-Bính Thân (30-4-1956) từ thủ đô Phnom-Pênh, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc gởi chứng thư cho từng thành viên trong ban vận động với lời ưu ái nồng nàn.

"Những ai đã nhiệt tình ái quốc, ưu hương để cứu vãn tình thế nguy ngập của nước nhà, xin đem cả năng lực hợp tác, cùng các đồng chí của Bần đạo thọ lãnh ủy nhiệm thư này, hầu vì dân, phục vụ dân, và lập quyền dân, đặng cho toàn dân đủ thẩm quyền cứu nước".

Các thành viên trong ban vận động CSHBCS Miền Nam Việt Nam, thọ lãnh "chứng thư" gồm có:

- Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngòi : - Trưởng ban vận động CSHBCS.Miền Nam Việt Nam.

- Sĩ Tải Lê Quang Tấn : - Tổng Thư ký!

- Sĩ Tải Phạm Duy Nhung : - Tuyên Huấn.

- Sĩ Tải Huỳnh Văn Hương : - Thông Tin.

- Sĩ Tải Nguyễn Văn Tú : - Tài Chánh.

- Sĩ Tải Trần Tấn Hợi : - Kiểm Soát.

- Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân : - Tổ Chức.

- Sĩ Tải Nguyễn Thành Nguyên : - Tổ Chức.

- Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Tỷ : - Tổ Chức.

- Sĩ Tải Nguyễn Hữu Khỏe : - Liên Lạc.

Kế tiếp ngày 23-6-1956, đức Hộ Pháp chỉ thị cho đại huynh Hiến Pháp Trương Hữu Đức, đại diện Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh phải đến kiến diện Thủ Tướng Ngô Đình Diệm để biết rõ thêm thái độ của chánh quyền Miền Nam lúc bấy giờ, đối với Chánh sách Hòa Bình Chung sống do đức Ngài chủ trương.

Một phái đoàn Hội Thánh được thành lập gồm có: Quyền Thượng Chánh Phối Sư Thượng Sáng Thanh, Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ Thanh, và Sĩ Tải Lê Quang Tấn (đại diện cho đại huynh Hiến Pháp) đến kiến diện Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Đồng thời các ban vận động HBCS trực thuộc của tỉnh, quận, xã đều thành lập xong với tinh thần hy sinh cao cả, bảo vệ giọt máu người Việt Nam không cho đổ một cách vô cớ. Điều này khiến cho Chánh Quyền Miền Nam Việt Nam âu lo, và bực bội không ít, nên đã xuất hiện một vài nơi bổn đạo bị chụp mủ là ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản, và tiến tới chánh sách bắt bớ giam cầm một số bổn đạo ở các tỉnh.

Lòng tha thiết yêu chuộng hòa bình của người tín hữu Cao Đài lại bị nghi ngờ là thân Cộng Sản, làm tay sai cho Cộng Sản, để rồi bị đàn áp, bắt bớ, giam cầm. Chủ trương nêu cao ngọn cờ cứu khổ của đạo Cao Đài là phải thương yêu nhau, công bình đối với nhau như tình huynh đệ, anh em một nhà, không phân biệt là Cộng Sản hay Tư Bản, mà chỉ biết nhìn nhau là con chung một cha.

Tại Trung phần Miền Nam Việt Nam, công an mật vụ chế độ Ngô Đình Cẩn ráo riết truy tầm thủ phạm dám cả gan đột nhập cầu Hiền Lương treo cờ trắng (bạch kỳ). Trở về tới ranh giới tỉnh Quảng Trị, chẳng may cho Trung Tá Lê Văn Thoại bị mật vụ của Ngô Đình Cẩn chận bắt. Còn 3 anh: Nguyễn Văn Kỳ, Nguyễn Quốc Đại và Nguyễn Văn Lợi thì cũng bị công an mật vụ chận bắt tại bến xe tỉnh Quảng Trị. Cả 4 anh Thoại, Kỳ, Đại, Lợi đều được công an dẫn giải về giam giữ tại Huế trên 3 năm mới được trả tự do trở về Tòa Thánh Tây Ninh.

Thực hiện bổn phận người công dân Việt Nam yêu tin tưởng nơi bài thánh giáo của đức Cao Thượng Phẩm 23-4-1931



Long tu phiến quạt bợn sơn hà,

Như gián ma xử trấn quốc gia.

Rưới nước cam lồ lau xã tắc,

Múa gươm thần huệ dẹp can qua.

Niệm kinh Khổng Thánh thâu Mao Tưởng,

Phất phướng Nhan Uyên chận Mỹ Nga.

Thế giới hòa bình ai chủ xướng,

Thì dân nước Việt khải hoàn ca.

THĂNG


Bốn anh: Thoại, Kỳ, Đại, Lợi đã hiên ngang, xem thường mọi hiểm nguy đột nhập cầu Hiền Lương (vĩ tuyến 17) treo bạch kỳ hoàn thành sứ mạng một tín hữu ngoan đạo với 3 năm tù gẫm ra cũng có phần qúa đắt đối với người tu sĩ Cao Đài.

Còn hiền huynh Giáo sư Thượng Cao Thanh (Ma Tăng Cao) Khâm Trấn Đạo Thừa Thiên phải bỏ mình trong ngục thất Huế với tội tình nghi chứa chấp hướng dẫn 4 anh: Thoại, Kỳ, Đại, Lợi đột nhập cầu Hiền Lương (Bến Hải) ngày 17-7-Bính Thân (22-8-1956).

Đoàn tình nguyện của Trung Tá Lê Văn Thoại quyết tâm lấp bằng vĩ tuyến 17 đã hoàn thành trọng trách đối với đồng bào 2 miền Nam-Bắc Việt Nam. Quan trọng nhất là ngọn bạch kỳ tượng trưng cho hoà bình đã ngang nhiên tung bay trên cầu Hiền Lương, nhằm thức tỉnh chánh quyền Nam-Bắc nhớ lại thảm họa phân tranh của chúa Trịnh - Nguyễn còn lưu lại hầu ngồi lại với nhau bàn bạc và tìm một giải pháp dung hòa để bảo vệ giọt máu người Việt Nam. Đừng vì ngoại bang mà đỗ máu một cách vô cớ và cần phải khôn khéo tránh né mưu đồ áp đặt của họ.

Đức Hộ Pháp đã nhiều lần dẫn giải cho chức sắc và bổn đạo biết rõ: dân tộc Việt Nam còn phải trả quả kiếp nặng nề của tổ phụ trước kia là Chúa Trịnh Chúa Nguyễn cho xong rồi mới có hòa bình thật sự được!

Tuy nhiên, chẳng lẽ khoanh tay ngồi chờ thảm họa đến, đức Ngài mớ tự sửa đổi máy thiên cơ. Nhưng nào haỵ "vạn sự do thiên định".

Tại thủ đô Phnom Penh (Cao Miên) đức Hộ Pháp ban lệnh cho hiền huynh Giáo Hữu Thái Tây Thanh, một chức sắc Cửu Trùng Đài, một liên lạc viên nổi tiếng của trấn đạo Tần Quốc vượt biên giới từ Phnom Penh đến Bet-Chay, rồi Tân Châu tới Châu Đốc và đi thẳng về SàiGòn suông sẻ nhanh chóng để kịp tiếp xúc với ban vận động Miền Nam chánh sách Hòa Bình Chung Sống hầu chuyển mật thơ của đức Hộ Pháp vào lúc 14 giờ ngày 18-2-1957.

Trưởng ban vận động CSHBCS Miền Nam Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời tiếp được mật lệnh của đức Hộ Pháp chỉ định cho Sĩ Tải Lê Quang Tấn phải vượt biên giới lên Phnom Penh với vị chức sắc liên lạc viên Giáo Hữu Thái Tây Thanh khẩn cấp.

Tuân hành mật lệnh của đức Hộ Pháp, Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời liền triệu tập một buổi họp "khẩn" bất thường của ban vận động Miền Nam. Sĩ Tải Lê Quang Tấn tạm bàn giao trách vụ Tổng Thư Ký cho sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời kiêm nhiệm đảm nhận tạm thời cho Sĩ Tải Tấn kịp "lên đường vượt biên" lên Phnom Penh theo kế hoạch của vị chức sắc liên lạc viên đã dự thảo.

Sĩ Tải Lê Quang Tấn chuẩn bị lên đường với Giáo Hữu Thái Tây Thanh. Chỉ trong 3 tiếng đồng hồ thì mọi việc đều thu xếp xong. Các vị Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời, sĩ Tải Bùi Văn Tiếp và Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân đại diện ban vận động Miền Nam đồng tiễn đưa đến tận bến xe SàiGòn - Châu Đốc (đường Kitchener, gần cầu ông Lãnh SàiGòn). Sự tiễn biệt lúc bấy giờ hết sức cấp bách, kẻ ở lại người ra đi vô cùng quyến luyến, thắm đượm tình huynh đệ gắng bó từ lâu, với những cái khoát tay chia ly chào mừng thượng lộ bình an hết sức cảm động bùi ngùi, khi chiếc xe đò SàiGòn - Châu Đốc bắt đầu lăn bánh vào lúc 18 giờ ngày 18-2-1957.

Mãi lo chuyển giao phận sự Tổng Thư Ký ban vận động Miền Nam cho Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời tạm thời đảm nhận để kịp lên xe vào lúc 18 giờ, sĩ Tải Tấn phải nhờ sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân vui lòng đến báo tin cho gia đình biết là Sĩ Tải Tấn đã lên đường đi Châu Đốc vượt biên sang Phnom Penh với Giáo Hữu Thái Tây Thanh theo lệnh đức Hộ Pháp đã phán dạy.

Rời khỏi tỉnh Châu Đốc với nhiều kinh nghiệm vượt biên giới, liên lạc viên Thái Tây Thanh đã trải qua nhiều chặn đuờng không kém phầm nguy hiểm. Nhất là phải qua một con sông lớn chia hai địa phận Cao Miên và Việt Nam. Chiếc xuồng chèo lắc lư vượt qua sông Bet-Chay để sang phần đất Cao Miên là một mưu trí sáng tạo của Giáo Hữu Thái Tây Thanh.

Khi tới địa phận Cao Miên, cả hai người còn phải thay đổi nhiều chuyến xe đò, họ đã chuẩn bị sẵn giấy tờ hợp lệ lưu thông trên đất Cao Miên để vượt qua các trạm gác dọc đường. Liên lạc viên Thái Tây Thanh đã khéo léo đề phòng mọi sự bất trắc, hầu đến Phnom Penh thông suốt an toàn, tới Thánh Thất Cao Đài kịp giờ qui định cho Sĩ Tải Lê Quang Tấn trình diện Đức Hộ Pháp

Sĩ Tải Lê Quang Tấn đến kiến diện Đức Hộ Pháp và trình bày các diễn biến vừa qua của Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh và sự phổ biến sâu rộng chánh Sách Hòa Bình Chung Sống thành công tốt đẹp khắp cả Miền Nam Việt Nam do quyết tâm của tòan thể chức sắc, chức việc và bổn đạo nam nữ trên toàn quốc nhiệt tình hưởng ứng và hoạt động hữu hiệu của các tỉnh, quận, xã. Sau khi trình diện đức Hộ Pháp xong, sĩ Tải Lê Quang Tấn nghiêm túc thực hiện lời phán dạy: Cần ra trình diện chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên để xin tỵ nạn chánh trị tại Phnom Penh, chờ qụyết định mới. Sĩ Tải liền đến trình diện phòng cảnh sát đặc biệt. (Police Spécial) và làm đúng thủ tục xin tỵ nạn chánh trị tại thủ đô Phnom Penh.

Lúc bấy giờ, tại SàiGòn và các tỉnh miền tây đang gặp nhiều khó khăn với chánh quyền Miền Nam. Trưởng huynh chơn nhơn Trịnh Phong Cương chưởng Quản Hội Thánh Phước Thiện, Thừa Sử Phan Hữu Phước trưởng phòng Bộ Pháp Chánh, Sĩ Tải Trần Tấn Hợi liên lạc viên ban vận đông CSHBCS. Miền Nam, Giáo Hữu Thượng Liên Thanh khâm châu đạo Chợ Lớn, Giáo Sư Thượng Cao Thanh khâm trấn đạo Thừa Thiên, Luật Sư Nguyễn Thị Nhãn Bộ Pháp Chánh Tòa Thánh Tây Ninh v.v… đã hy sinh bỏ mình trong ngục thất, và có trên hai ngàn chức sắc, chức việc, bổn đạo nam nữ cùng bị băt bớ giam cầm để tô điểm them Chính Sách Hòa Bình Chung Sống bằng một tội danh vô cùng đơn giản: Cao Đài ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản.

Thiết nghĩ, chánh quyền Miền Nam đã gay gắt: lên án hiệp định Génève 20-7-1954 là do Việt Minh ký kết với Pháp chia đôi đất nước Việt Nam, và xem ngày 20-7-1954 là ngày "Quốc Hận" của dân tộc Việt Nam, những người Tín Hữu Cao Đào lại phổ biến sâu rộng, cùng thành lập ban vận động CSHBCS khắp các tỉnh, quận, xã trên toàn quốc.Trong khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ trương triệt để chống Cộng Sản, còn tín hữu Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh lại đòi chung sống hòa bình. Có phải chăng là muốn hòa bình chung sống với Cộng Sản nên mới bị chế độ Ngô Đình Diệm khủng bố, đàn áp, bắt bớ, giam cầm. Trái lại số các bộ Việt Minh nằm vùng (không đi tập kết ra bắc) thì lại im hơi lặng tiếng, mặc tình cho hiệp định Génève không được tôn trọng khi mà người tín hữu Cao Đài lại tình nguyện lấp bằng vĩ tuyến 17, ngang nhiên đột nhập khu phi quân sự, thượng bạch kỳ tại cầu Hiền Lương (Bến Hải) không ngần ngại hiểm nguy!

Đang lưu vong tại Cao Miên, tiếp nhận nhiều phúc báo và tường trình của Hội Thánh và ban vận động CSHBCS Miền Nam cho biết rõ về chế độ Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp Cao Đài, đức Hộ Pháp liền có văn thư số 238/HP-VPHN ngày 28-2-1957 cho ông chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến tại Việt Nam (Président De Commission Internationale De Contrôle Au Vietnam)

Xin tạm dịch một đoạn: …………………… Tôi yêu cầu ông Chủ Tịch mở cuộc điều tra tại chỗ và xin can thiệp trả tự do cho những vị đã bị giam giữ.

Sĩ Tải Lê Quang Tấn tự Trường, một chức sắc Cao Đài hiện ở Tòa Thánh Tây Ninh (Miền Nam Việt Nam) là người đại diện chánh thức của tôi có thể cung cấp cho Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát tại Việt Nam, những chi tiết cần thiết trong việc tiến hành cuộc điều tra được dễ dàng xác thực ……

Nguyên vin Pháp Ngữ: ……………Je vaus serai, en conséquence torès reccjnnaissant de vouloir bien faire ouvrir des enquêtes sur place et faire libérer le plutôt possible tous ces détenues.

Le Si Tai Lê Quang Tấn dit Trường, Diguitaire Caodaiste damicilié actuellement au Saint-Siège Caodaique de Tây Ninh (Sud Vietnam) est désigné comme notre Représentant officiel auprès de la c.I.e. au Vietnam pour lui apporter toutes precisians nécessaires et facilliter les enquêtes prescrites.

………………………………………………………………………………………………………………………………

Tiếp theo, ngày 23-6-1956, đức Hộ Pháp tiếp được điện văn của cụ Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa từ Hà Nội gởi đến Phnom Penh với nội dung:



"Tôi trân trọng cám ơn bức điện văn cụ gởi tôi ngày 26-4-1956 và thành thật cám ơn cụ đã tỏ ý mong muốn nước Việt Nam ta được hòa bình thống nhắt. Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa tòan dân ta từ Bắc chí Nam trong nước và ngoài nước đều đang cương quyết và bền bỉ đấu tranh để thực hiện nguyện vọng tha thiết của dân tộc là làm cho nước Việt Nam ta được hòa bình thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh.

Cuộc đấu tranh hiện nay của nhân dân ta tuy phải khó khăn và phức tạp, song toàn dân đoàn kết một lòng cương quyết phấn đấu cho nên nhất định sẽ thắng lợi.

Tôi xin gởi cụ lời chào trân trọng.

Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 1956

Hồ Chí Minh

Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa"

Đồng thời đức Hộ Pháp cũng nhận được thư của ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc hoan nghinh đường lối Hòa Bình Chung sống và giải pháp dung hòa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm thực hiện hòa bình đại đồng thế giới.

Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc và phái đoàn Cao Đài lưu vong tại Cao Miên cũng gặp nhiều trở ngại. Vì quyền lợi, vận mạng của số đông kiều bào Cao Miên còn đang sống rải rác ở các tỉnh: Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc Liêu, Châu Đốc thuộc Miền Nam Việt Nam, bắt buộc chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên phải làm vui lòng chế độ Ngô Đinh Diệm trong sự ngoại giao của 2 nước Việt-Miên. Lúc bấy giờ Quốc Trưởng Norodom Sihanouk rất tế nhị, không trực tiếp hội đàm với đức Hộ Pháp như những lần tiếp kiến đức Ngài trong năm 1950 và 1952 vô cùng tôn kính, mà lại ủy nhiệm cho Thủ Tướng Pen Nouth Chánh Phủ Hoàng Gia tiếp kiến phái đoàn Cao Đài. Do đó đức Ngài chỉ định cho Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa hội đàm với Thủ Tướng Pen Nouth.

Thấu rõ thân phận của người lưu vong và từng kinh nghiệm 5 năm 2 tháng bị tù đày ở Phi Châu Madagascar vào những năm 1941 - 1946, đức Hộ Pháp thông cảm hoàn cảnh của Quốc Trưởng Norodon Sihanouk lúc bấy giờ không thể trực tiếp nghinh đón đức Ngài một cách tưng bừng trọng thể như trước kia.

Tình đời là thế! Nhưng vì sứ mạng của đức Chí Tôn giao phó, đức Ngài không ngần ngại lìa xa Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh để lưu vong qua Cao Miên, một nước Trung Lập hầu tránh áp lực của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản để đề xướng Chánh sách Hòa Bình Chung Sống, bất chấp hiểm nguy đe dọa, và chấp nhận mọi khổ đau tủi nhục của dân tộc bị ngoại bang áp đặt chia đôi lãnh thổ….

Nỗi khổ tâm nhất của đức Hộ Pháp lúc bấy giờ là thỉnh thoảng tiếp nhận được điện tín hoặc phúc trình của Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh và ban vận động CSHBCS Miền Nam báo cáo bổn đạo nơi tỉnh này, tỉnh nọ bị đàn áp, bắt bớ giam cầm, và bỏ mình trong ngục thất. Lòng ưu ái của đức Hộ Pháp đối với số chức sắc, chức việc và bổn đạo vô cùng sâu sắc, nhất là khi được tin đồng đạo bị bắt bớ giam cầm. Cũng như ở tại thủ đô Phnom Penh, Sĩ Tải Lê Quang Tấn phải bị 3 tháng tù với tội danh: Đột nhập vào nước Cao Miên bất hợp pháp. Vừa ra khỏi khám đường, đức Ngài đã an ủi Sĩ Tải Tấn với lời phán dạy hết sức xúc động: "Nếu bần đạo không bị bệnh con không bị kêu án 3 tháng tù đâu". Lời phán dạy của đức Ngài chưa chấm dứt thì hai dòng lệ từ từ chảy trên đôi má, khiến cho cả phái đoàn lưu vong hiện diện không cầm được giọt lệ tự nhiên tuông trào. Đức Ngài tiếp: "Bần đạo đã lớn tuổi rồi, không thể lột da sống đời để lo cho các con mãi được. Tương lai của đạo, của đất nước Việt Nam đều do ở các con, các con là đàn hậu tấn có trách nhiệm phải nối tiếp, Bần đạo chỉ là người tiền phong lo khai sáng nền đại đạo, đó chỉ là bước đầu hy sinh lót đường mà thôi.



Tương lai của Đạo sau này sẽ thuộc thẩm quyền của đàn hậu tấn chăm lo tô điểm cho thiên hạ! Sứ mạng của đàn hậu tấn là như vậy.

Ngày giờ nào có kẻ thất thế yếu cô, rách rưới lang thang, đói cơm khát nước, khổ não tâm hồn, không ai che chở bênh vực, chừng ấy nhiệm vụ trọng yếu của các con là phải ra tay gánh vác. Đó là cơ cứu khổ thực hiện…"

Đồng thời, đức Hộ Pháp liền bảo vị Hành Thiện Nguyễn Văn Hiệu, một ủy viên trung tín trong phái đoàn lưu vong: "Hiệu! Con vào lấy áo trường y của Bần đạo đưa cho anh con, Sĩ Tải Lê Quang Tấn để mặc vào đi trình diện bộ an ninh chánh phủ Hoàng Gia." Vị Hành Thiện Nguyễn Văn Hiệu tuân lời và đem áo trường y đến, đức Ngài liền bảo: Sĩ Tải, Bần đạo ban cho con bộ thiết giáp, con hãy mặc vào và cùng đi với Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đến trình diện với ông Kou Roun, Bộ Trưởng an ninh chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên để xin tỵ nạn chánh trị tại Phnom Penh. Sĩ Tải Tấn cung kính tiếp nhận cái áo của đức Hộ Pháp vừa ban cho, mặc vào xong thì đại huynh Bảo Đạo Khoa cùng Sĩ Tải Tấn lên xe đi thẳng đến bộ an ninh được ông Benkabo Đổng Lý Văn Phòng Bộ An Ninh niềm nở tiếp đón, và sẵn sàng ký giấy phép cho ty nạn chánh trị tại Thủ Đô Phnom Penh (mỗi 3 tháng phải đến trình diện xin gia hạn tiếp).

Ngày 6-5-Đinh Dậu (3-6-1957) đức Hộ Pháp nhận được điện tín từ Tòa Thánh Tây Ninh phúc báo hiền huynh Thừa Sử Phan Hữu Phước đã bỏ xác tại trại giam Thủ Đức (Miền Nam Việt Nam) vào lúc 23 giờ đêm 5-5-Đinh Dậu do hiền huynh Giáo Sư Thượng Giải Thanh báo trình.

Đức Hộ Pháp cho mời Trưởng Huynh Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh, khâm trấn đạo Tần quốc lo thiết lễ truy điệu cho cố Thừa Sử Phan Hữu Phước, vả đức Ngài liền chỉ định cho hiền huynh Đốc Nhạc Trần Thiện Niệm lo buổi lễ Chèo Thuyền tại khách đình lúc 20 giờ đêm 6-5-Đinh Dậu (3-6-1957) rất long trọng. Trong thời gian lưu vong tại Cao Miên, đây là lần đầu tiên đức Hộ Pháp Đến chủ tọa buổi lễ Chèo Thuyền Cố Thừa Sử Phan Hữu Phước đượm tình ưu ái đối với một chức sắc Hiệp Thiên Đài đã trọn hiến thân khổ hạnh cùng nền Đại Đạo.

Bổn đạo nơi trấn đạo Tần Quốc (Cao Miên) còn nhớ rõ, sau buổi lễ chèo thuyền cố Thừa Sử Phan Hữu Phước, đức Ngài cùng cả chức sắc trong phái đoàn lưu vong và Hội Thánh Trấn Đạo cùng bổn đạo nam nữ đồng đến Văn Phòng Khâm Trấn Đạo dùng trà. Đức Ngài ngậm ngùi phán rằng: "Thêm một đúa con trọn trung, trọn hiếu đã trở về với Thầy Mẹ". Thừa sử Phan Hữu Phước từng chịu khổ hạnh, gian lao thử thách, bị tù đày ở Sơn La (Bắc Việt) trong thời kỳ Pháp thuộc, rồi hôm nay vì đường lối Hòa Bình Chung Sống, cố Thừa Sử Phan Hữu Phước đã trọn hy sinh cả kiếp sống bỏ mình trong ngục thất Miền Nam Việt Nam là một sự mất mát lớn lao của Hội Thánh. Đồng thời, đức Ngài liền nhìn qua số chức sắc trong phái đoàn lưu vong tại Phnom Penh phán dạy tiếp: "Rồi đây cả chức sắc, các con phải chịu thúc phược dưới quyền Cộng Sản một thời gian nữa."

Hiền huynh Tổng Giám Võ Văn Khuê (một chức sắc trong phái đoàn lưu vong liền đứng lên bạch đức Ngài: "Chúng con phải chịu thúc phược dưới quyền Cộng sản một thời gian bao lâu?"

Đức Hộ Pháp đáp: "Bần đạo cho hiền đệ một cái Mandat một triệu đồng, mả chư hiền đệ xài mạnh tay quá thì một triệu đồng sẽ hết sớm! Còn đức Chí Tôn cho họ hưởng, mà họ không đạo đức, lại còn tàn bạo quá thì đức Chí Tôn lấy lại sớm!

Chắc các chư hiền đệ và các con còn nhớ bài Ngụ Đời của đức Lý Thái Bạch đã giáng cơ chỉ dạy cho các con từ lâu rồi! Tại sao các con không chịu đọc lại "Ngụ Đời" của đức Lý Đại Tiên?

Những lời phán dạy của đức Lý Thái Bạch đã "tiên đoán" ứng hiện đúng thế cuộc của dân tộc việt Nam trong tương lai."

Thiết tưởng vào đêm 6-5-Đinh Dậu (7-6-1957) đức Hộ Pháp đã tiên đoán trước là dân tộc Việt Nam phải sống thúc phược trong vòng Cộng Sản một thời gian.

Đức Ngài biết rõ luật Thiên Điều đã định vậy, không sao tránh khỏi được. Chẳng lẽ khoanh tay ngồi chờ thế sự xảy đến, nên đức Hộ Pháp tự nguyện nhập Trí Huệ Cung (nhập vào tịnh thất) ngày 16-1-Tân Mão (21-2- 1951), kêu gọi con cái đức Chí Tôn, nhất là Cửu Nhị-Ức Nguyên Nhân hãy tỉnh mộng, mà nhìn lại nơi Trí Huệ Cung. Phải vào nơi cửa này mới đạt đặng cơ giải thoát. Sau đó mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng Sống, mà đức Chí Tôn đã tạo dựng riêng biệt dành để cho mọi người.

Thử hỏi đức Hộ Pháp nhập tịnh để làm gì? Nghĩa lý gì mà ngày 21-2- 1951 phải nhập Trí Huệ Cung trong 3 tháng? Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh như các bạn đã biết. Quyền tận độ đã xuất hiện nơi cửa đạo Cao Đài này. Nó không phải của tư, của đặc biệt chúng ta, mà nó là của cả thể nhân loại trên mặt địa càu này vậy!

Đức Chí Tôn đã đến lập nền Đạo Cao Đài này do nơi chân lý tối cao. Chính đức Chí Tôn đến để diệt mê tín dị đoan và truyền bá một nền đạo chân chính mà thôi. Nhân loại mê tín dị đoan đã nhiều rồi, tinh thần loài người đã bị gạt gầm nhiều rồi, bởi thế nên không thể bị gạt được nữa.

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhập vào Trí Huệ Cung, tịnh luyện trong 3 tháng. Qùi dưới chân đức Chí Tôn thỉnh cầu nơi Ngài cứu độ sanh mạng loài người, vì lẽ nhân loại phạm Thiên Điều, bởi loài người quá dữ gây oan nghiệt nơi mặt địa cầu này đầy dẫy.

Nếu Chí Tôn không có đến hội hiệp con cái của Ngài, lập cơ giải thoát độ tận thì không phương cứu rỗi. Bằng cớ hiển nhiên chúng ta đã thấy, vạn quốc xô nhau đến con đường tử lộ. Bởi quả kiếp, họ chỉ biết cái sống của họ mà chẳng hiểu đến cái sống của người khác, nhất là bạn đồng sanh của chúng ta, để mắt coi họ giết không biết bao nhiêu, giết đặng ăn, ăn đặng sống, sống đặng bao nhiêu tuổi? Giỏi cho lắm kiếp sống của họ cũng không quá 80 tuổi rồi chết, thử hỏi như thế làm sao không gây oan nghiệt tội tình.

Các Tôn Giáo hiện hữu cũng tìm phương cứu rỗi, với rất nhiều hình thức. Cả toàn cầu vạn quốc cũng bày ra vạn quốc thống nhất để tìm giải pháp duy trì hòa bình, tránh cho khỏi nạn tàn sát lẫn nhau.

Ôi! ỷ tài ỷ tận! Lấy trí khôn ngoan để tim cái chết!!! Cả quyền năng cái sống thiêng liêng kia đã ban cho họ, họ lại làm món lợi khí tàn diệt lấy họ đó là "bom nguyên tử". Họ lấy trí khôn tìm ra cái chết chớ không phải tìm lấy cái sống, coi mạng sống của người không ra gì hết, không kể trời đất, đạo lý, luân thường gì hết, không còn kể quả kiếp tội ác, như thế chết cũng vừa! Rồi họ lại tìm đủ cách để tránh tội, nhưng không qua mặt được luật Thiên Điều. Thiên Điều kia, họ không thể di chủ nó được, vi nó cầm sinh mạng của họ, chết hay sống đều do luật Thiên Điều mà thôi, họ không thể tìm bất cứ phương pháp nào để giải quyết được.

Để giải rõ hành tàng trong 3 tháng của đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã nhập Trí Huệ Cung ngày 21-2-1951. Cái hành tàng đó đã quá cũ kỷ chớ không mới lạ gì, hành tàng đó có từ thời thượng cổ! Về mặt đạo, giống như 40 ngày đức chúa Jesus ra ngoài sa mạc khẩn cầu đức Chí Tôn ban bổ hồng ân cho toàn nhân loại đặng đem cơ quan cứu thế của Ngài gieo cho khắp xã hội nhân quần được hưởng. Cũng giống như đức Phật Thích Ca vào vườn Bồ Đề ngồi thiền tịnh đặng xin giải thoát cho chúng sanh.

Về mặt thế, giống như vua David, vì tội tình của nhân loại mà buổi nọ ra đồng sa mạc cầu đạo, xin giải pháp cứu khổ cho dân Israel, và giống như vua Hạ Võ mang hài gai, đội nón lá, chịu phong trần đặng cầu đảo cho quốc dân khỏi tội.

Cần nói rõ hành tàng cho vận mạng của toàn thể nhân loại nói chung, và quốc dân việt Nam nói riêng là nguyên nhân làm cho đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhập vào Trí Huê Cung 3 tháng. Nơi chốn tịch mịch, Ngài đã cầu khẩn với đức Chí Tôn ban hồng ân đặc biệt đặng cứu rỗi lấy họ, là đem cơ quan cứu khổ của Ngài để thực hiện cho toàn thể nhân loại, nhất là sắc dân Việt Nam yêu quí đồng chủng tộc cùng ông Phạm công Tắc.

Thiết nghĩ, một người tượng trưng cho tinh thần đạo đức của dân tộc Việt Nam như đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã có sứ mạng đem tinh thần đạo đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa cải hành tàng hung ác của đời cho thành giọt nước thiêng liêng của đức Chí Tôn. Nước thiêng liêng đạo đức của Ngài, dọn con đường thánh đức sạch sẽ, ấy là nước chí thánh của Ngài, cầm giọt cam lồ đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi mặt địa cầu này.

Cái định mạng của nhân loại cũng như định mạng của toàn thể quốc dân Việt Nam, trong giờ phút này ở trong tay đức Chí Tôn. Luật nhân quả của nhân loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc hòa bình được!

Nền chân giáo của đức Chí Tôn vẫn là đường ngay chánh, nhất định về thể pháp chân truyền không hề mê hoặc ai cả. Những phương pháp mê hoặc của thiên hạ về đạo lý sẽ bị chân truyền của đức Chí Tôn từ từ tiêu diệt hết.

Không có quyền năng thiêng liêng của đức Chí Tôn, không ai cứu chửa tội tình của nhân loại được! Cái mơ vọng của thiên hạ chỉ đạt được khi mà khối chánh đức của họ cao hơn phàm tâm của họ. Đến lúc ấy hạnh phúc của họ mới có và cơ quan cứu khổ của đức Chí Tôn mới thực hiện được.

Đức Hộ Pháp nhập Trí Huệ Cung "thiền định" trong 3 tháng cũng như đức Lý Thái Bạch đã phán dạy trong đàn cơ tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 5-2-1927 (năm Đinh Mão):

THÁI BẠCH

Hỉ chư đạo hữu, chư đạo muội, chư chúng sanh, hảo hội hiệp.

Thảm cho nhân loại, khổ cho nhân loại!

Đời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia, cũng đáng đó chút. Lão vì thương yêu nhân sanh, hội 10 ngày nơi Bạch Ngọc Kinh cải cho qua nạn nhân loại, nhưng luật Thiên Điều chẳng dễ chi sửa đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, tới buổi bệnh chướng sát hại.

Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng chịu, lạy lục khẩn cầu, chư đạo hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như kẻ không hồn thấy càng thảm thiết. Lão tưởng chằng cần phải nói chi một nước nhỏ nhoi, đã đặng danh Thánh Địa là nước Nam này, mà Lão xin không đặng tội cho thành SàiGòn, Chợ Lớn, Gia Định, Huế, Hải Phòng, Hà Nội thay. Thảm! Thảm! Thảm!

Đức Hộ Pháp đã nêu gương trong sáng, suốt cả kiếp sanh đủ can đảm chấp nhận mọi sự thử thách gian lao, bất luận từ đâu đến, không một lời than van oán trách, thừa sức chịu đựng mọi biến cố để cứu vãn tình thế nguy hại cho tương lai tổ quốc và giống nòi Việt Nam.

Kế tiếp đức Ngài còn nhận được nhiều văn thơ của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, Hội Nhân Quyền Quốc Tế, và lãnh đạo các cường quốc nhiệt tình hoan nghinh Chánh sách Hòa Bình Chung Sống đại đồng thế giới dung hòa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản:

- 21-04-1956 :

International Comission for Supervisionand Control in Combodia.

(Chủ Tịch ủy Hội Quốc Tế Kiềm Soát Đình Chiến tại Cao Miên).



- 24-04-1956 :

Sir Winston Churchill Thủ Tướng Anh Quốc, S.W.7

- 24-04-1956 :

Norodom Sihanouk Upayuvareach du Cambođge

(Quốc Trưởng Norodom Sihanouk Cao Miên).



- 24-04-1956 :

President Guy Mollet (Tổng Thống Pháp Quốc).

- 26-04-1956 :

Ministre D'etat Pierre Mendes France.(Quốc Vụ Khanh Pháp Quốc ấn ký).

- 27-04-1956 :

Felipe Polo Martinex Valdés Tây Ban Nha

- 02-05-1956 :

Chef De Section Departement Des Affaires Polique

Et Du Conseil De sécurité United Nations.

(Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ấn ký).


- 03-05-1956 :

Haut Commissariat Republique Francaise Au Cambodge.

(Đại sứ Pháp tại Cao Miên ấn ký).



- 14-05-1956 :

Division Des Droits De L'homme United Nation.

(Hội Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ấn ký).



- 16-05-1956 :

Samdech Norodom Sihanouk Upayuvareach.

(Quốc Trưởng Cao Miên Norodom Sihanouk ấn ký).



- 19-05-1956 :

Office of The President of The Philippines.

(Tổng Thống Phi Luật Tân ấn ký).



- 05-01-1957 :

Sa Majeste Preah Bat Samdech Preah Norodom Surmarit Roi Du Cambodge.

(Hoàng Đế Cao Miên ấn ký).



Ngày 4-1-1958, cụ Tôn Đức Thắng, ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội gởi văn thơ mời đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và phái đoàn Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh ra viếng thăm đồng bào và bổn đạo Cao Đài tại Hà Nội trong dịp tết Nguyên Đán Mậu Tuất.

Phải chăng chánh sách Hòa Bình Chung Sống do đức Hộ Pháp để xướng ngày 26-3-1956 đến nay đã đượm bông trổ trái dung hòa được 2 khối Cộng Sản và Tư Bản gần gủi với nhau, tương nhượng nhau để tồn tại, ngõ hầu góp phần tháo gỡ nguy cơ tiêu diệt.

Một điểm mừng cho cả nhân loại là tiếng súng chiến tranh im bặt và cường quốc trên thế giới đã bắt tay làm "sứ đồ" thay vì đánh nhau khốc liệt, nhất là các lực lượng đối đầu nhau, kình chống nhau, đã bắt đằu thảo luận chấm dứt sự xung đột.

Những lời tuyên truyền, những luận điệu công kích thóa mạ nhau không còn xuất hiện, thay vào đó là những lời lẽ đầy thân ái chúc tụng, những đề nghị hợp tác song phương và đơn phương liên tiếp được ký kết.

Qủa thật là một biến chuyển hi hửu, ngoài sức tưởng tượng của nhân loại. Chỉ mới vài năm trước đây thôi, còn dãy đày những lò lửa, những hầm thuốc nổ, sẵn sàng nổ tung bất kỳ lúc nào, mà gần đây nhiều cuộc chiến tranh đang bước vào giai đoạn kết thúc thật sự. Một bằng chứng hiển nhiên là nhiều tên lửa chực chờ giết người đã bắt đầu bị tháo gở và phá hủy. Đây là một việc vui mừng cho cả nhân loại.

Một việc hi hửu nữa là 2 nhà lãnh đạo tối cao: Nikhain Gorbachov Tổng bí thư Liên xô và Ronald Reagan Tổng Thống Mỹ cơ hồ như bế tắc trong cuộc gặp gỡ hội đàm đầu tiên vào tháng 11 năm 1985. Trong vòng 40 năm qua 1945-1985, 2 nhà lãnh đạo tối cao Liên xô và Mỹ trước đây chỉ có 12 lần tiếp xúc hội đàm với nhau mà thôi. Hôm nay vì sứ mạng sống còn của nhân loại trên thế giới, họ đã ý thức trách nhiệm chung của họ nên chỉ trong 30 tháng qua 1985 - 1988 đã có 26 lần bộ trưởng ngoại giao của 2 nước Mỹ và Liên Xô gặp gỡ nhau thảo luận nhiều vấn đề quan hệ giữa đôi bên, đưa đến cuộc gặp gỡ đầu tiên tại Génève tháng 11, 1985, mà lại gặp khó khăn, cơ hồ muốn bế tắc. Do đó Tổng Thống R. Reagan mới đề nghị với Tổng Bí Thư M. Gorbachov: Thôi chúng ta bắt tay làm Sứ Đồ tìm một giải pháp thích hợp dung hòa đôi bên!

Huyền diệu thay! Nhờ quyết tâm tin tưởng và chấp nhận làm Sứ Đồ để tìm một giải pháp dung hòa, nên Tổng Thống Reagan và Tổng Bí Thư Gorbachov mới ký kết được hiệp ước đầu tiên vào tháng 11, 1985, khai thông cho các đàm phán kế tiếp trong những năm sau này:

- Hội đàm lần thứ nhất tại Génève tháng 11 năm 1985.

- " hai Reykjavid 10 1986

- " ba Washington 12 1987

- " tư Moscow 05 1988

Đặc điềm của cuộc hội đàm lần thứ tư tại Mạc Tư Khoa, lần này lại xảy ra sự bất đồng giữa Tổng Bí Thư Gorbachov và Tổng Thống Reagan cơ hồ như muốn bế tắc, chẳng khác nào như buổi gặp gỡ hội đàm lần đầu tiên tại Génève năm 1985. Buổi họp đang căng thẳng thi Tổng Bí Thư M. Gorbachov liền lên tiếng đề nghị với Tổng Thống R. Reagan: Chúng ta nắm tay nhau làm "Sứ Đồ” lần thứ 2, hầu tìm phương pháp dung hòa, giải quyết vấn đề cho được thỏa hiệp cùng nhau, và được sự đồng tình chấp nhận của Tổng Thống R. Reagan. Nhờ vậy mà cuộc hội đàm lần thứ tư tại Mạc Tư Khoa 1988 mới thoát khỏi sự bế tắc, và đã đạt được kết qủa tốt đẹp đúng theo sự mong muốn của đôi bên vào ngày 29-5-1988 tại Moscow.

Chính Tổng Bí Thư M. Gorbachov không ngần ngại tự thuật cho cả phóng viên báo chí quốc tế biết rõ tại cuộc hội đàm lần thứ tư 29-4-1988, là đã 2 lần tự nguyện làm "Sứ Đồ" nên bản thông cáo chung hôm nay mới có dịp ký kết trong bầu không khí vui tươi, cởi mở của 2 phái đoàn Cộng Sản và Tư Bản đã nắm tay nhau làm Sứ Đồ trong 2 lần hội đàm tại Génève 1985 và 1988 vượt qua mọi khó khăn cơ hồ như bế tắc. Nếu Tổng Bí Thư M. Gorbachov không tự thuật những giao kết của 2 nhà lãnh đạo tối cao nắm tay làm sứ đồ để tìm giải pháp tương nhượng nhau, thì cả thế giới chẳng một ai làm gì hiểu biết sự việc hi hửu tình nguyện làm sứ đồ của Tổng Bí Thư M. Gorbachov và Tổng Thống R. Reagan, để đưa nhân loại thoát khỏi hiểm họa diệt vong do chiến tranh nguyên tử đang đe dọa.

Ngộ nghĩnh thay! Nhà lãnh đạo tối cao khối Cộng Sản M. Gorbachov đã ý thức trách nhiệm đối với nhân loại trên thế giới, nên sẵn sàng tự nguyện làm "Sứ Đồ" với Tổng Thống R. Reagan để dung hòa tìm giải pháp hòa bình đại đồng-thế giới. Đây là một diễm phúc lớn lao cho cả nhân loại trên mặt địa cầu này, mà người tín hữu Cao Đài có quyền tin tưởng rằng Thượng Đế đã xoay chuyển thức tỉnh Tổng Bí Thư M. Gorbachov và Tổng Thống R. Reagan để đưa lần nhân loại đến sự thương yêu và công bằng trong tình huynh đệ đại đồng.

Định nghĩa 2 tiếng Sứ Đồ vô cùng thâm thúy đến vận mạng tương lai cho các nước nhược tiểu và cả nhân loại đang phập phồng lo sợ chiến tranh nguyên tử sắp xảy ra trong mai hậu đã bắt đầu tin tưởng 2 khối Cộng Sản và Tư Bản dung hòa tương nhượng nhau trong tình thương của Thượng Đế.

Kế tiếp, tình hình quốc tế biến chuyển theo chiều hướng tốt đẹp của những lời tuyên bố Tổng Bí Thư M. Gorbachov: Biến gươm đao thành lưỡi cày. Thiết lập một khu vực không có khí giới hạt nhân, khu vực Hòa Bình ở Châu Á Thái Bình Dương.

Một thế giới không có vũ khí và bạo lực, một thế giới mà mỗi dân tộc đều được tự do lựa chọn con đường phát triển lối sống của mình.

Người tín hữu Cao Đài rất hãnh diện là có một vị lãnh đạo là cố Hộ Pháp Phạm Công Tắc, trước đây 30 năm, không một ai ngờ được là 26-3-1956, đức Ngài đã đề xướng chánh sách Hòa Bình Chung Sống, ý thức 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đang đối nhau kịch liệt, thề không đội trời chung, kẻ mất người còn, thì làm sao tránh khỏi những lời phê phán nông cạn, hẹp hòi, ích kỷ: "Làm gì dung hòa được 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, rất uổn công mò kim đáy giếng", nhưng đã vô tình quên đi bài học lịch sử trước kia, cũng vì quá nông cạn, vội vàng phán đoán, phủ nhận sáng kiến của Bác Sĩ Kopemic ở thế kỷ thứ 17, minh chứng quả đất xoay quanh mặt trời.

Hân hạnh thay! Trên 30 năm qua, đức Hộ Pháp đã tiên đoán 2 khối Cộng Sản và Tư Bản nhất định phải dung hòa nhau để tồn tại sống còn, và hôm nay đã trở thành hiện thực, mà cả nhân loại trên hành tinh này không thể chối cải được. Chính Tổng Bí Thư M. Gorbachov và Tổng Thống R. Reagan đã 2 lần đóng vai tuồng "Sứ Đồ" để hoàn thành tốt đẹp 4 lần hội đàm, tháo gở ít nhiều sự hiềm khích trước kia, để đi đến sự hiểu biết nhau, tương nhượng nhau, đỡ phần âu lo cho nhân loại về chiến tranh hạt nhân.

Với trọng trách của đức Thượng Đế đã giao phó, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh, đức Ngài hết Âu du rồi Á du. Ngài đã từng hướng dẫn phái đoàn Chức sắc Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh viếng thăm Tổng Thống nước Triều Tiên, cùng như thăm Tổng Thống Tưởng Giới Thạch để phổ biến nền Đại Đạo ở Á Châu, gây tình huynh đệ mật thiết với Nam Triều Tiên và Đài Loan.

Để tưởng niệm công đức những bậc anh hùng dân tộc đã trọn hy sinh vì dân vì Tổ Quốc, đức Hộ Pháp đáp ứng đúng lời di ngôn cuối cùng của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để điện hạ. Ngày 12-10-1954, đức Ngài hướng đứa một phái đoàn chức sắc sang Tokyo (Nhật Bổn) rước tro đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để từ Đông Kinh về SàiGòn và quàng tại đền thờ Đức Tổ Hùng Vương SàiGòn trong 3 ngày đêm liên tiếp cho thân hào nhân sĩ, dân chúng, cùng ngoại giao đoàn đến tưởng niệm công ơn bậc anh hùng đã hy sinh thể xác nơi đất khách quê người. Sau khi đồng bào đến tưởng niệm xong rồi, Hội Thánh Cao Đài mới rướt tro đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Điện Hạ về Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh lo phần hương khói.

Thừa cơ hội đức Hộ Pháp đã lưu vong qua nước Cao Miên, ngày 16-2-1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ thị cho phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ hướng dẫn Tráng Củ và Tráng Liệt (2 người con trai của đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ở tại Huế) cùng đi lên Tây Ninh hiệp với ông Tỉnh Trưởng Tây Ninh là Nguyễn Văn Vàng làm áp lực cưởng chế Hội Thánh Cao Đài, bức bách buộc phải giao "tro đức Cường Để" cho Tráng Củ và Tráng Liệt mang tro về Huế để thờ phượng và lo phần hương khói.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại quá quan tâm lo ngại đến chánh sách Hòa Bình Chung Sống đang phát triển nhanh chóng trên khắp các tỉnh, quận, xã Miền Nam Việt Nam, do chức sắc Hiệp Thiên Đài như: Phạm Duy Nhung, Nguyễn Minh Ngòi, Huỳnh Văn Hương, Nguyễn Thành Nguyên, Nguyễn văn Tú, Nguyễn Ngọc Trân, Nguyễn Hữu Khỏe, Trần Tấn Hợi, Bùi Văn Tiếp, Đồ Hoàng Giảm v.v. ., thuộc ban vận động CSHBCS Miền Nam là một chướng ngại lớn lao cho chế độ Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ. Do đó chánh quyền Miền Nam Việt Nam mới ra tay trấn áp Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh bằng biện pháp khống chế Hội Thánh phải giao phần tro cốt đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để mà Hội Thánh đã lo phần hương khói suốt một năm qua tại Báo Ân Từ cho Tráng Củ và Tráng Liệt thỉnh đem về gia đình ở Huế để thờ phượng, với mưu đồ đào tận rễ, là không còn lưu lại chút di tích chánh trị của Đức Cường Để Điện Hạ còn sót lại tại vùng Thánh Địa Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh.

Sau khi tỉnh trưởng Tây Ninh Nguyễn Văn Vàng và Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ trấn áp Hội Thánh trong buổi họp kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ, Đại Huynh Hiến Pháp Trương Hữu Đức bực mình. Trên cương vị Đại Diện Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh mà bị trấn áp, Ngài Hiến Pháp liền cáo từ rời khỏi phòng họp với lý do kém sức khỏe, nhường cho Hội Thánh thảo luận vối phái đoàn Chánh Phủ do Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ hướng dẫn.

Biết rõ sự rút lui của Ngài Hiến Pháp, Tỉnh Trưởng tỉnh Tây Ninh Nguyễn Văn Vàng mới chấp nhận danh từ Biên Nhận do Sĩ Tải Lê Quang Tấn đã đề nghị buổi ban đầu, không còn bảo thủ danh từ Giao Lãnh như trước nửa mà phải ghi rõ là tờ "Biên Nhận".

Việc tranh luận danh từ Giao Lãnh và Biên Nhận được ngã ngũ là tờ Biên Nhận, và Hội Thánh nhượng bộ cho phái đoàn Chánh Phủ lấy tro của đức Cường Để đang được lo phần hương khói tại Báo Ân Từ.

Sau khi Phái Đoàn Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ làm áp lực Hội Thánh lấy tro đức Cường Để tại Báo Ân Từ xong, thì đến Đền Thánh vào bái lễ đức Chí Tôn. Khi Phái Đoàn vừa ra khỏi Đền Thánh bước xuống tam cấp (các nấc thang trước Đền Thánh) thì bị Sĩ Tải Lê Quang Tấn chận lại với sự trợ lực của Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân không cho Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ bước lên xe. Bị bắt buộc, Phó Tổng Thống Thơ phải ra lịnh cho Tỉnh Trưởng Vàng phải trao cho một tờ Biên Nhận (theo đề nghị của sĩ Tải Tấn) cầm làm bằng mới được bước lên xe trở về SàiGòn. Thình lình bị sĩ Tải Tấn ngăn chận, Phó Tổng Thống Thơ rất bực bội, tự ái, lớn tiếng truyền lịnh: "Anh Vàng đưa cho họ một tờ biên nhận đi."

Trước tình thế bắt buộc chẳng đặng đừng, Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Vàng phải trao cho sĩ Tải Lê Quang Tấn một bản Biên Nhận ấn ký đã nhận phần tro của đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để để làm bằng. Đồng thời, Phó Tổng Thống Thơ liền gọi Trung úy Trưởng Ty Công An Tây Ninh đến bến cạnh vả chỉ thị cho Trung úy Phước "Tôi gởỉ 2 vị này cho anh" sự diễn tiến đã gây nhiều dư luận xôn xao cho số chức sắc và bổn đạo đứng chung quanh, nhất là lời chỉ thị ngắn gọn của Phó Tổng Thống Thơ bao gồm sự đe dọa sâu sắc cho số phận của nhị vị Sĩ Tải Lê Quang Tấn và Nguyễn Ngọc Trân.

Việc gì đến nhất định phải đến, chỉ vì bảo thủ sỉ diện trước chỗ đông người, Phó T.T.Thơ mới gởi Sĩ Tải Tấn và Trân cho Trưởng Ty Công An Tây Ninh như thế. Cả chức sắc hiện diện tin chắc rằng tai họa sẽ ập đến cho nhị vị Sĩ Tải Tấn và Trân.

Quả thật không sai, chỉ 3 ngày sau thi Tỉnh Trưởng Tây Ninh Nguyễn Văn Vàng có thơ mời nhị vị Sĩ Tải Lê Quang Tấn và Nguyễn Ngọc Trân đến Tòa Hành Chánh Tỉnh Tây Ninh để thẩm vấn nhiều việc gay gắt, nhưng uy quyền Hội Thánh vẫn còn, nên mọi việc đều được xếp lại êm ấm.

Thiết nghĩ vào năm 1926 dân số Tỉnh Tây Ninh chưa được 40.000 người. Nhưng kể từ khi đức Ngọc Hoàng Thượng Đế hoằng khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trên nước Việt Nam, lại chọn Tỉnh Tây Ninh để kiến tạo ngôi Đền Thánh Cao Đài thì đồng bào ở các Tỉnh ồ ạt qui tụ về Tòa Thánh Tây Ninh càng thêm đông đảo, và dân số Tây Ninh tăng lên trên 400.000 trong năm 1956.

Hồi tưởng lại, với 2 bàn tay trắng, đức Hộ Pháp và một số Chức sắc, Bổn Đạo "Tiền Bối" đã vững niềm tin nơi đức Cao Đài Thượng Đế, chẳng ngại gian lao khổ cực, đã dày công khai sơn phá thạch, đốn gốc phá chồi, biến 96 mẫu rừng hoang vu đầy hùm beo ác thú trở thành một vùng Thánh Địa trù phú. Nơi đây có một ngôi Đền Thánh khang trang lộng lẫy, có thể sánh vai cùng các kỳ quan thế giới, có nhiều dinh thự, văn phòng, cơ sở, trung tiểu học, viện đại học, dưỡng lão đường, cô nhi viện, bệnh viện, Trí Huệ Cung, Trí Giác Cung, Vạn Pháp Cung và lại thêm có một phi trường nằm cạnh bốn Trí Huệ Cung, nhất nhất đều do sáng kiến, hướng dẫn, đôn đốc sáng tạo của Đức Hộ Pháp.

Du khách thập phương mỗi khi đến viếng Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, không một ai nghĩ rằng trước đây là một khu rừng cấm hoang vu, không một ai lui tới khi mặt trời bắt đầu xế bóng, mà hôm nay trở thành một đô thị khách vãng lai tấp nập.

Một bằng chứng còn lưu lại đối với các du khách và phái đoàn các Tôn Giáo, là chỉ nhìn vào hàng cây cổ thụ trước Đền Thánh mà từ trước đến giờ thưòng gọi là “rừng thiên nhiên”, một di tích lịch sử, khối đức tin mãnh liệt của Bổn đạo Cao Đài. Không cơ khí, chỉ 2 bàn tay trắng, đã biến khu rừng cấm 96 mẫu hoang vu trong thời gian kỷ lục là 3 tháng đã trở thành phồn thịnh, với những đại lộ thênh thang như Bình Dương Đạo v.v... Dọc ngang những con đường thẳng tấp, những cây cầu như Đoạn Trần Kiều, Giải Khổ Kiều v.v... bao bọc vùng Thánh Địa vói 20 Phận Đạo, nhà cửa được xây cất ngay hàng thẳng lối dọc theo các Phận Đạo thuộc ngoại ô Tòa Thánh xuyên thẳng vào các cửa ra và vào Nội Ô Tòa Thánh. Ngoài ra đức Hộ Pháp có sáng kiến tạo thành Đại Lộ Chánh Môn, mà bổn đạo thường gọi là Đại Lộ Xuyên Á, tức là Đại Lộ này sẽ nối liền với các nước Châu Á trong tương lai.

Điểm đặc biệt là các du khách đến viếng Tòa Thánh Tây Ninh, một nơi không thể quên được là "Chợ Long Hoa" hay Long Hoa Thị chuyên bán đồ ăn chay quanh năm suốt tháng. Nổi bậc nhất là sự mua bán rất phải chẳng, không thách giá, và cân đo lường sòng phẳng, nhã nhặn, vui vẻ và rất mến chuộng khách hàng, bất luận từ đâu đến, đó là niềm tự hào của tín hữu Cao Đài tự bảo vệ thanh danh cho Long Hoa Thị mà các phái đoàn du khách thường nhắc nhở khen ngợi: Chợ Long Hoa rất thanh lịch, mẫu mực. Tiếng đồn vang dội về Long Hoa Thị vẫn còn ghi đậm vào ký ức các du khách vãng lai. Các tín hữu Cao Đài thuộc nhiều thế hệ sanh ra lớn lên trong vùng Thánh Địa hào hùng, đạo đức, không bao giờ xao lảng công ơn đức Hộ Pháp đã dày công huấn giáo, rèn luyện đi vào nề nếp và rất xứng danh Long Hoa Thị, gương mẫu về thái độ lịch sự, niềm nở, ân cần, nhiệt tình và trách nhiệm trong việc giao tế với khách hàng. Đó là nét đặc trưng nổi bật của Long Hoa Thị lúc bấy giờ.

Đức Hộ Pháp thường nhắc nhở và chỉ dẫn các Chức Sắc, Chức Việc, Bổn Đạo về việc lập công bồi đức trong nền Đại Đạo. Chẳng những dành riêng cho hàng Chức Sắc Thiên Phong, mà đức Chí Tôn còn chiếu cố cho cả môn đệ, bất luận nam nữ mỗi người đều có đức tin vững chắc nơi Thầy, Mẹ cùng nhiệt tâm trọn hiến mảnh thân phàm vun bồi công quả, nhất định sê đạt được phẩm vị thiêng liêng của Chí Tôn đã dành sẵn. Những gương trong sáng của Phối Thánh Màng Và Bùi Ái Thoại mà toàn cả Bổn Đạo đều biết rõ, chỉ là một "tín hữu công quả" thợ hồ, thợ đấp vẽ, đã dày công qủa kiến tạo ngôi Đền Thánh mà vẫn đạt được Phẩm Phối Thánh, một phẩm vị thiêng liêng cao trọng mà đức Chí Tôn đã dành sẵn cho cả môn đệ hiếu thảo, khi thoát xác phàm.

Một truyền thống đặc biệt của Tỉnh Tây Ninh mãi còn lưu lại là "trò nhớ ơn thầy" mà đức Hộ Pháp hằng quan tâm gìn giữ, bảo vệ với tinh thần "Tôn sư trọng đạo", đức Hộ Pháp đã nêu cao gương trong sáng mẫu mực của người học trò, lúc nào cũng nhớ đến công ơn ông thầy dày công huấn giáo, rèn luyện và đào tạo mình trong lúc còn niên thiếu cho đến khi trở thành người hữu dụng cho xã hội sau này.

Theo thông lệ hàng năm, mỗi độ xuân về, Tết Nguyên Đán, đúng ngày mùng 3 Tết, mặc dù là một chức sắc lãnh đạo Tôn Giáo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, đức Phạm Công Tắc không quên bổn phận đối với ông Thầy đã dạy minh học trước kia. Đức Ngài mặc Quốc Phục, áo dài đen, chích khăn đóng đen đúng theo phong tục tập quán cổ truyền Việt Nam, thân hành đến tận nhà ông Thầy dạy học trước kia là ông Đốc Học Giảng để mừng tuổi ông Thầy cũ, tỏ lời tôn kính và chúc mừng năm mới. Chính vì điều này, đức Hộ Pháp đã lưu lại tấm gương trong sáng cao đẹp cho 3 triệu tín đồ hằng ghi nhớ "tôn sư trọng đạo", và cho đồng bào Tỉnh Tây Ninh "Trò nhớ ơn thầy".

Vì lý tưởng sống cho muôn dân, cho cả nhân loại bằng chủ thuyết Hòa Bình Đại Đồng Thế Giới, nhất là thảm cảnh lầm than thống khỗ của đồng bào 2 miền Nam-Bắc Việt Nam, cũng như bao nỗi thăng trầm của đất nước, nên đức Hộ Pháp mới có văn thư số: 21/HP-VPHN ngày 26-3-1956 gởi đến cụ Hồ Chí Minh, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và gởi đến cụ Ngô Đình Diệm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa một chương trình thống nhất đất nước Việt Nam. Văn thư này đề cho 2 cụ trọn tâm nghiên cứu và tìm phương pháp hay khéo bổ cứu vào mọi khuyết điểm, hầu chánh phủ 2 miền Nam - Bắc có thể thực hiện được. Để đáp ứng đúng nguyện vọng của đồng bào trên toàn quốc, nhất là kêu gọi lòng ái quốc nồng nàn của 2 cụ, bản văn thư kêu gọi hãy cương quyết gạt bỏ mọi tư hiềm, thành kiến, không để ngoại bang xâm nhập vào nội quyền Việt Nam và tìm phương cứu nước.

Đức Hộ Pháp đã tự nguyện hiến mảnh thân phàm làm con tế vật phụng sự nhân loại, từng lãnh cái khổ của muôn người làm cái khổ của chính mình, để thắng khổ rồi giải khổ. Vì thế mà đức Ngài thường nhắc nhở, giáo huấn cả Chức Sắc và Bổn Đạo: "Quyền luật nào lập ra tại mặt địa cầu này mà không trái với tâm lý của nhân loại thì nó sẽ tiến triển theo sự tấn hóa của nhân loại, đặng bảo tồn sanh mạng của nhân loại cho được vĩnh viễn và hạnh phúc. Ấy thế đạo của đời chân chánh đó vậy!". Đức Ngài cũng thường huấn giáo: "Đức Chí Tôn đến hoằng khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trên đất nước Việt Nam, đức Chí Tôn không bắt buộc môn đệ của Ngài làm gì quá sức mà chỉ bắt buộc môn đệ của Ngài phải thực hiện cho ra thiệt tướng sự thương yêu và quyền công chánh nơi mặt thế này thì đạo Cao Đài mới ra thiệt tưởng".

Niên kỷ càng cao sức phàm càng yếu lại thêm chồng chất nỗi lo âu của đồng bào 2 miền Nam - Bắc đang chia đôi, ngoại quyền chi phối, bao nhiêu thảm cảnh của đồng bào và Bổn đạo dồn dập, đức Hộ Pháp qúa suy tư lo nghĩ nên thọ bệnh áp huyết cao, phải vào nằm điều trị tại bệnh viện Foundation Calmette Thủ Đô Phnom Penh.

Đang nằm trên giường bệnh, đức Ngài cho mời một số Chức Sắc Trấn Đạo Tần Quốc tại Phnom Penh đến tận giường bệnh để nghe những lời phán dạy sau cùng: Bần Đạo qui thiên, tạm gởi thể xác nơi đất Cao Miên một thời gian, ngày nào nước nhà độc lập, thống nhất, hoặc thực hiện đúng theo chánh sách hòa bình, trung lập, mục phiêu đời sống của bần đạo, thì mới đưa Liên Đài về Tòa Thánh Tây Ninh.

Đại huynh Chánh Phối sư Thái Khí Thanh, khâm trấn đạo Tần Quốc, đại diện cho cả chức sắc nam nữ hiện diện tôn kính đáp: đệ tử xin trọn tuân lệnh đức Ngài. Đức Hộ Pháp tiếp: "Bần đạo tạm gởi thể xác lại đất Cao Miên là bần đạo cùng muốn chung chịu cảnh chia đôi của đồng bào 2 miền Nam-Bắc. Bần đạo đã tiên liệu rồi, việc phải đến sẽ đến, nước nhà chưa thống nhất thì không gấp gì hồi hương. Vậy phải bình tâm chờ một thời gian nữa sẽ thấy thiên cơ xoay chuyển có lợi cho Việt thường về mặt tinh thần".

Đồng thời, đức Hộ Pháp còn gởi cho quốc trưởng Norodom Sihanouk bức di ngôn, và kính gởi đến Hoàng Thượng Norodom Surmarit (Vua cha thái tử Sihanouk) hết sức thâm thúy thân tình (cả hai bức thơ đều viết bằng Pháp Ngữ).



Xin tạm dịch bức di ngôn gởi cho Quốc Trưởng Norodom Sihanouk ra Việt Ngữ:

Hộ Pháp Phạm Công Tắc

Kính gởi Hoàng Thân Norodom Sihanouk

Thưa Điện Hạ

Bần đạo gi những dòng chữ này đến Điện Hạ trên giường bệnh của bần đạo (bệnh viện Calmette). Sức khỏe của bần đạo càng ngày càng suy giảm và bần đạo nghĩ không còn sống bao lâu nữa.

Vậy bần đạo gởi những dòng chữ này để cám ơn Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia đã dành cho bần đạo với đoàn tùy tùng và cho tất cả tín đồ Cao Đài của bần đạo sự khoản đãi rộng rãi và sự dễ dãi.

Bần đạo thành tâm cầu nguyện Thượng Đế Cao Đài và Phật Tổ ban hồng ân che chở cho Vương Quốc Cao Miên và Điện Hạ để chóng thực hiện và nhất là thành công vẻ vang Chánh Sách Hòa Bình, Trung Lập và Chung Sống. Chánh sách đặc biệt và ưu ái của bần đạo, mà chưa thể thực được.

Bần đạo thành tâm ước mong rằng tổ quốc thân yêu của chúng tôi, nước Việt Nam, có thể đeo đuổi Chánh Sách ấy trong một ngày gần đây. Tay bắt tay cùng đi với nước Cao Miên trong đường lối thương yêu và cộng đồng giữa hai dân tộc Miên - việt.

Bần đạo sẽ hoàn toàn sung sướng được yết kiến lần cuối cùng với Điện Hạ, để tỏ bày tất cả những lời cám ơn của bần đạo, nhưng bần đạo không biết sức khỏe của bần đạo còn chờ được hay không ngày trở về của Điện Hạ.

Dù sao tình thân hữu thâm niên của chúng ta, nhân danh lòng thương yêu và tình huynh đệ giữa hai dân tộc Miên Việt, và nhất là nhân danh tương lai bất khả phân ly của 2 nước chúng ta Cao Miên và Việt Nam.

Bần đạo cung kính xin Điện Hạ như một ân huệ cuối cùng đặc biệt cho Thánh Thất Cao Đài chúng tôi khỏi phải chịu dưới lệnh phá hủy, để giữ kỷ niệm độc nhất của bần đạo trên đất Cao Miên.

Để giúp Điện Hạ có một ý tưởng đúng đắn về tình hình qua, bần đạo trân trọng gởi đến Điện Hạ bản sao đơn thỉnh nguyện của bần đạo vừa chuyển đệ đến Hoàng Thượng.

Bần đạo phải thoát kiếp nơi đây. Bần đạo xin yêu cầu Điện Hạ cho phép bần đạo tạm gởi thi hài ở nơi đất Cao Miên, dưới sự bảo vệ tối cao của Hoàng Gia Cao Miên. Ngày nào tổ quốc thân yêu của chúng tôi là nước Việt Nam được thống nhất và theo Chánh sách Hòa Bình Trung Lập mục phiêu đời sống của bần đạo, tín đồ của chúng tôi sẽ di thi hài về Tòa Thánh Tây Ninh.

Bần đạo khẩn cầu Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia, sau khi bần đạo thoát xác, dành cho đoàn tùy tùng và cả thiện nam tín nữ của bần đạo sự khoản đãi rộng rãi, và sự dễ dãi như trước để tu hành theo Tôn Giáo của chúng tôi.

Biết rằng Điện Hạ sẽ chiếu cố đến đơn thỉnh cầu này, bần đạo sẽ thanh thản nhắm mắt đem theo cái kỷ niệm dịu dàng nhất trong đời của bần đạo.

Cung kính xin Điện Hạ chấp thuận lòng tri ân vĩnh Viễn của bần đạo.

Phnom Penh, ngày 14 tháng 5 năm 1959.

HỘ - PHÁP

( Ẩn Ký )

PHẠM CÔNG TẮC

226, Phlauv Preah Bat Norodom à Phnom Penh.

Di ngôn của đức Hộ Pháp biểu lộ khí phách hào hùng, sống phụng sự cho nòi giống, cho nhân loại, thác-kỳ vọng ngày thanh bình cho đất nước Việt Nam.

Mặc dù đang, nằm trên giường bệnh, đức Ngài gọi từng chức sắc đến căn dặn từng chi tiết, trách nhiệm của mỗi chức sắc, nhất là hướng dẫn những chức sắc tùy tùng trong đoàn lưu vong nhiều điều cần thiết trong mai hậu.

Lại thêm một việc thận trọng chưa từng có, là sau khi gởi bức thơ di ngôn chuyển đệ lên Quốc Trưởng Norodom Sihanouk vào ngày 14-5-1959, do Sĩ Tải Lê Quang Tấn ghi vào "sổ chuyển giao" và chính tay Sĩ Tải Tấn đã đem vào Hoàng Cung nhận lãnh, ký tên vào sổ chuyển giao hẳn hòi, song đức Ngài còn bảo mời Trưởng Huynh Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh khâm trấn Đạo Tần Quốc đến tận giường phán dạy: "ngày thứ bảy là ngày Hoàng Thượng Norodom Surmarit tiếp kiến thần dân Cao Miên theo thông lệ vào thứ bảy hàng tuần, Hiền Đệ và Giáo Hữu Thái Đồng Thanh hãy vào Hoàng cung bái kiến Hoàng Thượng Surmarit dâng bức di ngôn của bần đạo đến tận tay Hoàng Thượng tường lãm".

Tuân lịnh đức Ngài, Trưởng Huynh Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh và Giáo Hữu Thái Đồng Thanh đã đến Hoàng Cung vào sáng ngày thứ bảy, được ban tổ chức sắp xếp nhị vị qùi vào hàng thứ 3 trong số người Cao Miên đang qùi chờ vua Surmarit giá lâm tiếp kiến thần dân trong nước.

Đặc biệt thay! Đức vua Norodom Surmarit vừa đến sân chầu, thấy thần dân đang qùi chờ đợi mà lại có 2 vị chức sắc Cao Đài mặc sắc phục trắng, nên đức Hoàng Thượng Surmarit liền đi thẳng đến nhị vị Thái Khí Thanh và Thái Đổng Thanh tiếp nhận bức di ngôn, và liền mở ra xem và phán dạy: "về thưa lại với đức Hộ Pháp, Hoàng Thượng đã nhận được bức di ngôn và chấp nhận hết những lời yêu cầu."

Trưởng Huynh Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh và Giáo Hữu Thái Đổng Thanh bái lễ Hoàng Thượng kiếu từ ra khỏi Hoàng Cung đi thẳng đến bệnh viện Calmette kính trình với đức Hộ Pháp là nhị vị đã làm xong sứ mạng của đức Ngài đã giao phó.

Sau khi phán dạy cả chức sắc nam nữ suốt những ngày sau cùng tại bệnh viện Calmette, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui thiên tại bệnh viện thủ đô Phnom Penh vào lúc 13 giờ 30 chiều nhằm ngày Ĩ7-5-1959, nhất là 50 ngàn tín hữu Cao Đài tại Cao Miên vô cùng xúc động khi được tin đức Ngài đã thoát xác, và thể xác được đưa về Thánh Thất Cao Đài, thuộc Trấn Đạo Tần Quốc (Toul Sway Prey) Quận 5, Thủ Đô Phnom Penh để lo phần tang lễ, hưởng thọ 70 tuổi.

Đức Hộ Pháp qui thiên để lại trong lòng nhân thế một niềm thương tiếc vô cùng tuyệt đối. Ba triệu con tim cùng chung nhịp đập đều hướng về Thủ Đô Phnom Pênh, tưởng niệm công ơn bậc tối cao đã trọn hiến mảnh thân phàm phục vụ cho nhân loại. May mắn thay 50 ngàn tín hữu Cao Đài tại Cao Miên có diễm phúc tề tựu về Thánh Thất Phnom Penh "thọ tang" suốt 10 ngày đêm túc trực bên cạnh Liên Đài của đức Ngài niệm kinh cầu nguyện, mỏ chuông không dứt tiếng.

Ngoài ra đại diện các Tôn Giáo từ các tỉnh xa xôi Siemriep, Kompongthom, Kopong Cham, Soayrieng, Pursat, Takeo, Kampot, Mimot, Kratié, Battambang v.v... đồng đến chia buồn Hội Thánh và bái lễ chào vĩnh biệt đức Ngài với những tràng hoa lưu niệm vô cùng sâu sắc thắm đượm tình đoàn kết Tôn Giáo. Đồng thời các ngoại giao đoàn tại Thủ Đô Phnom Penh, nhất là các đại sứ của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đã tiếp nhận được bản cương Lĩnh Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống của đức Ngài đã đề xướng vào ngày 26-3-1956 đều có nhiệt tình cao đẹp chiếu cố đến đặt tràng hoa tưởng niệm trước Liên Đài, chào vĩnh biệt bậc vĩ nhân thế kỷ 20, đã trọn hy sinh phục vụ hòa bình cho nhân loại.

Điểm nổi bật trong tang lễ là sự hiện diện của Thủ Tướng Pen Nouth, đại diện Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Hiên hướng dẫn một phái đoàn đến phân ưu cùng Hội Thánh, đặt vòng hoa tưởng niệm và bái lễ trước Liên Đài đức Ngài rất trân trọng.

Một phái đoàn Phật Giáo, đại diện cho đức Sải Cả, đến trì kinh, đặt vòng hoa phân ưu, và tiễn đưa Liên Đài đức Ngài nhập Bửu Tháp để đáp lại tình luyến tiếc vói đức Hộ Pháp trong 2 chuyến từ Toà Thánh Tây Ninh đến tham dự những buổi lễ Phật Giáo tại Phnom Penh trước kia, cùng đàm đạo thân mật. Nên nhớ vào những năm 1950 - 1952 đức Sải Cả Phật Giáo Cao Miên đã 2 lần mời đức Hộ Pháp đến hội kiến.

Còn tại miền Bắc Việt Nam, nữ Giáo sư Hương Dư, đại diện Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tại Thánh Thất Cao Đài Hà Nội thiết lễ "tưởng niệm'' rất trọng thể có đại diện Chánh Phủ Miền Bắc VNDCCH đến dự.

Cao qúi thay! Sau một thời gian đi công du ở Hải Ngoại vừa mới trở về tới Thủ Đô Phnom Penh, đức Quốc Trưởng Norodom Sihanouk, chủ tọa một buổi họp báo trước sự hiện diện của các phóng viên, ký giả quốc tế và ông Tổng Trưởng Bộ Thông Tin Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên. Quốc Trưởng Norodom Sihanouk có trả lời một câu phỏng vấn của ông Giang Kim, chủ nhiệm nhật báo Hữu Nghị phát hành tại Thủ Đô Phnom Penh như sau:



"Tôi rất tiếc ngày trở về nước, không được hội kiến với đức Hộ Pháp lần chót. Khi trở về thì đức Ngài đã mất. Tôi sẽ hoàn toàn chấp nhận những lời đề nghị của đức Hộ Pháp, và xin nhờ nhà báo chuyển tới bổn đạo Cao Đài là tôi đã ra lệnh cho Chánh Phủ thi hành đúng theo lời yêu cầu của đức Hộ Pháp."

Riêng phần Chức Sắc và bổn đạo tại Miền Nam còn bị chế độ khắc khe, không cho Hội Thánh và bổn đạo cử hành tang lễ. Giọt nước mắt của người tín đồ ngoan đạo đã bị bạo quyền cấm chảy, càng làm nứt nỡ bao con tim của những tín hữu đã trọn hiếu thảo trung thành với đức Hộ Pháp.

Tuy nhiên với lòng trung kiên, nhẫn nhục tuyệt vời của Chức Sắc và Bổn Đạo nam nữ vẫn âm thầm lặng lẽ, bất chấp hiểm nguy cử hành tang lễ đức Hộ Pháp vô cùng trọng thể. Mãi đến cuối năm 1963, sau khi luật đào thải tự nhiên chấm dứt một chế độ, kỷ niệm qui thiên của đức Hộ Pháp được Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh chánh thức ban hành cho các Thánh Thất trên toàn quốc đồng thiết lễ "Qui Thiên" để tưởng nhớ công đức đức Ngài hết sức long trọng vào ngày mùng 10 tháng 4 âm lịch hàng năm.

Đức Hộ Pháp đã vì mục đích cứu đời, cứu vớt chúng sanh mà đã xem thường mạng sống cá nhân, trọn hy sinh cả kiếp sanh, bỏ xác nơi đất khách quê người, để cùng chung chịu cảnh chia đôi của đồng bào 2 miền Nam - Bắc Việt Nam. Thật đúng là một bậc vĩ nhân của thế kỷ 20, làm hồi chuông cảnh tỉnh, giác ngộ dục vọng con người trên mặt thế này. Đức Ngài đã lưu lại tấm gương trong sáng, khiêm tốn, đạo đức cao đẹp tuyệt đối để phụng sự nhân loại tiến đến hòa bình và đại đồng thế giới, tức là soi đường dẫn lốỉ cho nhân loại tiến bước trên đường tận thiện, tận mỹ trong tình huynh đệ nhìn nhau một cha chung.

Tổ phụ ta thường bảo: sống có cái nhà, thác có cái mồ. Song, đức Hộ Pháp tôn kính của chúng ta qui thiên nơi đất lạ quê người chỉ có cái Liên Đài trơ trọi với gió sương mứa nắng! Âu cũng là do thiên ý đã an bày!!!

Lại thêm một huyền diệu thiêng liêng làm chấn động cả thế giới về cuộc qui thiên của đức Hộ Pháp xuất hiện tại Pháp Quốc, do nữ đồng tử Sarah Bartel tiếp nhận và ghi chú những lời trên không trung về việc thoát xác của vị giáo chủ toàn cầu của đạo Cao Đài là đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (Báo Le Lien số: 4, tháng Juin năm 1959, trang 30), đã giáng cơ mà nữ đồng tử Sarah Bartel ghi chép:



" Để thống nhất tất cả đệ tử thần linh trên toàn quốc.

Rền than nhưng vẫn hy vọng!

Cùng chư vị thần linh phương tây

Chúng ta có một bổn phận đối với anh, chị chúng ta ở Phương Đông và Cực Đông, là bổn phận hợp tinh thần trong việc hợp tác huynh đệ đề tìm biết rõ về vô hình."

Một tiếng nói trên không trung nói với chúng ta như vầy:



Nếu đạo đức đem lại một đời sống hạnh phúc là vì đạo đức là một tình thương yêu cao cả, thì tình thương yêu chỉ là một với tình thương yêu cả nhân loại và cả hư vô.

"Tiếng nói đó là tiếng nói nào mà người ta càng nghe tỏ rõ khi lỗ tai phàm không thể nghe rõ? Tiếng nói đó là tiếng nói nào mà nó ở ngoài vật thể, và ở ngàn nơi trên thế giới địa hoàn, mà những tấm lòng yên lặng và mở rộng dẫu ở Phương Đông cũng như ở Phương Tây, hoặc như ở Phương Bắc như ở Phương Nam, để chờ tiếp nhận những lời Thánh Giáo giống nhau đề cạn tỏ sự hòa hợp của tầm hồn.



"Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc vừa mới thoát xác ngày 17 -5-1959 hồi 13 giờ 30 phút (giờ Cao Miên) tại bệnh viện Calmette, Thủ Đô Phnom Penh. Đúng giờ định thì những Thiên Thần cầm lộng vàng đến tiếp rước Ngài, còn các hung thần thi bị đuổi đi xa tịt mù, đóng thành một lằn đen xa thẳm, như đóng khuôn cho một cảnh giới Thiên Đàn mở rộng thêm mãi.

Nhiều đấng vô hình mặc thiên phục đỏ, tốp khác thì mặc thiên phục xanh, còn tốp khác thì mặc thiên phục vàng, và cũng còn hàng ngàn những vị mặc thiên phục trắng.

Những vị mặc sắc phục trắng nói rằng: độ lượng là mối tình thương yêu đặt mình chúng ta trọn vẹn để phục vụ tình bác ái.

Sau rốt những vị mặc sắc phục đỏ tuyên bố: sức lực mới là tình thương yêu giúp chúng ta gánh chịu tất cả mọi khó khăn cho cái gì mà ta yêu mến.

Bốn tốp ấy đã nói rồi thì ''tiếng nói" của tất cả các tiếng nói ở trong tâm của mỗi người, dầu ở nơi thiên giới hay ở địa giới, hoặc ở trung giới. Tiếng nói ấy đã nói: Trong bốn màu hợp lại thành một.

Người đã hạ mình xuống nơi hạ giới làm một Giáo Chủ tốt Hộ Pháp Phạm Công Tắc Hãy trở về lòng của ta là tiếng nói của tất cả tiếng nói.

Từ ngày 27-5-1959, hồi 7 giờ thì trong cả mặt thế, trong các giới tất cả những người ở trong đại cơ quan đồng tử đều được nhận thấy, và nghe rõ tất cả những việc mà tôi đã ghi chép y như trên

Chứng chắc thật!

Bà Sarah Bartel Đồng tử

Nhà số: 20, đường Alibert Paris 10ème



ĐI ĐỂN BÁT QUÁI ĐÀI

(La tour à 8 faces)

''Tin tức vừa mới tiếp nhận về vụ Thoát xác của đức Giáo Chủ Cao Đài” mà trung tâm hiện giờ ở Kim Biên.

Tôi xin ghi chép y nguyên văn cho tất cả độc gỉa tạp chí Le Lien.



TIẾNG NÓI.-

''Đúng ngày mùng 5 tháng 5, nhằm ngày 10-6-1959 là đúng 70 năm tôi ở trong một thi phàm xác thịt. Đúng ngày đó thì tôi đã ngồi trong một cái hòm hình bát giác (Liên Đài), và từ trong đó tôi nhìn thấy hàng ngàn và hàng ngàn những tín đồ diễn ngang, tất cả từ chục ngàn người khác, mỗi người đều được biết "dấu hiệu" để về sau nhìn biết được họ khi ngày giờ đã đến."

Tiếng nói tiếp theo với một giọng buồn trong một lúc



''Có những người có thể đến được nhưng lại không đến, có những người rất muốn đến mà lại không đến được. Những người sau này (tức là những người muốn mà không thể đến được), tôi cũng ban cho một "dấu hiệu” từ trong Liên Đài bát giác của tôi."

Tiếng nói tiếp,-



"Đức Hoàng Thượng và Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên đã làm những gì phải làm, để chứng tỏ lòng khoan hồng hiểu biết và tình huynh đệ cao với cử chỉ cao thượng ấy, đức Hoàng Thượng đáp lời một bức thơ mà tôi rất cung kính viết và gởi đến Hoàng Thượng 3 ngày trước khi linh hồn tôi rời thể xác. Nhưng cõi vô vi tôi vẫn thấy và nghe được."

Đến đây tiếng nói lặng thinh, và tôi chờ mãi coi có tiếp theo không mà chẳng thấy. Vậy, đây có phải là một tin "thông công" hay không?

Tôi có chiêm bao hay không? Trong đó có những chi tiết mà tôi rất vui vẻ để kiềm soát lại:

- Cái hòm bát giác?

- Hình thể người quá vãng liệm để ngồi?

- Bức thơ gởi trước 3 ngày khỉ thóat xác?

Tờ tạp chí Le Lien này dược phát hành, gởi đi khắp hoàn cầu, có lẽ nó cũng đến xứ Cao Miên. Nếu bên xứ ấy, hoặc nơi nào khác, có vị nào được, xin viết thơ cho tôi biết thêm việc này, để bác bỏ hay công nhận những điều mà tôi thiệt thà ghi chép nơi đây. Tôỉ đề lời cám ơn trước!

Bà Sarah Bartel

20, Rue Alibert Paris 10ème.

LẠI THÊM MỘT BÀI BÁO NGỌAI QUỐC

(Sau khi nghiên cứu huyền diệu thiêng liêng đăng như sau)



"Sự kinh nghiệm và xét đoán của đài Thiên Văn và Thông Thiên Học bên Pháp. Theo thơ của ông Olion và Thánh Giáo của bà Sarah Bartel cho biết: ngày rước Thánh có đủ chư: Phật, Thánh, Tiên ngự, thì có ông mặc áo đẹp, sắc phục có khôi giáp về đồng ngự, và có cả chư Phật, Tiên, Thánh, Thần đến chầu chực đón rước chào mừng chơn linh ấy về "đến"

Nữ đồng tử Sarah Bartel ghi đúng sự thật, vì trước khi đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui thiên, trước 3 ngày đức Ngài còn nằm trên giường bệnh tại bệnh viện Calmette. Đức Ngài còn ký tên trong bức di ngôn gởi đến Hoàng Thượng Norodom Sumarit (Đức vua cha, thân phụ của thái tử Norodom Sihanouk) mà hai vị Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh và Giáo Hữu Thái Đổng Thanh thân hành vào Hoàng cung chuyển đệ lên Hoàng Thượng.

Vì sao trước giờ phút qui thiên, thoát xác nơi đất Cao Miên mà đức Hộ Pháp vẫn còn ghi nhớ ngôi Thánh Thất bị Tòa Án Thượng Thẩm Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên chuẩn phê y án Tòa Sở Thẩm phán định: Phá hủy ngôi Thánh Thất Cao Đài, (do ấn lịnh xét xử ngày 13-3-1957 của Tòa Sơ Thẩm).

Cần ghi nhớ trước kia ngôi Thánh Thất Cao Đài tại Phnom Penh được xây cất trên phần đất tọa lạc tại số 37 Đại Lộ Pierre Pasquier (Phnom penh) vào năm 1930. Mãi đến năm 1954 Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên trưng dụng phần đất này để kiến tạo Nhà Thú Y Quân Đội Hoàng Gia.

Vì lợi ích qui hoạch, Chánh Phủ Cao Miên đã đến thương lượng với Hội Thánh, nên Hội Thánh Cao Đài tại Phnom Penh đồng ý chuyển nhượng để đổi lấy 3 phần đất tại Toul Sway Prey, thuộc quận 5, Thủ Đô Phnom Penh do công văn số: 4882/BA ấn ký ngày 20-10-1954.

Đến ngày 21-2-1955 Hội Thánh Trấn Đạo Tần Quốc tại Phnom Penh đệ đơn xin phép Chánh Phủ Hoàng Gia kiến tạo ngôi Thánh Thất Cao Đài trên phần đất vừa được Chánh Phủ chuyển nhượng, để có nơi thờ phượng với đồ án kiến trúc bằng cây ván, lợp ngói và đã được Đốc Lý Thành Phố Phnom Penh phê chuẩn chấp nhận giấy phép số: 557/GV đề ngày 17-6-1955.

Công tác xây cất ngôi Thánh Thất bắt đầu khởi hành đúng theo giấy phép số 557/GV đế ngày 17-6-1955 thì ngày 16-2-1956 đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và phái đoàn Chức Sắc tùy tùng lưu vong tới Cao Miên (Phnom Penh). Đức Ngài liền hướng dẫn Hội Thánh Cao Đài Trấn Đạo Tần Quốc phải đệ trình lên Chánh Phủ Hoàng Gia đồ án xây cất ngôi Thánh Thất bầng béton cốt sắt. Hiền Huynh Giám Đạo Huỳnh Hữu Lợi phụ trách lo xin phép đệ trình đồ án lên Chánh Phủ.

Được biết thâm ý của Luật sư Blaquierre muốn bảo vệ quyền lợi cho Chánh Phủ Hoàng Gia, nên Luật sư Khing See liền bước ra hành lang Tòa Án nói nhỏ với Sĩ Tải Lê Quang Tấn biết rõ lời tố cáo của Luật Sư Blaquierre, và Sĩ Tải Tấn liền rỉ tai cho Chức Việc và Bổn Đạo từ từ rút lui khỏi Tòa Án lên 2 chiếc xe Bus đề trở về Thánh Thất, chỉ còn 20 vị chức sắc và chức việc nam nữ tượng trưng tham dự phiên xử mà thôi.

Đến khi Ông Luật sư Blaquierre hướng đứa ông Chánh Án Tòa Thượng Thẩm bước ra bên ngoài Tòa Án để quan sát, thì chỉ còn thấy có 20 vị Cao Đài mặc sắc phục trắng, gây ngạc nhiên, lúng túng cho Luật-sư Blaquierre đã tố cáo không đứng sự thật.

Phiên xử của Tòa Án Thượng Thẩm cũng phán định: "chuẩn phê y án Tòa Sơ Thẩm, Hội Thánh phải triệt hạ ngôi Thánh Thất Cao Đài".

Hội Thánh đã đệ đơn thỉnh nguyện lên Chánh Phủ Hoàng Gia xin nhờ cứu xét khoan hồng, song chưa có kết quả. Cho mãi đến ngày 14-5-1959, đang nằm trên giường bệnh tại bệnh viện Calmette, đức Hộ Pháp mới có bức di ngôn gởi đến Quốc Trưởng Norodom Sihanouk và Hoàng Thượng Surmarit. Đồng thời, Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đã gởi một tối hậu thư cho Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên, một bức thư đã ghi vào sử Đạo Cao Đài vào năm 1958 vói đại ý: nếu Thánh Thất Cao Đài bị triệt hạ theo án lệnh, thi Đại Huynh Bảo Đạo tự nguyện tuyệt thực tử tiết theo ngôi Thánh Thất. Điều này đã gây nhiều dư luận sôi nổi trong Chánh Phủ Hoàng Gia một thời.

Cao quý thay, đức Hộ Pháp biết trước phải thoát xác nơi đất Cao Miên, mà đức Ngài vẫn lo cho ngôi Thánh Thất Cao Đài tại Phnom Penh khỏi phải thi hành án lệnh là triệt hạ ngôi Thánh Thất. Sau ngày 17-5-1959 đức Ngài qui thiên thì Hoàng Thượng Norodom Surmarit có văn thư mời Hội Thánh Cao Đài Tần Quốc và phái đoàn chức sắc lưu vong vào Hoàng Cung.

Vua Norodom Surmarit tiếp đón phái đoàn Hội Thánh trên lầu Hoàng Cung hết sức nồng hậu, Hoàng Thượng đến bắt tay từng người, hỏi thăm sức khỏe và mời an tọa trên bộ Salon (bốn ghế đối diện nhau). Hoàng Thượng Surmarit liền hỏi thăm Đại Huynh Thái Chánh Phối sư Thái Khí Thanh khâm trấn đạo Tần Quốc trước (vì Đại Huynh Thái Khí Thanh rất giỏi Miên Ngữ) và chỉ dẫn Đại Huynh dâng đơn thỉnh cầu lên Hoàng Thượng xin cứu xét lại án lệnh, để Hoàng Thượng phán lệnh cho Tòa Án Thương Thẩm: Tạm ngưng thi hành án lệnh của Tòa Thượng Thẩm.

Kế tiếp, Hoàng Thượng hỏi thăm Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa (bằng tiếng Pháp) và cuộc sinh sống của số chức sắc trong phái đoàn lưu vong còn tạm trú nơi đất Cao Miên.

Tiếp theo Hoàng Thượng Surmarit hỏi Sĩ Tải Lê Quang Tấn đi tu hồi nào mà còn trẻ quá vậy? Thừa dịp đáp lời xong, Sĩ Tải Tấn trình bày khẩn cầu Hoàng Thượng khoan hồng đặc ân; xóa bỏ án lệnh trong hồ sơ của Tòa Sơ Thầm Phnom Penh về vụ đã phạt Sĩ Tải Lê Quang Tấn 3 tháng tù vào năm 1957 về tội xâm nhập nước Cao Miên bất hợp pháp, bởi một tu sĩ mà phải bị mang án 3 tháng tù trong hồ sơ thì thật khổ tâm chua xót cho người tu sĩ mỗi khi có việc cần. Phải sao lục án tòa. Hoàng Thượng phán dạy: Làm đơn chuyển đệ lên Hoàng Thượng xin ân xá xóa bỏ bản án 3 tháng tù, để Hoàng Thượng chuyển đến Tòa Thượng Thẩm ra lệnh cho Tòa Án sơ Thẩm xét xử lại.

Vinh hạnh thay! Sau 3 tháng chuyền đơn thỉnh cầu lên Hoàng Thượng, thì cuối năm 1959 tiếp được lệnh Tòa Án Sơ Thẩm mời đến dự phiên xử án, và được Tòa Sơ Thẩm hủy bỏ án phạt 3 tháng tù vào năm 1957 (mặc dù Sĩ Tải Tấn đã thụ án 3 tháng tù rồi, nhưng đến khi sao lục hồ sơ Tòa Án thì được ghi là "không án tiết").

Một huyền diệu thiêng liêng xuất hiện ở Pháp Quốc sau khi đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui thiên ngày 17-5-1959 tại Phnom Penh thì nữ đồng tử Sarah Bartel ghi nhận: Tiếng Nói Trên Không Trung đã được báo Le Lien ấn hành vào tháng 6-1959 tường thuật rõ ràng, khắp thế giới đều biết rõ ràng đức Ngài được liệm ngồi trong Liên Đài (tức là được liệm ngồi trong 1 cái hòm bát giác, 8 góc vào lúc 22 giờ đêm ngày 17-5-1959 trước sự hiện diện của vị cảnh sát trưởng quận 5, Thủ Đô Phnom Penh, và chức sắc nam nữ tại Trấn Đạo Tần Quốc.

Điểm đặc biệt không kém phần băng khoăng lo lắng cho chức sắc và bổn đạo, vì đức Hộ Pháp đã qui thiên mà cả Hội Thánh không một ai được biết nghi tiết lễ an táng đức Ngài như thế nào?

Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa và Sĩ Tải Bùi Quang Cao liền phò loan thính đức Ngài giáng cơ chỉ dẫn nghi tiết "lễ tế điện" trong khi thể xác chưa tẩm liệm, đức Ngài giáng cơ chỉ dẫn từng chi tiết lễ an táng và cho một bài thi để tế điện:

Trót đã bao năm ở xứ người,

Đem thân đổi lấy phút vui tươi.

Ngờ đâu vạn sự do thiên định,

Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.

Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,

Buồn nhìn cội đạo lắm chơi vơi

Rồi đây ai đến cầm chân pháp,

Tô điểm non sông đạo lẫn đời.

Nhờ tiếp nhận được sự chỉ dẫn về nghi tiết và bài thi trên, đồng nhi và lễ sĩ mới biết để "thài" và đăng điện trong buổi tang lễ. Ngoài ra Sĩ Tải Bùi Quang Cao (thơ ký đặc biệt của đức Ngài) một chức sắc Hiệp Thiên Đài trong phái đoàn lưu vong, và cũng là một chuyên viên quay phim và chụp ảnh của phái đoàn lưa vong, đã lưu lại nhiều hình ảnh trong buổi tang lễ của Đức Ngài. Cuốn phim do Sĩ Tải quay trong khi các Tôn Giáo bạn, Ngoại Giao đoàn tại Thủ Đô Phnom Penh, và phái đoàn Phật Giáo Cao Miên đến đặt tràng hoa vĩnh biệt cùng tiễn đưa Liên Đài nhập Bửu Tháp, là một kỷ niệm vô giá lưu lại cho bổn đạo ở Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh không được vinh hạnh góp phần chung lo buổi tang lễ của đức Ngài tại Phnom Penh.

Với trách nhiệm Hộ Pháp, chưởng quản nhị hữu hình đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng, đức Ngài chẳng quản tuổi cao sức yếu, nhiệt tình rèn luyện đào tạo một số chức sắc nam nữ ưu tú, đầy đủ khả năng và tinh thần để góp mặt trong mọi công tác xã hội từ thiện cùng các Tôn Giáo bạn. Nhất là giữ vững niềm tin trước mọi thử thách phong ba bão táp vẫn một lòng tuyệt đối trung thành với Hội Thánh, chí hiếu với Chí Tôn và Phật Mẫu, để tiếp nối con đường đạo đức do "Tôn Sư Hộ Pháp" và các bậc chức sắc đàn anh đã hy sinh vạch sẵn Từ Bi, Bác Ái, Công Bình rạng danh Đại Đạo.

Đức Ngài qui thiên ngày 17-5-1959 và Liên Đài đức Ngài vẫn còn lưu lại trên nước Cao Miên cho đến ngày hôm nay do Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, chức sắc, bổn đạo đồng tuyệt đối tôn kính lời di ngôn đã gởi cho Hoàng Thân Norodom Sihanouk ngày 14-5-1959.

Thương tiếc thay! Một danh nhân lịch sử đã rời khỏi cỏi trần. Một bậc vĩ nhân hết sức nhiệt tình tận tụy với nhân loại bằng Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống, bác ái đại đồng với chủ tương "bất bạo động" của Đức Hộ Pháp đã làm cho người không đồng quan điểm đem lòng kính mộ, mặc dù lòng hy sinh tuyệt đối của đức Ngài chưa trọn vẹn tiếp đón ngày vinh quang của đất nước Việt Nam, nhưng hàng triệu con tim cùng chung nhịp đập đều tưởng niệm đến công ơn của đức Ngài.

Tôn kính thay! Đức Hộ Pháp là một cứu tinh, bậc thông suốt huyền vi màu nhiệm của Thượng Đế, nên đã mạnh dạng đề xướng Chánh Sách Hòa Bình Chung sống vào ngày 26-3-1956 để cứu vãng nhân loại tránh cuộc tự sát, khỏi nạn diệt vong. Đức Hộ Pháp còn biết rõ 2 khối Cộng Sản và Tư Bản hiện diện trên mặt thế này là do thiên cơ tiền định, không tránh khỏi được sự tranh chấp quyền bá chủ thế giới, huynh đệ tương tàn, nhân loại phải lầm than thống khổ.

Nỗi khổ tâm của đức Ngài, một vị lãnh đạo Tôn Giáo Cao Đài, được biết trước cuộc nội chiến sắp khởi diễn mà chẳng biết cách nàosửa được máy thiên cơ. Đức Ngài phải nhập "Tịnh Thất" vào Trí Huệ Cung thiền tịnh ngày 16-1-Tân Mão (1951) để khẩn nguyện Thượng Đế ban đặc ân cho dân tộc việt Nam thoát khỏi cảnh áp đặt của ngoại bang, cũng như đã nhiều lần, đức Ngài cầu khẩn cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Tổng Thống Ngô Đình Diệm dẹp bỏ mọi tị hiềm, nhưng cũng không hoán cải được thời thế, bởi số đã định.

Suốt 3 tháng đức Ngài khép mình trong Tịnh Thất Trí Huệ Cung khẩn nguyện Thượng Đế ban huyền diệu thiêng liêng cảm hoá 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm hiểu biết nhau là con chung của Thượng Đế.

Những lời phán dạy của đức Ngài đã cảm hóa trên 3 triện tín hữu Cao Đài, để lại cảm tình chan chứa cho nhân loại, một "danh" thiên niên vạn cổ, đây là danh của đấng "cứu thế”.

Đức Ngài không ngần ngại chịu khổ nhục đã chỉ dẫn cho đời biết những điều lầm lạc về sự chia rẽ. Nhân loại đừng phân biệt màu da sắc tóc mà hãy nên tương thân, tương ái.

Ngày 17-5-1959 là một ngày u buồn, ảm đạm cho Bổn đạo Cao Đài ở Quốc Nội cũng như ở Hải Ngoại, và cũng là ngày long trọng ghi vào lịch sử Đông Phương, một kỷ niệm sâu sạc của Quốc Dân Việt Nam đã nêu cao "gương trong sáng không chút bụi trần tượng trưng cho Quốc Hồn Quốc Túy, một phương thức bất bạo động, một nhà lãnh đạo Tôn Giáo suốt đời tận tụy với Quốc Đạo" công bằng, từ bi, bác ái, cùng ung đúc lòng ái quốc trong trái tim người Việt Nam.

Đức Hộ Pháp biết rõ mọi biến cố "trận chiến" trên thế giới là lẽ dĩ nhiên, tiền định không sao tránh khỏi, nhưng đức Ngài có phận sự thiêng liêng là chỉ đường dẫn lối cho kẻ bị áp chế từ chỗ bất hoà, bất bình đến chỗ hợp quần, đoàn kết.

Đáng tôn kính thay! Đáng sùng bái thay! Một vĩ nhân trọn hy sinh cả kiếp sanh cho Chánh Sách Hòa Bình Chung sống mà đức Ngài đã long trọng xác nhận với Quốc Trưởng Norodom Sihanouk: mục phiêu đời sống của bần đạo.

Thiết nghĩ ngày qui thiên của đức Hộ Pháp 17-5-1959, trùng hợp ngày lễ chư Thánh giáng linh của Công Giáo (Pentecôte) mà đức Ngài đã dùng huyền diệu thiêng liêng ứng linh cho nữ Đồng Tử Sarah Bartel tại Pháp Quốc tiếp nhận ghi chép TIẾNG NÓI TRÊN KHÔNG TRUNG như thế!

Sự trở về của đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc không lặng lẽ như bao sự trở về của chúng sanh, sự trở về của đức Ngài là một biến cố cho nhân loại, sự tang chế của thời kỳ mạt Pháp.

Chính đức Hộ Pháp đã chia xẻ phần đau khổ của đồng bào 2 Miền Nam - Bắc Việt Nam bằng chủ trương "Hòa Bình Chung Sống", và đem đến cho toàn thể nhân loại sự dịu mát trong lành của nền hòa bình đại đồng thế giới lần lần trở thành hiện thực.

Niềm vinh hạnh vô biên cho người tín hữu Cạo Đài có quyền hãnh diện là 35 năm về trước, tức là ngày 26-3-1956 đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, lãnh đạo Tôn Giáo Cao Đài đã có sáng kiến đề xướng Chánh Sách Hòa Bình Chung sống, vạch đường chỉ lối cho 2 khối Cộng Sản và Tư Bản phải tương nhượng nhau, vì tất cả đều là con chung của Thương Đế.

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài, Hiệp Thiên và Cửu Trùng đã thoát xác qui thiên ngày 17-5-1959 tại Phnom Penh đã để lại cho bao sự mến tiếc, tôn kính, phụng thờ của 3 triệu tín đồ Cao Đài hằng ghi nhớ lời huấn giáo của đức Ngài:



"Bần đạo chỉ sợ toàn thể thanh thiếu niên sau này sẽ khinh khi các bậc đàng anh không đáng mặt.

Nếu chẳng đi đến trường thầy mà đạt thủ địa vị mình thì chẳng ai đi đến nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ!

Mặc ai sang trọng ở trường đời, ta cứ theo Chí Tôn thì đại nghiệp không mất, quả quyết đứa con nào của Người, trọn trung, trọn hiếu với người và Hội Thánh là hình thể của Người tại thế gian này, thì không bao giờ thất nghiệp và thất phận."

Mãn Thu, 19 tháng 09 năm Kỷ Tỵ

(DL. Ngày 18 tháng 10 năm 1989)

Thừa Sử: LÊ QUANG TẤN

Thánh Thất Cao Đài SàiGòn

891 Trần Hung Đạo, Quận 5



Thành Phố Hồ Chi Minh.



Каталог: booksv -> khaitam -> TIEU%20SU%20DHP%20-%20HC
TIEU%20SU%20DHP%20-%20HC -> Đinh Tấn Thành 933 Woodside Dr. Holland, Mi 49424 tiểu sử ĐỨc hộ pháp phạm công tắc giáo chủ ĐẠo cao đÀi tòa thánh tây ninh
khaitam -> Gigong Exercise Taught By His Holiness HỘ pháP
khaitam -> I/. introduction to caodai religion 3 ii/. Meaning of word "tao" in caodai religion 4
khaitam -> 1. Đêm 28 tháng 7 Canh-Dần (1950). 1 Phò Loan: Luật-sự: Khoẻ, Hưỡn
khaitam -> NHỮng lời tiên tri đẦy huyền diệu củA Ông phật sống là ĐỨc hộ pháp phạm công tắc mà Ít ngưỜi biếT ĐẾN
khaitam -> Thánh Thơ của Thượng Sanh. 1 Holy Letter of His Holiness Thượng San
khaitam -> Giải thích Đức Di Lạc cỡi cọp. Giải thích tám khuôn hình trước bao lơn Đền Thánh
khaitam -> Hình Tòa Thánh Picture of Holy See
khaitam -> I/. introduction to caodai religion 1 ii/. Meaning of word "tao" in caodai religion 2
khaitam -> 1. Đêm 28 tháng 7 Canh-Dần (1950). 1 Phò Loan: Luật-sự: Khoẻ, Hưỡn

tải về 1.41 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương