Đinh Tấn Thành 933 Woodside Dr. Holland, Mi 49424 tiểu sử ĐỨc hộ pháp phạm công tắc giáo chủ ĐẠo cao đÀi tòa thánh tây ninh



tải về 1.06 Mb.
trang3/10
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích1.06 Mb.
#6008
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10
PHẢI CHỌN MỘT CON ĐƯỜNG

Gần bước sang năm Ất Mùi, nhân danh đấng tạo hóa Cao Đài bất diệt Bần Đạo gởi cùng toàn thể nhân loại bức thông điệp này để thiết tha kêu gọi những vị cầm quyền chánh phủ, lãnh đạo các dân tộc, nhận định nhiệm vụ một cách khôn khéo hơn. Bao giờ cũng vây, nhân loại cố kiếm một con đường để tạo một đời sống hòa bình, hạnh phúc, mà không đạt được như ý muốn, chỉ vì không biết nghe theo mênh trời… Ngày nay nhân loại đang trải qua môt cơn khủng hoảng tinh thần ghê gớm mà vẫn còn phải hỏi đâu là con đường sống? Ở trên thế gian này không có chi là bất di bất dịch cả. Theo luât trời mọi việc đều tiến triển. Lẽ dĩ nhiên xã hội loài người cũng phải theo định luât ấy.



"Hai chủ thuyết đang đối chọi nhau:"

Thuyết thứ nhất mệnh danh là Dân Chủ thì tán dương sự Quốc Gia tương trợ và tôn trọng giá trị con người, càng bảo tồn cái gì hay và đẹp. Thuyết ấy cao cả biết bao, nhưng lại thiếu thành thật mà những điều khoản ghi trong tập nhân quyền đã được Liên Hiệp Quốc tán dương gần đây vẫn chưa thực hiện.

Thuyết thứ hai mệnh danh là Cộng Sản, xúi giục giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản, chủ trương tiêu diệt, những việc bất công xã hội, và hứa hẹn quân phân lại tài sản, nhưng vì có tính vô thần và độc tài, nên đã trở thành qúa khắc khe.

Nay 2 bên Cộng Sản và Tư Bản đã thực hiện tranh chấp, vì 2 Chủ thuyết đều hứa hẹn tạo cho nhân loại một đời sống tốt hơn xưa, có một điều mà chúng ta nhận xét thấy rõ rệt là cả hai không đạt tới đích xác hòa bình và hạnh phúc. Trái lại nhân loại vẫn cứ bị phân hóa, vì cuộc xung đột vẫn kéo dài không lối thoát, cả nhân loại đều lo lắng hỏi rằng: Thế giới sẽ đi đến đâu. Khi cả hai khối đều chuẩn bị những chiến cụ có sức phá hoại mãnh liệt, nếu không phải đi đến chỗ diệt vong? Sự cộng tồn được đem ra thí nghiệm ở các nước Á Châu như Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam không được như ý muốn, mà chỉ tạo được một nền hoà bình phù phiếm làm cho tình hình thế giới thêm căng thẳng, và các nước nói trên phải chịu gian khổ nhiều nhất. Do đó tất cả trách nhiệm đều trút vào những ông cầm đầu các Chánh Phủ lãnh đạo quần chúng nếu các ông cứ tiếp tục dẫn dắt nhân loại đến cảnh diệt vong, vậy thì mọi người chúng ta phải nghe theo tiếng gọi của đấng thiêng liêng, ấp ủ ở bản thân ta, và nên hiểu rằng: chỉ có lòng yêu thương trong bác ái, đoàn kết trong hòa khí và công bằng mới có thể có hòa bình và hạnh phúc.



Bần đạo xin ngõ lời cùng nhân dân Pháp và đồng bào Việt Nam vốn có những liên hệ trực tiếp với nhau. Đối với người Pháp, Bần Đạo có thể nói và tuyên bố trước thế giới rằng: "Trong 80 năm chung sống, hai dân tộc Pháp và Việt Nam đã từng trải qua nhiều nỗi thống khổ trong 2 cuộc chiến 1914-1918 và 1939-1945. Hỏi các người Pháp! Các ông chắc cũng hiểu hơn ai hết, dân tộc Việt Nam với nền văn minh cố cựu cương quyết theo đuổi nguyện vọng được độc lập của họ, các ông hẳn không lạ gì người Việt Nam, có một đức tính không biết phụ bạc, và biết phân biệt bạn và thù. Các ông không thể phủ nhận một đức tính sẵn có của nhân dân Việt Nam. Các ông có đủ tư cách để chứng tỏ rằng trong giờ phút này, sau khi hủy bỏ nền thống trị của các ông, nước Việt Nam cũng không công nhận một uy quyền nào khác thay thế. Trước, sau như một, người dân Việt Nam luôn thiết tha một nguyện vọng là: được quyền tự định đoạt lấy số phận mình. Đồng thời, các ông có thể tuyên bố với: ... Trước hết với dân tộc Mỹ vốn có thiện chí tỏ tình giúp đỡ Việt Nam, rằng các dân tộc vẫn được coi như... nhưng phải coi chừng, đừng phạm vào những lầm lỗi đã đi từ chánh sách thực dân đến chánh sách can thiệp, bất cứ dưới hình thức nào trong công việc riêng của Việt Nam để tránh khỏi phải chịu hậu qủa về cuộc thí nghiệm của họ.

Đối với nhân dân Việt Nam và riêng đối với các vị lãnh đạo Miền Nam cũng như Miền Bắc, Bần đạo xin các ông cống hiến cho nhân loại ở trong tình trạng nguy vong, một tấm gương sáng lạng về sự đoàn kết vì mọi người đều biết rằng đoàn kết là sống. Trong những giờ phút này trách nhiệm của các ông thật nặng nề, nếu các ông cứ cố chấp theo đuổi một cuộc đấu tranh lý tưởng quốc tế đầy dẫy những dục vọng và phe đảng thì các ông sẽ là những người có tội với tổ quốc và nhân dân Việt Nam.

Các ông không thể quên rằng hạnh phúc của dân tộc Việt Nam là kết tinh của tình đoàn kết và tình thương yêu, hoà khí và công bằng. Đó là lý tưởng quốc gia mà tổ tiên từ ngàn xưa lưu truyền lại chớ không phải là sản phẩm của cuộc đấu tranh chánh trị và bè phái. Phải nên mạnh bạo và thẳng thắng, như thế thì các ông sẽ được toàn dân ủng hộ. Người Việt Nam phải đau khổ ê chề, vì sự chia rẽ nội bộ và cuộc tuyền cử riêng rẽ do 2 chánh phủ đối lập tổ chức, không thể nào tránh khỏi được những dục vọng bè phái.

Các ông cầm đầu chánh phủ Miền Bắc và Miền Nam, các ông còn ngại gì mà không nêu gương đoàn kết, thành lập một chánh phủ lâm thời duy nhất, thoát ly khỏi ảnh hưởng ngoại quốc, với sự tham dự của các phần tử thuộc mọi khuynh hướng chánh trị, Tôn Giáo hầu tiến tới cuộc tổng tuyền cử Toàn Quốc Việt Nam. Toàn dân sẽ ghi công các ông. Do đó bằng tấm gương qúi báo ấy, các ông sẽ là những người được tiếng là đã cứu vãn nước Việt Nam trước hết và sau là toàn cả thế giới.

Trước khi ngừng bút, Bần Đạo xin thành khần cầu nguyện Chí Tôn Cao Đài của chúng ta, để cho nhân loại sang năm mới sẽ thoát qua giấc triền miên, hướng thẳng vào ánh hào quang chói lọi và chân lý của Thượng Đế đặng lựa chọn lấy con đường hạnh phúc. Cuộc đấu tranh để sinh tồn sẽ đưa đến cuộc binh đao, gây nên khổ nảo, tàn phế và chết chóc. Trái lại sự hổ tương để sinh tồn bằng cách thương yêu trong tình huynh đệ, đoàn kết trước hòa khí và công bằng, đó là điều kiện tạo nên sự hợp tác hòa bình, sáng tạo hạnh phúc và tự do. Mỗi người chúng ta đều có thể tự do Chọn Lấy Một Con Đường"

Người tín hữu Cao Đài làm sao quên được vụ án cựu Trung Tướng Trần Quang Vinh, nguyên Tổng Tư Lệnh quân đội Cao Đài, nguyên Tổng Trưởng Quốc Phòng Chánh Phủ Miền Nam, đã bị quân đội liên minh của Thiếu Tướng Trình Minh Thế chận đường bắt cóc, đốt xe, lên án tử hình và bắt đưa về giam ở núi Bà Đen (Tây Ninh). Đức Hộ Pháp liền chỉ định Thừa Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn vào mật khu của Quân đội Liên Minh trên núi Bà Đen để "phản điều tra" vụ án Trần Quang Vinh (Cố vấn hành chánh đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh). Được mật lịnh của đức Hộ Pháp, Thánh Vệ Trưởng Tòa Thánh Tây Ninh chuẩn bị cho một phái đoàn Cơ Thánh Vệ hộ tống đưa Thừa Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn vào mật khu của quân đội Liên Minh trên núi Bà Đen để phản điều tra vụ án Trần Quang Vinh, cùng đi có Luật sư Phan Thanh Liêm (em ruột Thừa Sử Phước) lên đường tại Hòa Viện Tòa Thánh Tây Ninh, trực chỉ vào chân núi Bà.

Thiếu Tướng Trình Minh Thế cho lệnh Thiếu Tá Đòn hướng dẫn một tiểu đoàn Liên Minh túc trực tại chân núi Bà tiếp đón phái đoàn chức sắc của Hội Thánh vào chiến khu để phản điều tra vụ án ông Trần Quang Vinh. Đoàn hộ tống của Cơ Thánh Vệ thấy được khẩu hiệu của quân đội Liên Minh ở chân núi Bà chờ đợi. Đôi bên giao lãnh cùng nhau, và Thiếu Tá Đòn mời Thừa Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn lên đường về tư lệnh bộ hội kiến với Thiếu Tướng Trình Minh Thế. Mãi đến 16 giờ phái đoàn mới đến chót núi Bà Đen thì được Thiếu Tướng Trình Minh Thế và các Sĩ Quan trong bộ Tham Mưu ân cần tiếp đón, cùng trao đổi thân mật. Phái đoàn phản điều tra vụ án phải tạm nghỉ nơi tư lệnh bộ 2 ngày đêm mới gặp ông Trần Quang Vinh, do Trung Úy Trưởng, sĩ Quan bổn bộ áp giải đến một hang đá rất kiên cố và rộng rãi. Sau này mới được biết là nơi trú ẩn đặt biệt của Thiếu Tướng Trình Minh Thế khi có cuộc oanh tạc, hoặc biến động. Sĩ Tải Lê Quang Tấn bắt đầu thẩm vấn, lấy khẩu cung ông Trần Quang Vinh, phản điều tra vụ án đã bị quân đội Liên Minh lên án tử hình. Tiếp nhận được phúc trình kết quả cuộc phản điều tra vụ án ông Trần Quang Vinh, đức Hộ Pháp chỉ thị cho Thiếu Tướng Trình Minh Thế phải đưa vụ án ra xét xử lại (trong 6 tháng bị giam giữ mới đưa ra xét xử).

Tuân lịnh đức Hộ Pháp một tòa án quân sự Liên Minh được thiết lập ngay tại chân núi Bà Đen, có mấy ngàn đồng bào và Tín Hữu đến tham dự rất đông đảo. Dịp này Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh đề cử Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đại diện cho Hội Thánh với tư cách biện hộ trong phiên tòa án quân sự xét xử vụ án ông Trần Quang Vinh. Được biết Ngài Bảo Đạo trước kia là một đốc phủ sứ thượng hạng, xuất thân trường luật tại Hà Nội, và là cựu tỉnh trưởng tỉnh Châu Đốc. Thật là một việc hi hửu, một chức sắc Hiệp Thiên Đài phải vào tận chân núi Bà để biện hộ cho một chức sắc Cửu Trùng Đài là Phối Sư Thượng Vinh Thanh. Trước những lời biện hộ vững chắc của Ngài Bảo Đạo suốt cả buổi sáng và buổi chiều, Tòa Án Quân Sự Liên Minh tuyên án: miễn truy tố, nhưng bắt buộc ông Trần Quang Vinh không được tham gia chánh trị nữa. Ông Phối Sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) sau 2 ngày làm thủ tục được tự do trở về Tòa Thánh Tây Ninh trình diện đức Hộ Pháp và trọng ân đức Ngài đã kịp thời cứu giúp để tiếp tục lập công với Hội Thánh. Một thời gian sau, Hội Thánh sắp xếp cho ông Thượng Vinh Thanh sang Pháp để điều trị bệnh sốt rét rừng.

Sau ngày Hiệp Định Génève kết 20-7-1954, lịnh ngưng bắn ban hành khắp cả Miền Nam Việt Nam, vào ngày 11-8-1954, quân đội Việt Minh tập họp vào 3 khu: Xuyên Mộc, Đồng Tháp Mười và Cà Mau đúng theo kế hoạch của hội nghị trung giá và Génève bắt đầu trao đổi tù binh tại Việt Trì, 3 sĩ quan Pháp được về trước nhất là: Trung Uý Boder, Jego và Morin bị bắt tại Cao Bằng.

Đức Hộ Pháp phán dạy: Thiếu Tướng Trình Minh Thế hãy hướng dẫn quân đội Liên Minh đến thay thế những căn cứ quân đội Việt Minh đã rút đi tập kết. Tuân theo lời đức Hộ Pháp quân đội Liên Minh đã đóng quân ở các tỉnh Miền Đông, đến Đồng Tháp Mười, và các tỉnh Miền Tây Nam Bộ, thì gặp phải sự đụng chạm với lực lượng Phật Giáo Hòa Hảo của Thiếu Tướng Lê Quang Vinh tức bộ đội của Ba Cụt tại tỉnh Châu Đốc, nhưng nhờ sự khéo léo tương nhượng và dàn xếp, nên đôi bên tránh được nổ súng với nhau.

Sau đó, Đại Tá Lansdale, cố vấn của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thân hành vào tận tư lệnh bộ quân đội liên minh tại núi bà Đen hội đàm cùng Thiếu Tướng Trình Minh Thế và thuyết phục ông Trình Minh Thế đem quân ra cộng tác với ông Ngô Đình Diệm, lãnh đạo chánh phủ Cộng Hòa Việt Nam. Đại tá Lansdale khôn khéo hứa hẹn, khiến ông Trình Minh Thế chấp nhận tiếp đón Bác Sĩ Chương, Tổng Trưởng bộ y tế chánh phủ Miền Nam vào thăm chiến khu Liên Minh để đặt điều kiện cho quân đội Liên Minh ra hợp tác với chánh quyền Ngô Đình Diệm. Trước ngày ra hợp tác với Thủ Tướng Diệm, Thiếu Tướng Trình Minh Thế hướng dẫn một số sĩ quan trong bộ tham mưu đến tận Trí Huệ Cung xin diện kiến đức Hộ Pháp, với trọng tâm thỉnh cầu đức Hộ Pháp đi SàiGòn làm chủ tọa buổi lễ quân đội Liên Minh ra hợp tác với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa. Đức Hộ Pháp phán dạy: "Bần Đạo không thể đi chứng kiến cái chết của các con! Các con không nghe lời Bần Đạo thì tự các con lo liệu!"

Buổi lễ tiếp nhận quân đội Liên Minh xáp nhập vào quân đội quốc gia được tổ chức tại SàiGòn rất trọng thể, và ông Trình Minh Thế được Thủ Tướng Diệm chánh thức gắng quân hàm Thiếu Tướng quân đội Quốc Gia Việt Nam trước sự hiện diện của Đại Sứ các nước, cùng các Tổng Trưởng trong nội các Chánh Phủ Ngô Đình Diệm đều có mặt.

Còn nhớ rõ, một hôm đức Hộ Pháp đến thăm các chức sắc thời quân tại văn phòng Hiệp Thiên Đài, đức Hộ Pháp ân cần luận đàm vói Qúi Ngài: Bảo Thế Lê Thiện Phước, Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, Hiến Pháp Trương Hữu Đức, Khai Đạo Phạm Tấn Đãi, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng v.v... và một số đông chức sắc Hiệp Thiên Đài gồm có Thừa sử, Truyền Trạng, Sĩ Tải, Luật Sư (trên 30 vị). Đức Hộ Pháp nói: "Thiếu Tướng Trình Minh Thế, nó lầm tưởng rằng nó đã đủ lông, đủ cánh rồi, nó có thể bay nhảy với đời, nhưng chánh trị nó còn qúa non kém, nhất định sẽ bị người ta hại chết! Nếu không các bạn cứ vanh 2 bàn tay của bần đạo". Đức Hộ Pháp vừa nói vừa đưa 2 bàn tay lên trước mặt các chức sắc hiện diện. Một tháng sau được tin Thiếu Tướng Trình Minh Thế bị chết trong lúc đang đi thị sát mặt trận tại cầu Tân Thuận SàiGòn, một cái chết vô cùng oan uổng mà không thể ngăn chận được.

Hồi tưởng lại vào ngày 22-8-1946, vừa bước chân trở về đến Tòa Thánh Tây Ninh sau 5 năm 2 tháng bị lưu đày ở hải đảo Madagascar, đức Hộ Pháp vô cùng băng khoăng về sự hiện diện của quân đội Cao Đài trong nội ô Tòa Thánh. Trước một sự việc đã rồi, chẳng biết phương cách nào hơn nữa, giũa lằn tên mũi đạn của Việt Minh kháng chiến và quân đội Pháp, lại có thêm quân đội Cao Đài hiện đang đóng trong nội ô Tòa Thánh Tầy Ninh. Đức Hộ Pháp từ từ đưa quân đội Cao Đài ra khỏi nội ô Tòa Thánh, là một quyết định không đơn giản vì vận nước ngữa nghiêng tan tành trong khói lửa, đảng phái phân tranh, cốt nhục tương tàn, huynh đệ phân chia, tình thế còn nhiều gay cấn. Đức Hộ Pháp ngõ lời khuyến cáo các cấp chỉ huy quân đội tự vệ Cao Đài rằng: "các con là lửa Tam Muội, lửa dữ trừ được bọn ma vương, nhưng cũng có thể đốt thiêu luôn Tòa Thánh, nên Thầy không cho các con ở trong nội ô Thánh Địa, hãy ra ngoại vi đồn trú". Vì thế mà quân đội Cao Đài phải rời khỏi Giáo Tông Đường Nội ô Tòa Thánh, dời về đồn trú tại Giang Tân, cách xa Đền Thánh độ 8 cây số. Có một vài vị chức sắc vì quá lo ngại cho sự an ninh cùng tài sản của bổn đạo khi quân đội Cao Đài đã rút ra khỏi nội ô Tòa Thánh, nên đến yêu cầu đức Hộ Pháp cho phép quân đội đóng trong Thánh Địa để bảo vệ cơ sở hữu hiệu hơn, và an lòng chúng sanh. Đức Hộ Pháp tươi cười đáp: "Bần Đạo đã đuổi chúng nó đi, ở đâu đó được rồi! Ở đây có Bần Đạo, chúng nó là lửa dữ, chớ nên để gần".

Lời tiên đoán khuyến cáo của đức Hộ Pháp được ứng nghiệm vào 8 năm sau, là vào năm 1955 quân đội Cao Đài được Quốc Gia hóa vô quân đội Quốc Gia Việt Nam. Đức Hộ Pháp chỉnh đốn lại guồng máy đạo, lo quảng bá chơn truyền bằng các buổi thuyết đạo, tại Giảng Đài Đền Thánh, thuyết minh giáo lý Cao Đài cho toàn cả chức sắc và bổn đạo thấu rõ bí pháp của đạo, nêu cao gương Thánh Đức, thắt chặt tình đồng đạo, làm sáng danh Đại Đạo Kỳ Ba.

Đức Hộ Pháp biết rõ hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam, một nước nhược tiểu đang bị ngoại bang tranh giành quyền lợi, đổi chác lẫn nhau trên bàn hội nghị Génève 1954, người Mỹ muốn thay chân người Pháp, nên vị cố vấn Đại Tá Lansdale đưa ra kế hoạch thúc đẩy Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phải sớm thẳng tay triệt hạ các tôn giáo, đảng phái từng cộng tác với Pháp trước kia, càng sám càng tốt. Chính Thiếu Tá Lucien Comein, cùng 2 vị Trung Úy tin cậy là Joe Henrick và R. Philip có trọng trách thực hiện cho kỳ được khẩu lịnh: "phân hóa các lực lượng võ trang Giáo Phái, đạt hiệu qủa cao, có thể chuyển một phần ba (1/3) lực lượng của Pháp thành lực lượng của Ngô Đinh Diệm". Mưu kế được thực hiện, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm mua chuộc và xúi giục Trung Tướng Nguyễn Thành Phương nguyên là Tổng Tư Lệnh quân đội Cao Đài đem quân về bao vây Hộ Pháp Đường, thanh trừng nội bộ gây khó khăn cho đức Hộ Pháp. Tiên đoán thủ đoạn của ông Diệm, đức Hộ Pháp liền phán dạy một chức sắc Hiệp Thiên Đài đi SàiGòn gặp Trung Tướng Nguyễn Thành Phương tại biệt thự số 13 đường Yên Đỗ, SàiGòn, báo cho ông Phương biết rõ rằng: đừng nghe lời đốc xúi của ông Diệm mà đem quân đội về bao vây Tòa Thánh Tây Ninh, gây việc khó xử trí cho đức Hộ Pháp, đó là mưu kế "trò phản thầy". Bảo ông Diệm tự cho Quân đội Quốc Gia về chiếm Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh đi, đức Hộ Pháp sẽ có biện pháp đối phó rất dễ dàng. Đồng thời, đức Hộ Pháp còn bảo một vị chức sắc Hiệp Thiên Đài đến tận nhà Đại Tá Nguyễn Văn Kiết nguyên là Thánh Vệ Trưởng Tòa Thánh Tây Ninh để thông báo cho Đại Tá Kiết biết rằng: "Đại Tá phải thận trọng, đề phòng cho chính bản thân mình, vì Trung Tướng Nguyễn Thành Phương định bắt Đại Tá trước để tiện bề tiến quân vào chiếm nội ô Toà Thánh, đó là mưu đồ của Trung Tướng Nguyễn Thành Phương được lệnh của ông Diệm đem quân về bao vây Tòa Thánh Tây Ninh một ngày gần đây". (Và sau này Đại Tá Kiết vẫn bị Trung Tướng Phương bắt), cùng đi đến nhà Đại Tá Kiết có ông Sĩ Tải Nguyễn Hữu Khoẻ là người hướng đưa vị chức sắc Hiệp Thiên Đài đến tư gia Đại Tá Kiết.



Vào dịp tết nguyên đáng năm Ất Mùi (1955), đức Hộ Pháp có lời nhắc nhở các chức sắc và toàn thể bổn đạo nam nữ: "Đạo Cao Đài vốn là một Đại Đạo của những Tôn Giáo do đức Chí Tôn sáng lập trên đất nước Việt Nam mấy chục năm nay để thống hợp các Tôn Giáo, mà trước đây các bậc đại huynh, các bậc đại Thánh đã tùy thời, tùy thể dựng lên rãi rác khắp các phương trời để phổ độ chúng sanh".

"Nói đến Tôn Giáo là nói đến nhân nghĩa, đã là nhân nghĩa thì nhân nghĩa của nhà Phật Không thể khác với nhân nghĩa của Cơ Đốc, mọi con đường nhân nghĩa đều giống nhau, nhân nghĩa chỉ có kẻ thù là bất nhân, bất nghĩa và vô Tôn Giáo mà thôi.

Vậy thì các con đừng nên hẹp hòi câu chấp ở cái "Ta" mà lấy làm lạk hi thấy bần đạo ra lênh giúp đỡ đồng bào công Giáo xây dựng nhà thờ, hoặc khi thấy các tín đồ công Giáo, Phật Giáo đi lễ ở Đền Thánh.

Đại Đạo bao giờ cũng bao la như biển cả, sẵn sàng tiếp đón mọi dòng sông. Các con nên nhớ rằng trong nhân loại ngày nay chỉ trừ những người vô đạo, tất cả mọi người đều là anh, em của các con, tất cả đều có đạo Cao Đài, vì đạo Cao Đài gồm có Phật Giáo, Công Giáo, Lão Giáo, Nho Giáo v.v... Sở dĩ đức Chí Tôn chọn đất nước Việt Nam này làm Thánh Địa để phổ độ chúng sanh kỳ ba, chỉ vì Việt Nam là nơi kết hợp được tinh hoa của tất cả các nguồn văn minh trên thế giới, Việt Nam là nơi tổng hợp các ngành đạo đức: Nho, Lão, Thích và cũng là nơi gặp gỡ của hai nền văn minh Đông Tây.

Dân tộc Việt Nam với sức cần cù đã chịu đựng nổi mấy ngàn năm ngoại thuộc mà vẫn quật cường đấu tranh để tồn tại, để đồng hóa cả tàn tích ngoại lai mà xây dựng cho mình một nền văn minh, một ngôn ngữ riêng, một quan niệm sống riêng. Một dân tộc như thế lẽ dĩ nhiên phải có đủ đạo hạnh, đủ năng lực để đảm nhiệm việc hướng dẫn văn minh nhân loại sau này.

Các con hãy thành kính tạ ơn đức Chí Tôn và vui vẻ nhận thấy thiên mạng bảo sanh, bằng con đường nhân nghĩa để đưa nhân loại tới đại đồng vậy. Các con hãy luôn luôn gắng sức, đức Chí Tôn bao giờ cũng phù hộ những kẻ có lòng đạo đức hiền lương. Nhưng muốn làm tròn sứ mạng mà đức Chí Tôn giao phó, các con phải bảo vệ sự tồn vọng của dân tộc Việt Nam, chống lại bọn Ma Vương, bọn Sa Tăng của thời đại, đang cố tiêu diệt dân tộc Việt Nam để phá hoại nền Đại Đạo.

Bần đạo nhắc lại, các con phải thương yêu giúp đỡ đồng bào miền bắc, cũng như đồng bào miền nam, các con ở trong miền nam này được may mắn hơn họ, vì 8 năm qua Việt Minh ở đây còn yếu, họ đối xử tử tế với các con. Còn ở ngoài Bắc chánh sách của Tàu (Trung Quốc) đưa sang, Việt Minh đối xử gay gắt hơn. Dân một nước phải coi như anh em ruột thịt một nhà. Các con phải lo việc an cư lạc nghiệp, nhường cơm xẻ áo cho đồng bào, đùng chia rẻ Bắc Nam mà mắc mưu ly gián của Ngoại Bang.

Hiệp định Génève 1954 đã giúp cho nước Trung Cộng chiếm mất của các con gần một nửa nước. Họ đang đồng hóa và cai trị những anh, em các con còn đang bị kẹt ngoài bắc.

Bần đạo hơi tiếc cho ông Hồ Chí Minh vì sai lầm đường lối, muốn phụng sự dân tộc, mà thành ra phụng sự Nga, Tàu.

Nếu Việt Minh cứ mãi mãi là Việt Minh, đừng biến đổi thành Việt cộng hay Việt Tàu, thì chúng ta được an hưởng độc lập từ lâu rồi!

Bần đạo ái ngại cho ông Hồ Chí Minh, vì nếu cái đường lối sai lầm này cứ kéo dài mãi, thì dân chúng Việt Nam phải nổi dậy hết để chống lại ông ta. Vì nếu không, cả dân tộc sẽ bị tiêu diệt bởi chánh sách đồng hóa và thống trị của nước Tàu cộng kia!

Bổn phận của các con chiến sĩ trong quân đội, lại càng nặng nề hơn, vì các con phải lo phục quốc để giữ nước và giữ đạo. Bần đạo mong các con càng ngày càng bỏ được nhiều điều dở, học thêm những điều hay, gắng chặc mối tình huynh đệ để cứu dân, cứu nước.

Ngày xưa tham vọng xâm lăng của Hốt Tất Liệt, của Càn Long đã bị đại bại, vì những danh thần Nguyễn Trải, Ngô Thời Nhiệm, những chiến tướng Trần Hưng Đạo, Quang Trung, bần đạo tin rồi đây những tướng, tá Tàu cộng như Trần Canh, Chu Đức cũng sẽ biết tay của các con, vì các con là con cháu của những kẻ chiến thắng, mà họ là con cháu của những kẻ xâm lăng đã bị chiến bại.

Bần đạo cũng cần nhắc lại cho các tín đồ trong đạo biết, các con sở dĩ được sống yên ổn làm ăn là nhờ có sức chiến đấu của quân đội, những kẻ đã đem xương máu làm thành trì bảo vệ các con. Các con có bổn phận biết ơn và cứu giúp họ, hãy coi họ là tình ruột thịt "máu chảy ruột mềm, môi hở răng lạnh".

Bần đạo hứa sẽ tìm mọi dịp để bày tỏ nguyện vọng của các con cho các dân tộc bạn như Pháp và Mỹ biết rằng: các con chỉ muốn được các nước bạn giúp đỡ các con đương đầu với phe Tàu Cộng để bảo vệ độc lập Việt Nam mà thôi, chứ các con không muốn bị các nước bạn dùng các con chống cộng, để duy trì quyền lợi bất chánh đáng. Bần đạo sẽ nói cho người Pháp và người Mỹ biết rằng: các nước bạn viện trợ cho nước Việt Nam để chống cộng, tức là bỏ tiền ra để xây bức thành rào giữ ngôi vườn Đông Nam Á, các nước bạn sẽ tìm lợi tức ở trong ngôi vườn sau này, chớ không phải tìm lợi tức ở trong số tiền đã bỏ ra xây thành, nếu Việt Nam này mất thì Đông Nam Á cũng phải mất, thế giới Âu Mỹ cũng không còn, khi kho người, kho lúa ở đây bị rơi vào vòng kiểm soát của Nga, Tàu cộng."

Thiết nghĩ trong đêm giao thùa 30 tháng chạp năm Giáp Ngọ (1955) chào mừng xuân Ất Mùi, đức Hộ Pháp đã để lời huấn giáo căn dặn cả chức sắc và bổn đạo nam nữ trên toàn quốc vài vấn đề đạo lý và thế sự, mà người tín hữu Cao Đài hằng ghi nhớ, những lời vàng tiếng ngọc của đức Ngài. Nhất định lời vàng tiếng ngọc này mãi mãi in sâu trong tâm trí của mồi tín đồ ngoan đạo, và lưu truyền cho hậu thế đời đời kiếp kiếp.

Công việc của đạo càng ngày càng chồng chất chẳng hạn như lo cho đồng bào có nơi sinh cư, có cơm ăn áo mặc, xúc tiến công tác huấn luyện: công dân, giáo dục, vệ sinh, nuôi cô nhi, giúp quả phụ, an ủi kẻ già yếu, trợ giúp người khó khăn, cùng chăm lo việc xây chợ, cất trường học, lập nhà dưỡng lão, bệnh viện, nhà bảo sanh cùng khắp vùng thánh địa.

Đặc biệt một đại hội nhân sanh, đại diện chức việc và bổn đạo trên toàn quốc được khai mạc với lời kêu gọi thống thiết của đức Ngài; Con hạc đã hồi qui, nhìn không gian nhớ tổ, xem nước hoa đổi vẻ thay màu, thảm thiết thay nổi lòng tuông châu, đổ ngọc, rấp kêu cuối cùng một tiếng nỉ non, giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi! Bức tranh thê lương này, ai là kẻ tri kỷ, tri âm củng bần đạo, ngoài chư hiền huynh, hiền muội đã kiếm đặng ai.

Tuy nhiên đức Hộ Pháp không hề lảng quên bổn phận một công dân yêu nước nồng nàn, với đường lối bất di, bất dịch là thống nhất lãnh thổ Việt Nam, thu hồi trọn vẹn chủ quyền dân tộc và cương quyết giải phóng quốc gia khỏi lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp giữa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, nên chế độ Ngô Đình Diệm thúc đẩy Trung Tướng Nguyễn Thành Phương đem quân lính về thanh trừng Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh nhằm hạ uy thế đức Hộ Pháp. Nhưng ông Phương không dám trực tiếp xúc phạm đến uy danh của đức Ngài. Ăn cơm chúa phải múa tối ngày, ông Phương tránh né, bèn ủy nhiệm cho Thiếu Tướng Lê Văn Tất, phó Tổng Tư Lệnh, đem quân đội về bao vây Hộ Pháp Đường, nội ô Tòa Thánh ngày 20 tháng 8 năm Ất Mùi (1955) gọi là thanh trừng Hội Thánh.

Thiếu Tướng Lê Văn Tất tuân lệnh Trung Tướng Nguyền Thành Phương đem quân lính thân chinh đến Hộ Pháp Đường, đe dọa cho lính đặt địa lôi giựt xập Hộ Pháp Đường, đã bị Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa lên tiếng phản đối bằng một lời nói danh thép: "Hãy bước qua xác chết tôi, rồi mới vào Hộ Pháp Đường được."

Một vết nhơ tủi nhục của tình "Trò phản Thầy" nhưng đức Hộ Pháp bình thản "hóa giải" cuộc khủng bố bao vây Hộ Pháp Đường và nội ô Tòa Thánh vô cùng độc đáo tế nhị. Không một tiếng súng nổ, mà mưu đồ nhúng tay vào nội bộ Hội Thánh Cao Đài của Ông Diệm hoàn toàn bị phá hỏng trước tinh thần cương quyết phản đối của chức sắc và bổn đạo nam nữ vì Thầy, vì Đạo nơi vùng Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh, bắt buộc quân đội phải tự rút lui có trật tự khỏi khuôn viên Tòa Thánh một cách êm thấm.

Tiếp theo, bao nhiêu trò hề vu khống hết sức thâm độc bôi lọ thanh danh đức Hộ Pháp, đều bị bổn đạo vạch trần phơi bày trước ánh sáng công lý Kẻ phản Thầy, phản Đạo đã hiện nguyên hình, tạ tội cùng Hội Thánh. Thánh Địa Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh trở lại yên ấm như không có việc gì xảy ra cả.

Hội Thánh tiếp tục mở thêm khóa Hạnh Đường đào tạo chức sắc nam nữ đủ khả năng và đạo đức thuyên bổ đi các tỉnh, quận, cùng rèn luyện một số chức sắc ưu tú hướng dẫn các phái đoàn Cao Đài tham dự đại hội Tôn Giáo Quốc Tế khắp cả năm châu:

- 1928 - Đại Hội Quốc Tế Thần Linh Học tại Londres (Anh Quốc) ngày 7/9/1928 - 11/9/1928 ( có 26 nước đến tham dự Congrès Spirite International).

- 1934 - Đại Hội Thần Học tại Tây Ban Nha (Barcelone).

- 1936 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Anh Quốc (Landres).

- 1937 - Đại Hội Thần Ni Triết Học tại Đức Quốc (Eglise Gnostiques D Alemagne).

- 1937 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Anh Quốc (Londres).

- 1939 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Pháp Quốc (Paris).

- 1948 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Lausane.

- 1950 - Đại Hội Thần Học tại Haywards Henth.

- 1951 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Thụy Điển (Stockholm)

- 1952 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Bỉ Quốc (Bruxelles).

- 1952 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Maroc (Casablanca).

- 1954 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Thụy sĩ (Montreux)

- 1955 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Nhật Bổn (Baguio)

- 1965 - Đại Hội Thần Linh Học Thế Giới tại Bĩ (Bruxelles)

- 1966 - Đại Hội Đại Học LosBanos tại Phi Luật Tân (Bagio)

- 1975 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Ấn Độ (New Delhi)

Hiệp định Génève ngày 20-7-1954 không được tôn trọng, hoàn cảnh nước Việt Nam lúc bây giờ rất đen tối, cả hai chánh phủ Miền Nam và Miền Bắc Việt Nam đều do Ngoại Bang yểm trợ. Chánh phủ Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa Miền Bắc do cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, được sự yểm trợ của khối cộng sản Quốc Tế mà Cường Quốc trực tiếp là Nga và Trung Quốc. Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo, được sự yểm trợ của khối thế giới tự do mà Cường Quốc trực tiếp là Tư Bản Mỹ.

Kể từ ngày Pháp và Việt Minh ký kết hiệp định Génève 20-7-1954 tại Thụy sĩ có 9 Cường Quốc (9 nước) ký tên tham dự chia đôi đất nước Việt Nan làm 2 miền Nam-Bắc chọn con sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 làm ranh giới, cũng như trước kia thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, lấy con sông Gianh làm ranh giới (vào thế kỷ thứ 17 - 1627).

Không thể khoanh tay ngồi nhìn cảnh đồng bào bị Ngoại Bang áp đặt, gây cảnh nồi da, xáo thịt, nên đức Hộ Pháp phải tìm phương gở rối cho thế cuộc phải tự lưu đày thể xác một lần nữa, là tự nguyện qua sống lưu vong tại nước Cao Miên, một nước Trung Lập, và là thành viên của 5 điểm SỐNG CHUNG HÒA BÌNH của Thủ Tướng Nneru (Ấn Độ) chủ xướng.

Sáng ngày mùng 5 tết năm Bính Thân (16-2-1956) đức Hộ Pháp và một chức sắc rời Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh lưu vong qua nước Cao Miên, âu cũng là Thượng Đế đã an bày, thực hiện theo đúng ý nguyện của Thượng Đế bằng một chương trình đã tự định trước, một chuyến đi lưu vong để bảo vệ lập trường Trung Lập, tránh áp lực của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, đang tranh giành quyền bá chủ trên thế giới.

Tại Phnom-Pênh, thủ đô nước Cao Miên, đức Hộ Pháp để xướng bản CƯƠNG LĨNH HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG, cốt để giác ngộ quốc dân Việt Nam sớm biết thực dụng quyền hành của dân, bởi cớ có 3 mục tiêu chánh yếu là: Do Dân, Phục Vụ Dân, Lập Quyền Dân. Chỉ có dân mới cứu vãn được tình thế nguy hại cho tương lai Tổ quốc và giống nòi, chúng ta phải bền giữ hòa bình, hạnh phúc, dù cho các nước Liệt Cường Quốc Tế biến thiên thế nào, chúng ta cần phải khôn ngoan hợp sức, nhất tâm, nhát trí bảo vệ toàn vẹn hòa bình quốc nội của ta.

Ngày 15-3-Bính Thân (26-3-1956), đức Hộ Pháp có gởi 2 bức thư cho cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo chánh phủ VNDCCH và Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo chánh phủ VNCH. Kêu gọi cuộc thi đua "Nhân Nghĩa" giữa 2 miền Nam, Bắc Việt Nam.

Tiếc thay! Lúc bấy giờ vì ảnh hưởng của ngoại bang quá ư nặng nề, nên chánh phủ Miền Nam và Miền Bắc không có thẩm quyền định đoạt đến vận mạng dân tộc mình, chưa dám ngồi gần lại với nhau để thảo luận đề nghị của đức Hộ Pháp trình bày trong bản Cương Lĩnh chánh sách Hoà Bình Chung Sống. Đồng thời, Đức Hộ Pháp có gởi văn thơ số: 138/HP/VPHP. ngày 3/11/1956 thân gởi đến các ông Đại Đức Tôn Giáo:



"Thời cuộc hôm nay lại đến một giai đoạn khắc khe, rất nguy hiểm cho tương lai số phận của Việt Nam là nước bị phân đôi, chia 2 chủng tộc dưới ảnh hưởng của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, gây cuộc Nam-Bắc phân tranh, cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt.

Ngoại Bang mưu đồ lợi dụng xương máu đồng bào Việt Nam đặng định quyền bá chủ của họ.

Hiển nhiên giờ phút này, đồng bào Việt Nam ta đã bị lệ thuộc của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, chớ không có độc lập, tự do chi cả, chánh phủ Miền Nam, cũng như chánh phủ Miền Bắc đều bị lệ thuộc như nhau.

Rồi đây, nội chiến sẽ vì ngoại bang bùng nổ mà ta không thể đề phòng được. Chúng ta là người tu hành, các Chư Đại Đức cũng thế, không thể khoanh tay ngồi đợi để thấy cái thảm họa ấy. Bởi chiều theo thiên ý, chúng ta phải tìm một phương pháp hay để chấm dứt cuộc tương tàn, tương sát do mưu đồ ngoại bang áp đặt tranh giành quyền lợi với nhau.

Đương nhiên đồng bào 2 miền Nam và Bắc đều là nạn nhân của 2 tư tưởng, của quyền lực Quốc Gia và Cộng Sản mà cả đồng bào chúng ta từ Nam chí Bắc đồng bị tiêm nhiễm và xu thời theo 2 chánh sách, dân tâm bất nhất".

Ngoài ra đức Hộ Pháp còn gởi đến ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc một giải pháp hòa bình đại đồng thế giới, hầu dung hoà 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm hiểu biết nhau, tương nhượng để tồn tại sống còn, phải thương yêu nhau như anh em ruột thịt, tất cả đều là anh em trong một đại gia đình cùng nhau chung sống hòa bình.

Máu của người Việt Nam đã đổ trên mảnh đất tổ tiên, chịu nạn ngoại quyền chi phối, là một điều bất hạnh cho đồng bào Việt Nam phải gánh lấy thảm họa nợ máu tiền khiên từ đời Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn lưu lại.

Thiết nghĩ, nếu chánh phủ 2 miền Nam-Bắc Việt Nam do cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Tổng Thống Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ có chút thẩm quyền quyết định vận mạng non sông chủng tộc, cùng nhiệt tình thực hiện chánh sách Hòa Bình Chung Sống "Thủy Tổ" của chủ trương hòa giải, hòa hợp dân tộc, thì mảnh đất quê hương cẩm tú này đâu đến nổi điêu linh, lầm than thống khổ. Nhất định đồng bào Việt Nam đã hưởng được thanh bình, hạnh phúc từ lâu rồi. Một bằng chứng hiển nhiên là sau khi Việt Minh đại thắng trận Điện Biên Phủ, khí thế đánh đuổi xâm lăng của toàn dân Việt Nam từ Nam chí Bắc đang bùng lên sôi nồi, thừa sức tiến lên giải phóng cả Miền Nam quá ư dễ dàng, để nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Nhưng chánh phủ miền bắc lúc bấy giờ bị ảnh hướng nặng nề của ngoại bang là Trung Quốc, đã từng kinh nghiệm đặc quyền, đặc lợi trên bàn hội nghị "Bàn Môn Điếm” năm 1953 chia đôi nước Triều Tiên, với 2 chánh phủ Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên.

Mặc dù giải pháp dung hòa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản của đức Hộ Pháp chưa được các cường quốc nhiệt tình hưởng ứng, nhưng có nhiều cường quốc rất lưu ý, chiếu cố, phúc đáp lại đức Ngài với lời lẽ ân cần, tôn kính.

Đồng thời, nhiều biến chuyển rất tốt đẹp và giải pháp hòa giải 2 khối Cộng Sản và Tư Bản từ từ lố dạng không còn là tiếng gọi trong sa mạc như trước đây. Trái lại, nó trở thành âm thanh vô cùng quen thuộc "Hòa Bình Chung Sống" danh từ được thế giới thường nhắc nhở đến, nhất là trong những cuộc biểu tình khổng lồ của các quốc gia yêu chuộng hòa bình, mà cả 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đều nhận định không có kẻ thắng người thua. Nếu nói giữa chủ nghĩa Cộng Sản và Tư Bản không có vấn đề ai thắng ai thua, thì cũng có mặt đúng và mặt chưa đúng!

Đúng trên khía cạnh không thể thanh toán nhau bằng vũ lực, nếu cả hai đồng đọ sức nhau bằng vũ khí hạt nhân, sẽ dẫn tới thảm họa hủy diệt cả hai khối, cả nhân loại.

Không đúng ở chổ xóa nhòa bản chất xã hội, không dám tin tưởng con đường mình đang đi. Giữa 2 hệ thống có thể vì cần thiết để sống còn, phải hòa bình chung sống, phải tự điều khiển mình để theo qui luật, tự toàn thiện mình để tiếp cận với chân lý.

Niềm phấn khởi cho nhân loại trên thế giới là vào tháng 4 năm 1971, đại hội Đảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ 24 tại Mạc Tư Khoa đã long trọng quyết định hòa hoản với Trung Quốc và giao hảo với Mỹ. Đó là triệu chứng biến chuyển Quốc Tế đáng mừng cho nhân loại. Kế tiếp vị lãnh đạo tối cao Thiên Chúa Giáo, đức Giáo Hoàng Phao Lồ đệ lục tuyên bố: xây dựng một xã hội anh em trên mặt đất này.

Rồi tiếp theo phái đoàn thể thao bóng bàn Mỹ, và 3 ký giả Mỹ được Trung Quốc chánh thức mời viếng thăm Bắc Kinh. Sau 20 năm tuyệt giao, Trung Quốc và Mỹ đã bắt đầu tiếp xúc lại. Cuộc tiếp đón phái đoàn thể thao Mỹ rất nồng hậu, đủ chứng tỏ cho quốc tế hiểu ngầm rằng: Cuộc ban giao hi hửu này nhất định sẽ mang lại một sự thỏa hiệp ngấm ngầm và thay đổi bất ngờ của Mỹ đối với Đông Dương, mà Việt Nam là vai tuồng chánh cần phải giải quyết nhanh chóng và êm đẹp trên bàn hội nghị thương lượng chớ không cần đến vũ lực nữa.

Nhất là sự bắn tiếng vô cùng sâu sắc của Thủ Tướng Chu Ân Lai trong buổi tiếp tân phái đoàn bóng bàn Mỹ đã chứng tỏ dấu hiệu chuyển hướng sau bao cuộc thí nghiệm bằng xương máu "biển người" trên mặt trận Điện Biên Phủ Việt Nam, rồi tiếp đến mặt trận Triều Tiên 1955. Các nước nhược tiểu khác đã thoát khỏi nanh vuốt của tử thần qua một câu tuyên bố ngắn gọn của Thủ Tướng Chu Ân Lai: "TỨ HẢI GIAI HUYNH ĐỆ".

Ngày 26-3-1956, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nêu lên chánh sách Hoà Bình Chung Sống với quyết tâm cứu khổ cho nhân loại. Chính bản thân của người tín hữu Cao Đài có lúc phải trả giá bằng xương máu trong lao tù của Miền Nam Việt Nam để góp phần thực thi chánh sách Hòa Bình Chung Sống, với kỳ vọng nước nhà độc lập, tự do, thống nhứt, thoát ra ngoài cuộc xung đột của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đã thề quyết không sống chung bầu trời, kẻ mất người còn.

Một phái đoàn chức sắc và tín hữu Cao Đài tình nguyện lấp bằng sông Bến Hải đã âm thầm đột nhập vĩ tuyến 17, vào ngày 17-4-Bính Thân (1956) để thượng lá cờ trắng tại nhịp cầu thứ hai, cầu Hiền Lương, Bến Hải và được gọi là "Cờ Nhan Uyên" tượng trưng hòa bình. Việc làm này nhằm kêu gọi chánh phủ 2 miền Nam-Bắc Việt Nam hãy gạt bỏ những hiềm khích, ngồi lại với nhau tìm một giải pháp thích hợp cho đôi bên dung hòa lẫn nhau. Do vị trưởng đoàn là Trung Tá Lê Văn Thoại đà hoàn thành xuất sắc trách nhiệm, ngọn cờ trắng (bạch kỳ) được phất phới tung bay trên cầu Hiền Lương, Bến Hải, làm chấn động khắp cả các tỉnh Miền Nam và Miền Bắc lúc bấy giờ, gây nổi lo âu cho chánh phủ Miền Nam không ít.

Tại Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ cả chức việc, chức sắc, bổn đạo nam nữ đồng quyết tâm hưởng ứng chánh sách Hòa Bình Chung Sống, nên một số đông Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài tình nguyện đảm nhiệm trọng trách trong ban vận động CSHBSC Miền Nam, và thành viên được cử vào ban vận động Miền Nam được đệ trình lên Trung Ương.

Ngày 20-3-Bính Thân (30-4-1956) từ thủ đô Phnom-Pênh, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc gởi chứng thư cho từng thành viên trong ban vận động với lời ưu ái nồng nàn.

"Những ai đã nhiệt tình ái quốc, ưu hương để cứu vãn tình thế nguy ngập của nước nhà, xin đem cả năng lực hợp tác, cùng các đồng chí của Bần đạo thọ lãnh ủy nhiệm thư này, hầu vì dân, phục vụ dân, và lập quyền dân, đặng cho toàn dân đủ thẩm quyền cứu nước".

Các thành viên trong ban vận động CSHBCS Miền Nam Việt Nam, thọ lãnh "chứng thư" gồm có:

- Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngòi : - Trưởng ban vận động CSHBCS.Miền Nam Việt Nam.

- Sĩ Tải Lê Quang Tấn : - Tổng Thư ký!

- Sĩ Tải Phạm Duy Nhung : - Tuyên Huấn.

- Sĩ Tải Huỳnh Văn Hương : - Thông Tin.

- Sĩ Tải Nguyễn Văn Tú : - Tài Chánh.

- Sĩ Tải Trần Tấn Hợi : - Kiểm Soát.

- Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân : - Tổ Chức.

- Sĩ Tải Nguyễn Thành Nguyên : - Tổ Chức.

- Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Tỷ : - Tổ Chức.

- Sĩ Tải Nguyễn Hữu Khỏe : - Liên Lạc.

Kế tiếp ngày 23-6-1956, đức Hộ Pháp chỉ thị cho đại huynh Hiến Pháp Trương Hữu Đức, đại diện Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh phải đến kiến diện Thủ Tướng Ngô Đình Diệm để biết rõ thêm thái độ của chánh quyền Miền Nam lúc bấy giờ, đối với Chánh sách Hòa Bình Chung sống do đức Ngài chủ trương.

Một phái đoàn Hội Thánh được thành lập gồm có: Quyền Thượng Chánh Phối Sư Thượng Sáng Thanh, Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ Thanh, và Sĩ Tải Lê Quang Tấn (đại diện cho đại huynh Hiến Pháp) đến kiến diện Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Đồng thời các ban vận động HBCS trực thuộc của tỉnh, quận, xã đều thành lập xong với tinh thần hy sinh cao cả, bảo vệ giọt máu người Việt Nam không cho đổ một cách vô cớ. Điều này khiến cho Chánh Quyền Miền Nam Việt Nam âu lo, và bực bội không ít, nên đã xuất hiện một vài nơi bổn đạo bị chụp mủ là ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản, và tiến tới chánh sách bắt bớ giam cầm một số bổn đạo ở các tỉnh.

Lòng tha thiết yêu chuộng hòa bình của người tín hữu Cao Đài lại bị nghi ngờ là thân Cộng Sản, làm tay sai cho Cộng Sản, để rồi bị đàn áp, bắt bớ, giam cầm. Chủ trương nêu cao ngọn cờ cứu khổ của đạo Cao Đài là phải thương yêu nhau, công bình đối với nhau như tình huynh đệ, anh em một nhà, không phân biệt là Cộng Sản hay Tư Bản, mà chỉ biết nhìn nhau là con chung một cha.

Tại Trung phần Miền Nam Việt Nam, công an mật vụ chế độ Ngô Đình Cẩn ráo riết truy tầm thủ phạm dám cả gan đột nhập cầu Hiền Lương treo cờ trắng (bạch kỳ). Trở về tới ranh giới tỉnh Quảng Trị, chẳng may cho Trung Tá Lê Văn Thoại bị mật vụ của Ngô Đình Cẩn chận bắt. Còn 3 anh: Nguyễn Văn Kỳ, Nguyễn Quốc Đại và Nguyễn Văn Lợi thì cũng bị công an mật vụ chận bắt tại bến xe tỉnh Quảng Trị. Cả 4 anh Thoại, Kỳ, Đại, Lợi đều được công an dẫn giải về giam giữ tại Huế trên 3 năm mới được trả tự do trở về Tòa Thánh Tây Ninh.

Thực hiện bổn phận người công dân Việt Nam yêu tin tưởng nơi bài thánh giáo của đức Cao Thượng Phẩm 23-4-1931



Long tu phiến quạt bợn sơn hà,

Như gián ma xử trấn quốc gia.

Rưới nước cam lồ lau xã tắc,

Múa gươm thần huệ dẹp can qua.

Niệm kinh Khổng Thánh thâu Mao Tưởng,

Phất phướng Nhan Uyên chận Mỹ Nga.

Thế giới hòa bình ai chủ xướng,

Thì dân nước Việt khải hoàn ca.

THĂNG


Bốn anh: Thoại, Kỳ, Đại, Lợi đã hiên ngang, xem thường mọi hiểm nguy đột nhập cầu Hiền Lương (vĩ tuyến 17) treo bạch kỳ hoàn thành sứ mạng một tín hữu ngoan đạo với 3 năm tù gẫm ra cũng có phần qúa đắt đối với người tu sĩ Cao Đài.

Còn hiền huynh Giáo sư Thượng Cao Thanh (Ma Tăng Cao) Khâm Trấn Đạo Thừa Thiên phải bỏ mình trong ngục thất Huế với tội tình nghi chứa chấp hướng dẫn 4 anh: Thoại, Kỳ, Đại, Lợi đột nhập cầu Hiền Lương (Bến Hải) ngày 17-7-Bính Thân (22-8-1956).

Đoàn tình nguyện của Trung Tá Lê Văn Thoại quyết tâm lấp bằng vĩ tuyến 17 đã hoàn thành trọng trách đối với đồng bào 2 miền Nam-Bắc Việt Nam. Quan trọng nhất là ngọn bạch kỳ tượng trưng cho hoà bình đã ngang nhiên tung bay trên cầu Hiền Lương, nhằm thức tỉnh chánh quyền Nam-Bắc nhớ lại thảm họa phân tranh của chúa Trịnh - Nguyễn còn lưu lại hầu ngồi lại với nhau bàn bạc và tìm một giải pháp dung hòa để bảo vệ giọt máu người Việt Nam. Đừng vì ngoại bang mà đỗ máu một cách vô cớ và cần phải khôn khéo tránh né mưu đồ áp đặt của họ.

Đức Hộ Pháp đã nhiều lần dẫn giải cho chức sắc và bổn đạo biết rõ: dân tộc Việt Nam còn phải trả quả kiếp nặng nề của tổ phụ trước kia là Chúa Trịnh Chúa Nguyễn cho xong rồi mới có hòa bình thật sự được!

Tuy nhiên, chẳng lẽ khoanh tay ngồi chờ thảm họa đến, đức Ngài mớ tự sửa đổi máy thiên cơ. Nhưng nào haỵ "vạn sự do thiên định".

Tại thủ đô Phnom Penh (Cao Miên) đức Hộ Pháp ban lệnh cho hiền huynh Giáo Hữu Thái Tây Thanh, một chức sắc Cửu Trùng Đài, một liên lạc viên nổi tiếng của trấn đạo Tần Quốc vượt biên giới từ Phnom Penh đến Bet-Chay, rồi Tân Châu tới Châu Đốc và đi thẳng về SàiGòn suông sẻ nhanh chóng để kịp tiếp xúc với ban vận động Miền Nam chánh sách Hòa Bình Chung Sống hầu chuyển mật thơ của đức Hộ Pháp vào lúc 14 giờ ngày 18-2-1957.

Trưởng ban vận động CSHBCS Miền Nam Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời tiếp được mật lệnh của đức Hộ Pháp chỉ định cho Sĩ Tải Lê Quang Tấn phải vượt biên giới lên Phnom Penh với vị chức sắc liên lạc viên Giáo Hữu Thái Tây Thanh khẩn cấp.

Tuân hành mật lệnh của đức Hộ Pháp, Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời liền triệu tập một buổi họp "khẩn" bất thường của ban vận động Miền Nam. Sĩ Tải Lê Quang Tấn tạm bàn giao trách vụ Tổng Thư Ký cho sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời kiêm nhiệm đảm nhận tạm thời cho Sĩ Tải Tấn kịp "lên đường vượt biên" lên Phnom Penh theo kế hoạch của vị chức sắc liên lạc viên đã dự thảo.

Sĩ Tải Lê Quang Tấn chuẩn bị lên đường với Giáo Hữu Thái Tây Thanh. Chỉ trong 3 tiếng đồng hồ thì mọi việc đều thu xếp xong. Các vị Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời, sĩ Tải Bùi Văn Tiếp và Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân đại diện ban vận động Miền Nam đồng tiễn đưa đến tận bến xe SàiGòn - Châu Đốc (đường Kitchener, gần cầu ông Lãnh SàiGòn). Sự tiễn biệt lúc bấy giờ hết sức cấp bách, kẻ ở lại người ra đi vô cùng quyến luyến, thắm đượm tình huynh đệ gắng bó từ lâu, với những cái khoát tay chia ly chào mừng thượng lộ bình an hết sức cảm động bùi ngùi, khi chiếc xe đò SàiGòn - Châu Đốc bắt đầu lăn bánh vào lúc 18 giờ ngày 18-2-1957.

Mãi lo chuyển giao phận sự Tổng Thư Ký ban vận động Miền Nam cho Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời tạm thời đảm nhận để kịp lên xe vào lúc 18 giờ, sĩ Tải Tấn phải nhờ sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân vui lòng đến báo tin cho gia đình biết là Sĩ Tải Tấn đã lên đường đi Châu Đốc vượt biên sang Phnom Penh với Giáo Hữu Thái Tây Thanh theo lệnh đức Hộ Pháp đã phán dạy.

Rời khỏi tỉnh Châu Đốc với nhiều kinh nghiệm vượt biên giới, liên lạc viên Thái Tây Thanh đã trải qua nhiều chặn đuờng không kém phầm nguy hiểm. Nhất là phải qua một con sông lớn chia hai địa phận Cao Miên và Việt Nam. Chiếc xuồng chèo lắc lư vượt qua sông Bet-Chay để sang phần đất Cao Miên là một mưu trí sáng tạo của Giáo Hữu Thái Tây Thanh.

Khi tới địa phận Cao Miên, cả hai người còn phải thay đổi nhiều chuyến xe đò, họ đã chuẩn bị sẵn giấy tờ hợp lệ lưu thông trên đất Cao Miên để vượt qua các trạm gác dọc đường. Liên lạc viên Thái Tây Thanh đã khéo léo đề phòng mọi sự bất trắc, hầu đến Phnom Penh thông suốt an toàn, tới Thánh Thất Cao Đài kịp giờ qui định cho Sĩ Tải Lê Quang Tấn trình diện Đức Hộ Pháp

Sĩ Tải Lê Quang Tấn đến kiến diện Đức Hộ Pháp và trình bày các diễn biến vừa qua của Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh và sự phổ biến sâu rộng chánh Sách Hòa Bình Chung Sống thành công tốt đẹp khắp cả Miền Nam Việt Nam do quyết tâm của tòan thể chức sắc, chức việc và bổn đạo nam nữ trên toàn quốc nhiệt tình hưởng ứng và hoạt động hữu hiệu của các tỉnh, quận, xã. Sau khi trình diện đức Hộ Pháp xong, sĩ Tải Lê Quang Tấn nghiêm túc thực hiện lời phán dạy: Cần ra trình diện chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên để xin tỵ nạn chánh trị tại Phnom Penh, chờ qụyết định mới. Sĩ Tải liền đến trình diện phòng cảnh sát đặc biệt. (Police Spécial) và làm đúng thủ tục xin tỵ nạn chánh trị tại thủ đô Phnom Penh.

Lúc bấy giờ, tại SàiGòn và các tỉnh miền tây đang gặp nhiều khó khăn với chánh quyền Miền Nam. Trưởng huynh chơn nhơn Trịnh Phong Cương chưởng Quản Hội Thánh Phước Thiện, Thừa Sử Phan Hữu Phước trưởng phòng Bộ Pháp Chánh, Sĩ Tải Trần Tấn Hợi liên lạc viên ban vận đông CSHBCS. Miền Nam, Giáo Hữu Thượng Liên Thanh khâm châu đạo Chợ Lớn, Giáo Sư Thượng Cao Thanh khâm trấn đạo Thừa Thiên, Luật Sư Nguyễn Thị Nhãn Bộ Pháp Chánh Tòa Thánh Tây Ninh v.v… đã hy sinh bỏ mình trong ngục thất, và có trên hai ngàn chức sắc, chức việc, bổn đạo nam nữ cùng bị băt bớ giam cầm để tô điểm them Chính Sách Hòa Bình Chung Sống bằng một tội danh vô cùng đơn giản: Cao Đài ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản.

Thiết nghĩ, chánh quyền Miền Nam đã gay gắt: lên án hiệp định Génève 20-7-1954 là do Việt Minh ký kết với Pháp chia đôi đất nước Việt Nam, và xem ngày 20-7-1954 là ngày "Quốc Hận" của dân tộc Việt Nam, những người Tín Hữu Cao Đào lại phổ biến sâu rộng, cùng thành lập ban vận động CSHBCS khắp các tỉnh, quận, xã trên toàn quốc.Trong khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ trương triệt để chống Cộng Sản, còn tín hữu Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh lại đòi chung sống hòa bình. Có phải chăng là muốn hòa bình chung sống với Cộng Sản nên mới bị chế độ Ngô Đình Diệm khủng bố, đàn áp, bắt bớ, giam cầm. Trái lại số các bộ Việt Minh nằm vùng (không đi tập kết ra bắc) thì lại im hơi lặng tiếng, mặc tình cho hiệp định Génève không được tôn trọng khi mà người tín hữu Cao Đài lại tình nguyện lấp bằng vĩ tuyến 17, ngang nhiên đột nhập khu phi quân sự, thượng bạch kỳ tại cầu Hiền Lương (Bến Hải) không ngần ngại hiểm nguy!

Đang lưu vong tại Cao Miên, tiếp nhận nhiều phúc báo và tường trình của Hội Thánh và ban vận động CSHBCS Miền Nam cho biết rõ về chế độ Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp Cao Đài, đức Hộ Pháp liền có văn thư số 238/HP-VPHN ngày 28-2-1957 cho ông chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến tại Việt Nam (Président De Commission Internationale De Contrôle Au Vietnam)

Xin tạm dịch một đoạn: …………………… Tôi yêu cầu ông Chủ Tịch mở cuộc điều tra tại chỗ và xin can thiệp trả tự do cho những vị đã bị giam giữ.

Sĩ Tải Lê Quang Tấn tự Trường, một chức sắc Cao Đài hiện ở Tòa Thánh Tây Ninh (Miền Nam Việt Nam) là người đại diện chánh thức của tôi có thể cung cấp cho Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát tại Việt Nam, những chi tiết cần thiết trong việc tiến hành cuộc điều tra được dễ dàng xác thực ……

Nguyên vin Pháp Ngữ: ……………Je vaus serai, en conséquence torès reccjnnaissant de vouloir bien faire ouvrir des enquêtes sur place et faire libérer le plutôt possible tous ces détenues.

Le Si Tai Lê Quang Tấn dit Trường, Diguitaire Caodaiste damicilié actuellement au Saint-Siège Caodaique de Tây Ninh (Sud Vietnam) est désigné comme notre Représentant officiel auprès de la c.I.e. au Vietnam pour lui apporter toutes precisians nécessaires et facilliter les enquêtes prescrites.

………………………………………………………………………………………………………………………………

Tiếp theo, ngày 23-6-1956, đức Hộ Pháp tiếp được điện văn của cụ Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa từ Hà Nội gởi đến Phnom Penh với nội dung:



"Tôi trân trọng cám ơn bức điện văn cụ gởi tôi ngày 26-4-1956 và thành thật cám ơn cụ đã tỏ ý mong muốn nước Việt Nam ta được hòa bình thống nhắt. Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa tòan dân ta từ Bắc chí Nam trong nước và ngoài nước đều đang cương quyết và bền bỉ đấu tranh để thực hiện nguyện vọng tha thiết của dân tộc là làm cho nước Việt Nam ta được hòa bình thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh.

Cuộc đấu tranh hiện nay của nhân dân ta tuy phải khó khăn và phức tạp, song toàn dân đoàn kết một lòng cương quyết phấn đấu cho nên nhất định sẽ thắng lợi.

Tôi xin gởi cụ lời chào trân trọng.

Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 1956

Hồ Chí Minh

Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa"

Đồng thời đức Hộ Pháp cũng nhận được thư của ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc hoan nghinh đường lối Hòa Bình Chung sống và giải pháp dung hòa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm thực hiện hòa bình đại đồng thế giới.

Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc và phái đoàn Cao Đài lưu vong tại Cao Miên cũng gặp nhiều trở ngại. Vì quyền lợi, vận mạng của số đông kiều bào Cao Miên còn đang sống rải rác ở các tỉnh: Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc Liêu, Châu Đốc thuộc Miền Nam Việt Nam, bắt buộc chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên phải làm vui lòng chế độ Ngô Đinh Diệm trong sự ngoại giao của 2 nước Việt-Miên. Lúc bấy giờ Quốc Trưởng Norodom Sihanouk rất tế nhị, không trực tiếp hội đàm với đức Hộ Pháp như những lần tiếp kiến đức Ngài trong năm 1950 và 1952 vô cùng tôn kính, mà lại ủy nhiệm cho Thủ Tướng Pen Nouth Chánh Phủ Hoàng Gia tiếp kiến phái đoàn Cao Đài. Do đó đức Ngài chỉ định cho Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa hội đàm với Thủ Tướng Pen Nouth.

Thấu rõ thân phận của người lưu vong và từng kinh nghiệm 5 năm 2 tháng bị tù đày ở Phi Châu Madagascar vào những năm 1941 - 1946, đức Hộ Pháp thông cảm hoàn cảnh của Quốc Trưởng Norodon Sihanouk lúc bấy giờ không thể trực tiếp nghinh đón đức Ngài một cách tưng bừng trọng thể như trước kia.

Tình đời là thế! Nhưng vì sứ mạng của đức Chí Tôn giao phó, đức Ngài không ngần ngại lìa xa Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh để lưu vong qua Cao Miên, một nước Trung Lập hầu tránh áp lực của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản để đề xướng Chánh sách Hòa Bình Chung Sống, bất chấp hiểm nguy đe dọa, và chấp nhận mọi khổ đau tủi nhục của dân tộc bị ngoại bang áp đặt chia đôi lãnh thổ….

Nỗi khổ tâm nhất của đức Hộ Pháp lúc bấy giờ là thỉnh thoảng tiếp nhận được điện tín hoặc phúc trình của Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh và ban vận động CSHBCS Miền Nam báo cáo bổn đạo nơi tỉnh này, tỉnh nọ bị đàn áp, bắt bớ giam cầm, và bỏ mình trong ngục thất. Lòng ưu ái của đức Hộ Pháp đối với số chức sắc, chức việc và bổn đạo vô cùng sâu sắc, nhất là khi được tin đồng đạo bị bắt bớ giam cầm. Cũng như ở tại thủ đô Phnom Penh, Sĩ Tải Lê Quang Tấn phải bị 3 tháng tù với tội danh: Đột nhập vào nước Cao Miên bất hợp pháp. Vừa ra khỏi khám đường, đức Ngài đã an ủi Sĩ Tải Tấn với lời phán dạy hết sức xúc động: "Nếu bần đạo không bị bệnh con không bị kêu án 3 tháng tù đâu". Lời phán dạy của đức Ngài chưa chấm dứt thì hai dòng lệ từ từ chảy trên đôi má, khiến cho cả phái đoàn lưu vong hiện diện không cầm được giọt lệ tự nhiên tuông trào. Đức Ngài tiếp: "Bần đạo đã lớn tuổi rồi, không thể lột da sống đời để lo cho các con mãi được. Tương lai của đạo, của đất nước Việt Nam đều do ở các con, các con là đàn hậu tấn có trách nhiệm phải nối tiếp, Bần đạo chỉ là người tiền phong lo khai sáng nền đại đạo, đó chỉ là bước đầu hy sinh lót đường mà thôi.



Tương lai của Đạo sau này sẽ thuộc thẩm quyền của đàn hậu tấn chăm lo tô điểm cho thiên hạ! Sứ mạng của đàn hậu tấn là như vậy.

Ngày giờ nào có kẻ thất thế yếu cô, rách rưới lang thang, đói cơm khát nước, khổ não tâm hồn, không ai che chở bênh vực, chừng ấy nhiệm vụ trọng yếu của các con là phải ra tay gánh vác. Đó là cơ cứu khổ thực hiện…"

Đồng thời, đức Hộ Pháp liền bảo vị Hành Thiện Nguyễn Văn Hiệu, một ủy viên trung tín trong phái đoàn lưu vong: "Hiệu! Con vào lấy áo trường y của Bần đạo đưa cho anh con, Sĩ Tải Lê Quang Tấn để mặc vào đi trình diện bộ an ninh chánh phủ Hoàng Gia." Vị Hành Thiện Nguyễn Văn Hiệu tuân lời và đem áo trường y đến, đức Ngài liền bảo: Sĩ Tải, Bần đạo ban cho con bộ thiết giáp, con hãy mặc vào và cùng đi với Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đến trình diện với ông Kou Roun, Bộ Trưởng an ninh chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên để xin tỵ nạn chánh trị tại Phnom Penh. Sĩ Tải Tấn cung kính tiếp nhận cái áo của đức Hộ Pháp vừa ban cho, mặc vào xong thì đại huynh Bảo Đạo Khoa cùng Sĩ Tải Tấn lên xe đi thẳng đến bộ an ninh được ông Benkabo Đổng Lý Văn Phòng Bộ An Ninh niềm nở tiếp đón, và sẵn sàng ký giấy phép cho ty nạn chánh trị tại Thủ Đô Phnom Penh (mỗi 3 tháng phải đến trình diện xin gia hạn tiếp).

Ngày 6-5-Đinh Dậu (3-6-1957) đức Hộ Pháp nhận được điện tín từ Tòa Thánh Tây Ninh phúc báo hiền huynh Thừa Sử Phan Hữu Phước đã bỏ xác tại trại giam Thủ Đức (Miền Nam Việt Nam) vào lúc 23 giờ đêm 5-5-Đinh Dậu do hiền huynh Giáo Sư Thượng Giải Thanh báo trình.

Đức Hộ Pháp cho mời Trưởng Huynh Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh, khâm trấn đạo Tần quốc lo thiết lễ truy điệu cho cố Thừa Sử Phan Hữu Phước, vả đức Ngài liền chỉ định cho hiền huynh Đốc Nhạc Trần Thiện Niệm lo buổi lễ Chèo Thuyền tại khách đình lúc 20 giờ đêm 6-5-Đinh Dậu (3-6-1957) rất long trọng. Trong thời gian lưu vong tại Cao Miên, đây là lần đầu tiên đức Hộ Pháp Đến chủ tọa buổi lễ Chèo Thuyền Cố Thừa Sử Phan Hữu Phước đượm tình ưu ái đối với một chức sắc Hiệp Thiên Đài đã trọn hiến thân khổ hạnh cùng nền Đại Đạo.

Bổn đạo nơi trấn đạo Tần Quốc (Cao Miên) còn nhớ rõ, sau buổi lễ chèo thuyền cố Thừa Sử Phan Hữu Phước, đức Ngài cùng cả chức sắc trong phái đoàn lưu vong và Hội Thánh Trấn Đạo cùng bổn đạo nam nữ đồng đến Văn Phòng Khâm Trấn Đạo dùng trà. Đức Ngài ngậm ngùi phán rằng: "Thêm một đúa con trọn trung, trọn hiếu đã trở về với Thầy Mẹ". Thừa sử Phan Hữu Phước từng chịu khổ hạnh, gian lao thử thách, bị tù đày ở Sơn La (Bắc Việt) trong thời kỳ Pháp thuộc, rồi hôm nay vì đường lối Hòa Bình Chung Sống, cố Thừa Sử Phan Hữu Phước đã trọn hy sinh cả kiếp sống bỏ mình trong ngục thất Miền Nam Việt Nam là một sự mất mát lớn lao của Hội Thánh. Đồng thời, đức Ngài liền nhìn qua số chức sắc trong phái đoàn lưu vong tại Phnom Penh phán dạy tiếp: "Rồi đây cả chức sắc, các con phải chịu thúc phược dưới quyền Cộng Sản một thời gian nữa."

Hiền huynh Tổng Giám Võ Văn Khuê (một chức sắc trong phái đoàn lưu vong liền đứng lên bạch đức Ngài: "Chúng con phải chịu thúc phược dưới quyền Cộng sản một thời gian bao lâu?"

Đức Hộ Pháp đáp: "Bần đạo cho hiền đệ một cái Mandat một triệu đồng, mả chư hiền đệ xài mạnh tay quá thì một triệu đồng sẽ hết sớm! Còn đức Chí Tôn cho họ hưởng, mà họ không đạo đức, lại còn tàn bạo quá thì đức Chí Tôn lấy lại sớm!

Chắc các chư hiền đệ và các con còn nhớ bài Ngụ Đời của đức Lý Thái Bạch đã giáng cơ chỉ dạy cho các con từ lâu rồi! Tại sao các con không chịu đọc lại "Ngụ Đời" của đức Lý Đại Tiên?

Những lời phán dạy của đức Lý Thái Bạch đã "tiên đoán" ứng hiện đúng thế cuộc của dân tộc việt Nam trong tương lai."

Thiết tưởng vào đêm 6-5-Đinh Dậu (7-6-1957) đức Hộ Pháp đã tiên đoán trước là dân tộc Việt Nam phải sống thúc phược trong vòng Cộng Sản một thời gian.

Đức Ngài biết rõ luật Thiên Điều đã định vậy, không sao tránh khỏi được. Chẳng lẽ khoanh tay ngồi chờ thế sự xảy đến, nên đức Hộ Pháp tự nguyện nhập Trí Huệ Cung (nhập vào tịnh thất) ngày 16-1-Tân Mão (21-2- 1951), kêu gọi con cái đức Chí Tôn, nhất là Cửu Nhị-Ức Nguyên Nhân hãy tỉnh mộng, mà nhìn lại nơi Trí Huệ Cung. Phải vào nơi cửa này mới đạt đặng cơ giải thoát. Sau đó mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng Sống, mà đức Chí Tôn đã tạo dựng riêng biệt dành để cho mọi người.

Thử hỏi đức Hộ Pháp nhập tịnh để làm gì? Nghĩa lý gì mà ngày 21-2- 1951 phải nhập Trí Huệ Cung trong 3 tháng? Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh như các bạn đã biết. Quyền tận độ đã xuất hiện nơi cửa đạo Cao Đài này. Nó không phải của tư, của đặc biệt chúng ta, mà nó là của cả thể nhân loại trên mặt địa càu này vậy!

Đức Chí Tôn đã đến lập nền Đạo Cao Đài này do nơi chân lý tối cao. Chính đức Chí Tôn đến để diệt mê tín dị đoan và truyền bá một nền đạo chân chính mà thôi. Nhân loại mê tín dị đoan đã nhiều rồi, tinh thần loài người đã bị gạt gầm nhiều rồi, bởi thế nên không thể bị gạt được nữa.

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhập vào Trí Huệ Cung, tịnh luyện trong 3 tháng. Qùi dưới chân đức Chí Tôn thỉnh cầu nơi Ngài cứu độ sanh mạng loài người, vì lẽ nhân loại phạm Thiên Điều, bởi loài người quá dữ gây oan nghiệt nơi mặt địa cầu này đầy dẫy.

Nếu Chí Tôn không có đến hội hiệp con cái của Ngài, lập cơ giải thoát độ tận thì không phương cứu rỗi. Bằng cớ hiển nhiên chúng ta đã thấy, vạn quốc xô nhau đến con đường tử lộ. Bởi quả kiếp, họ chỉ biết cái sống của họ mà chẳng hiểu đến cái sống của người khác, nhất là bạn đồng sanh của chúng ta, để mắt coi họ giết không biết bao nhiêu, giết đặng ăn, ăn đặng sống, sống đặng bao nhiêu tuổi? Giỏi cho lắm kiếp sống của họ cũng không quá 80 tuổi rồi chết, thử hỏi như thế làm sao không gây oan nghiệt tội tình.

Các Tôn Giáo hiện hữu cũng tìm phương cứu rỗi, với rất nhiều hình thức. Cả toàn cầu vạn quốc cũng bày ra vạn quốc thống nhất để tìm giải pháp duy trì hòa bình, tránh cho khỏi nạn tàn sát lẫn nhau.

Ôi! ỷ tài ỷ tận! Lấy trí khôn ngoan để tim cái chết!!! Cả quyền năng cái sống thiêng liêng kia đã ban cho họ, họ lại làm món lợi khí tàn diệt lấy họ đó là "bom nguyên tử". Họ lấy trí khôn tìm ra cái chết chớ không phải tìm lấy cái sống, coi mạng sống của người không ra gì hết, không kể trời đất, đạo lý, luân thường gì hết, không còn kể quả kiếp tội ác, như thế chết cũng vừa! Rồi họ lại tìm đủ cách để tránh tội, nhưng không qua mặt được luật Thiên Điều. Thiên Điều kia, họ không thể di chủ nó được, vi nó cầm sinh mạng của họ, chết hay sống đều do luật Thiên Điều mà thôi, họ không thể tìm bất cứ phương pháp nào để giải quyết được.

Để giải rõ hành tàng trong 3 tháng của đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã nhập Trí Huệ Cung ngày 21-2-1951. Cái hành tàng đó đã quá cũ kỷ chớ không mới lạ gì, hành tàng đó có từ thời thượng cổ! Về mặt đạo, giống như 40 ngày đức chúa Jesus ra ngoài sa mạc khẩn cầu đức Chí Tôn ban bổ hồng ân cho toàn nhân loại đặng đem cơ quan cứu thế của Ngài gieo cho khắp xã hội nhân quần được hưởng. Cũng giống như đức Phật Thích Ca vào vườn Bồ Đề ngồi thiền tịnh đặng xin giải thoát cho chúng sanh.

Về mặt thế, giống như vua David, vì tội tình của nhân loại mà buổi nọ ra đồng sa mạc cầu đạo, xin giải pháp cứu khổ cho dân Israel, và giống như vua Hạ Võ mang hài gai, đội nón lá, chịu phong trần đặng cầu đảo cho quốc dân khỏi tội.

Cần nói rõ hành tàng cho vận mạng của toàn thể nhân loại nói chung, và quốc dân việt Nam nói riêng là nguyên nhân làm cho đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhập vào Trí Huê Cung 3 tháng. Nơi chốn tịch mịch, Ngài đã cầu khẩn với đức Chí Tôn ban hồng ân đặc biệt đặng cứu rỗi lấy họ, là đem cơ quan cứu khổ của Ngài để thực hiện cho toàn thể nhân loại, nhất là sắc dân Việt Nam yêu quí đồng chủng tộc cùng ông Phạm công Tắc.

Thiết nghĩ, một người tượng trưng cho tinh thần đạo đức của dân tộc Việt Nam như đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã có sứ mạng đem tinh thần đạo đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa cải hành tàng hung ác của đời cho thành giọt nước thiêng liêng của đức Chí Tôn. Nước thiêng liêng đạo đức của Ngài, dọn con đường thánh đức sạch sẽ, ấy là nước chí thánh của Ngài, cầm giọt cam lồ đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi mặt địa cầu này.

Cái định mạng của nhân loại cũng như định mạng của toàn thể quốc dân Việt Nam, trong giờ phút này ở trong tay đức Chí Tôn. Luật nhân quả của nhân loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc hòa bình được!

Nền chân giáo của đức Chí Tôn vẫn là đường ngay chánh, nhất định về thể pháp chân truyền không hề mê hoặc ai cả. Những phương pháp mê hoặc của thiên hạ về đạo lý sẽ bị chân truyền của đức Chí Tôn từ từ tiêu diệt hết.

Không có quyền năng thiêng liêng của đức Chí Tôn, không ai cứu chửa tội tình của nhân loại được! Cái mơ vọng của thiên hạ chỉ đạt được khi mà khối chánh đức của họ cao hơn phàm tâm của họ. Đến lúc ấy hạnh phúc của họ mới có và cơ quan cứu khổ của đức Chí Tôn mới thực hiện được.

Đức Hộ Pháp nhập Trí Huệ Cung "thiền định" trong 3 tháng cũng như đức Lý Thái Bạch đã phán dạy trong đàn cơ tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 5-2-1927 (năm Đinh Mão):


Каталог: booksv -> khaitam -> TIEU%20SU%20DHP%20-%20HC
khaitam -> I/. introduction to caodai religion 3 ii/. Meaning of word "tao" in caodai religion 4
khaitam -> 1. Đêm 28 tháng 7 Canh-Dần (1950). 1 Phò Loan: Luật-sự: Khoẻ, Hưỡn
khaitam -> NHỮng lời tiên tri đẦy huyền diệu củA Ông phật sống là ĐỨc hộ pháp phạm công tắc mà Ít ngưỜi biếT ĐẾN
khaitam -> Thánh Thơ của Thượng Sanh. 1 Holy Letter of His Holiness Thượng San
khaitam -> Giải thích Đức Di Lạc cỡi cọp. Giải thích tám khuôn hình trước bao lơn Đền Thánh
khaitam -> Hình Tòa Thánh Picture of Holy See
khaitam -> I/. introduction to caodai religion 1 ii/. Meaning of word "tao" in caodai religion 2
khaitam -> 1. Đêm 28 tháng 7 Canh-Dần (1950). 1 Phò Loan: Luật-sự: Khoẻ, Hưỡn
TIEU%20SU%20DHP%20-%20HC -> Đinh Tấn Thành

tải về 1.06 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương