Hãy hành động để ngăn nước biển dâng” (Raise your voice, not the sea level) “Hãy hành động để ngăn nước biển dâng”


Việt Nam hành động để ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu



tải về 186.94 Kb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu12.09.2016
Kích186.94 Kb.
#32060
1   2

Việt Nam hành động để ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu

Ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, ở Việt Nam không chỉ còn là nhận thức của ngưới dân hay chủ trương của Đảng ta, mà cả hệ thống chính trị đã vào cuộc để hành động.


Đây là bước tiến tất yếu khi mà, không chỉ Việt Nam mà cả thế giới cũng đã chứng kiến hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu diễn ra nhanh hơn dự báo của loài người.

Biến đổi khí hậu toàn cầu nhanh hơn dự báo

Theo Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change - UNFCCC), “Biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của hoạt động con người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu, được quan sát trên một chu kỳ thời gian dài”.

Báo cáo năm 2013 của Uỷ ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (International on Climate Change - IPCC) nhận định: biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn so với dự báo. Báo cáo cũng chứng minh rằng, nhiệt độ bề mặt trái đất và mặt nước biển tăng lên hơn 0,480C so với thời kỳ 1961-1990;mực nước biển toàn cầu cũng dâng cao kỷ lục, đạt mức 3,2mm/năm, cao gấp đôi so với 1,6mm/năm của thế kỷ 20.

Song song với những diễn biến “nhanh hơn” đó là do những tác nhân của biến đối khí hậu cũng mạnh hơn. Cũng theo IPCC, lượng phát thải khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu (hơn 50 tỷ tấn CO2tương đương) đã vượt mức dự báo cho năm 2030, lớn hơn 15% so với dự báo cho năm 2020, bỏ xa mốc kịch bản dự báo xấu nhất từng đưa ra. Trong khi đó, Tổ chức năng lượng thế giới (International Energy Agency - IEA) đưa ra các con số kỷ lục:phát thải khí nhà kính từ đốt nhiên liệu hoá thạch đã đạt mức kỷ lục (31,6 tỷ tấn) trong năm 2011, tăng 3,2% so với năm 2010.

Rõ ràng, biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại, sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn thế giới. Theo đó là các hệ lụy đến an ninh toàn cầu trên các mặt như: năng lượng, lương thực, xã hội, việc làm, ngoại giao, văn hóa, kinh tế, thương mại, đời sống, sức khỏe con người...

Điều đáng báo động là những tác động nghiêm trọng đó diễn ra trong bối cảnh loài người đã nỗ lực rất lớn để ứng phó với nó ngay từ khi no hiện hữu - gần 20 năm qua. Bắt đầu từ năm 1992, nguyên thủ quốc gia đên từ hơn 150 nước đã ký một Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu, gọi tắt là UNFCCC. Từ đó, đã gần 20 năm qua, hằng năm, hàng trăm quốc gia lại tham gia Hội nghị của UNFCCC để bàn thảo, thống nhất các cam kết về nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là dường như nỗ lực của Liên hiệp quốc cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới phần nào đó bị định trệ vì những bất đồng về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia ký kết các văn kiện UNFCCC.

Đầu tiên là sự bất phê chuẩn Nghị định thư Kyoto 1997 của Mỹ (nước có tổng lượng phát thải khí nhà kính lớn thứ 2 thế giới, sau Trung quốc) đã khiến Nghị định này bị đình trệ - kéo dài không hiệu lực trong suốt 8 năm sau đó. Mặc dù được ký kết – có hiệu lực từ năm 2008, nhưng cho đến thời điểm Nghị định thư Kyoto hết hiệu lực – năm 2012, nó vẫn chưa được thực thi vì tiếp tục có một số bất đồng căn bản – sự nhìn nhau của các nước phát thải lớn, điển hình như Mỹ, Trung quốc và Ấn độ.

Trong khó khăn đó, nỗ lực của các nước được tiếp tục được ghi nhận, đạt được những bước tiến khả quan. Hội nghị gần đây tại Doha (Qatar) năm 2012, Nghị định thư Kyoto được tất cả các nước trên thế giới đồng thuận – gia hạn thêm đến năm 2020. Mặc dù Hội nghị này chưa có tính khả thi cao – khi chưa đưa rat được mức cam kết cụ thể của từng quốc gia, song nó cũng đã cho thấy về nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn càu của loài người.

Ảnh hưởng đến Việt Nam: không chỉ nhanh mà còn trên quy mô rộng và mức độ cao

Việt Nam xếp trong nhóm các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ hậu quả của biển đổi khí hậu vì có đường bờ biển dài, địa hình phức tạp và khí hậu nằm ở vùng nhiệt đới (tropical).

Theo một nghiên cứu năm 2012 của Ngân hàng thế giới (World Bank – WB), gần 16% diện tích, 35% dân số và 35% GDP của đất nước này có thể bị thiệt hại nghiêm trọng nếu mực nước biển dâng lên 5 m.

Thực tế, những năm gần đây, biến đổi khí hậu càng hiện hữu khi mà tần suất và cường độ thiên tai ngày càng gia tăng, gây ra nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, các cơ sở hạ tầng về kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến môi trường. Theo báo cáo năm 2011 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong chu kỳ 10 năm từ 2001-2010, các loại thiên tai như: bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn và các thiên tai khác đã làm thiệt hại đáng kể về người và tài sản, đã làm chết và mất tích hơn 9.500 người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính chiếm khoảng 1,5% GDP/năm.

Với đặc thù là nước nông nghiệp, với hai “vợ lúa” là vùng đồng bằng Sông Hồng (phía Bắc) và vùng đồng bằng Sông Cửu Long (phí Nam), biến đổi khí hậu đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp, thể hiện trên các mặt như: thu hẹp diện tích đất nông nghiệp; tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng; ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng, tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm.

Với tốc độ biến đổi khí hậu ngày càng tăng, mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng và trên diện rộng, kịch bản cho Việt Nam có thể diễn biến ở mức độ cao nhất. theo kịch bản cao nhất. Theo WB, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ có thể tăng khoảng 4oC, nước biển dâng cao trong khoảng 1m. Với kịch bản này, theo các mô hình nghiên cứu, sẽ ngập khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng, 3% diện tích các tỉnh khác vùng ven biển bị ngập, 20% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh và khoảng 10 - 12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp.



Ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam

Cũng như một số nước nổi lên trên diễn đàn quốc tế về vấn đề biến đổi khí hậu trong gần 20 năm qua như như Na uy và Indonesia, biến đổi khí hậu là vấn đề còn mới đối với Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam đã sớm có những đánh giá, nhận định và chiến lược ứng phó phù hợp.



Nhận thức và chủ trương rất rõ ràng

Không chỉ dừng lại ở nhận thức của người dân, về mặt chủ trương, Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò lãnh đạo duy nhất của đất nước đã có những văn kiện rất căn bản và kịp thời đối với vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Ngay từ năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sơm có những chủ trương tại Quyết định số 187-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng năm 1991 liên quan đến “môi trường” và “sự phát triển bền vững” khi mà nền kinh tế chuẩn bị bước vào kế hoạch 10 năm cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Đến giai đoạn cuối của việc thực hiện Quyết định số 187-CT, năm 1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Đảng ra Chỉ thị số 36-CT/TW về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước”.

Đến Đại hội IX (2011), Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41-NQ/TW – chuyên đề về bảo vệ môi trường và đặc biệt nhấn mạnh đến phát triển bền vững, gìn giữ cảnh quan tự nhiên.

Sang Đại hội X, rút kinh nghiệm “về phát triển nhanh và bền vững”, BCT ra lại nghị quyết chuyên đề đặc biệt về “tam nông” - Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trọng tâm xây dựng nông thôn mới.

Điển hình nhất là gần đây, Ban Chấp hành Trung ương đã thông quaNghị quyết chuyên đề số 24-NQ/TW - về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lýtài nguyênvà bảo vệmôi trường”.

Hành động kịp thời

Ở cấp độ chiến lược – kế hoạch cụ thể, Chính phủ đã kịp thời từ đề cập đến có chiến lược chuyên đề để cụ thể hóa chủ trương của Đảng về vấn đề biến đổi khí hậu. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 nêu rõ quan điểm “Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”. Hay gần đây nhất, Chính phủ đã có Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 23/01/2014 với kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Ơ cấp độ chính sách – hành động để cụ thể hóa chủ trương của Chính phủ,Việt Nam đã sớm xây dựng, ban hành các văn bản chính sách, quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu như: Luật Đê điều; Luật Tài nguyên nước; Luật Bảo vệ và phát triển rừng…

Song song với các hoạt động trong nước, Chính phủđã chủ động để có vai trò ngày càng tích cực trong các diễn đàn, hội nghị quốc tế, xây dựng được hình ảnh Việt Nam tích cực ứng phó vớibiến đổi khí hậutrên trường quốc tế.Điển hình như Việt Nam luôn tích cực tham gia tất cả các Hội thường niên của các bên tham gia Công ước khung của Liên hiệp quốc về Biến đổi khí hậu (Conference of Parties – CoP), từ CoP 1 năm 1995 đến CoP 19 năm 2013.

Bên cạnh đó, Việt Nam tích cực tham gia các tổ chức chuyên đề trong khu vực cũng như toàn cầu như: Trung tâm giảm nhẹ thiên tai Châu Á (ADRC), Trung tâm phòng ngừa thiên tai Châu Á (ADPC); Ủy ban quản lý thiên tai ASEAN (ACDM); Ủy ban bão (TC); Đối tác giảm nhẹ thiên tai (NDM-P)…

Nhưng cần sự quyết liệt hơn của cả hệ thống chính trị

Chủ trương mới đây (Nghị quyết số 24-NQ/TW) đã xác định quan điểmrất rõ ràng rằng: biến đổi khí hậu là thách thức nghiêm trọng, phải tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng là ưu tiên, chủ động phòng, tránh thiên tai là trọng tâm.

Tuy nhiên, hành động cụ thể của cần được sự vào cuộc quyết liệt hơn của cả hệ thống chính trị, trong đó Chính phủ giữ vị trí là đầu mối. Về nội dụng, cần hành động nhanh hơn và mạnh hơn với các vấn đề cơ bản như:

- Chính phủ, với vị trí đầu mối cần quyết liệt chỉ đạo để đưa Chương trình hành động theo Quyết định số 08/NQ-CP ngày 23/01/2014 vào thực tiễn ở các địa phương. Song song, các tổ chức chính trị khác như Quốc hội, sự lãnh đạo của Trung ương Đảng cũng cần được chủ động tăng cường.

- Về mặt thể chế, Chính phủ cần có sự điều chỉnh, sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu.

- Trên tinh thần cả hệ thống chính trị vào cuộc để ứng phó với biến đổi khí hậu, nguồn vốn đầu tư cần được tăng cường và đa dạng hóa hơn nữa. Đặc biệt, các nguồn lực từ vốn đầu tư nước ngoài (Foreign direct investment – FDI) và vốn lồng ghép các chương trình quốc gia liên quan đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn cần được tập trung tăng cường.



Trần Văn Việt
Ban Kinh tế Trung ương

Những giải pháp cấp bách để bảo vệ môi trường

Hiện nay, công tác bảo vệ môi trường đang đứng trước nhiều thách thức đáng quan tâm như: thách thức giữa yêu cầu bảo vệ môi trường với lợi ích kinh tế trước mắt trong đầu tư phát triển; thách thức giữa tổ chức và năng lực quản lý môi trường còn nhiều bất cập trước những đòi hỏi phải nhanh chóng đưa công tác quản lý môi trường vào nền nếp; thách thức giữa cơ sở hạ tầng, kỹ thuật bảo vệ môi trường lạc hậu với khối lượng chất thải đang ngày càng tăng lên; thách thức giữa nhu cầu ngày càng cao về nguồn vốn cho bảo vệ môi trường với khả năng có hạn của ngân sách Nhà nước và sự đầu tư của doanh nghiệp và người dân cho công tác bảo vệ môi trường còn ở mức rất thấp…

Cần kiểm soát chặt chẽ việc xả thải của các doanh nghiệp



 Trong những thách thức nêu trên, đặc biệt nổi lên là thách thức giữa yêu cầu bảo vệ môi trường, phát triển bền vững của đất nước với yêu cầu tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm. Vì vậy, để tiếp tục thực hiện thắng lợi những mục tiêu bảo vệ môi trường trên quan điểm phát triển bền vững của Đảng và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Thứ nhất: Trước hết phải xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Cần tạo bước chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức sang hành động cụ thể. Lấy chỉ số đầu tư cho môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, kết quả bảo vệ môi trường cụ thể để đánh giá.

Thứ hai: Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Khắc phục suy thoái, khôi phục và nâng cao chất lượng môi trường; Thực hiện tốt chương trình trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng, tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên; Khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm môi trường và cân bằng sinh thái; Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển “năng lượng sạch”, “sản xuất sạch”, “tiêu dùng sạch”; Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.

Thứ ba: Coi trọng yếu tố môi trường trong tái cơ cấu kinh tế, tiếp cận các xu thế tăng trưởng bền vững và hài hòa trong phát triển ngành, vùng phù hợp với khả năng chịu tải môi trường, sinh thái cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên và trình độ phát triển. Đã đến lúc “nói không” với tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá; Tăng trưởng kinh tế phải đồng thời với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu cũng phải thay đổi theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc làm, hỗ trợ để đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.





Lực lượng Cảnh sát môi trường kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp

Thứ tư: Dự báo, cảnh báo kịp thời, chính xác các hiện tượng khí tượng thủy văn, chung sức và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; Tập trung triển khai thực hiện Chiến lược phát triển ngành khí tượng thủy văn đến năm 2020 và hai đề án: Hiện đại hóa công nghệ dự báo khí tượng thủy văn; Hiện đại hóa ngành khí tượng thủy văn; Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cộng đồng quốc tế trong việc tham gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu; lồng ghép các yếu tố biến đổi khí hậu với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020) và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015), xác định các giải pháp chiến lược và chính sách thực thi, bố trí các nguồn lực cần thiết để tổ chức và triển khai thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thứ năm: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai; Quy hoạch sử dụng đất cả nước đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 - 2015. Xác lập cơ chế cung - cầu, chia sẻ lợi ích, phát triển bền vững tài nguyên nước và bảo đảm an ninh nguồn nước. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước và các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực tài nguyên nước theo hướng xác lập cơ chế quản lý tài nguyên nước đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mọi người dân tham gia bảo vệ môi trường, làm kinh tế từ môi trường. Tạo điều kiện, hỗ trợ để các tổ chức phản biện xã hội về môi trường, các hội, hiệp hội về thiên nhiên và môi trường hình thành, lớn mạnh và phát triển, đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường.

Thứ sáu: Đẩy mạnh thực hiện “kinh tế hóa” trong lĩnh vực địa chất và khoáng sản theo hướng giảm cơ chế “xin - cho”, tăng cường áp dụng hình thức đấu thầu quyền thăm dò khoáng sản, đấu giá mỏ để tăng thu cho ngân sách Nhà nước và lựa chọn được tổ chức, cá nhân có năng lực, kinh nghiệm tham gia hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản; nâng cao tính thống nhất, tránh chồng chéo trong quản lý; tăng cường phân cấp cho các địa phương quản lý khoáng sản; chú trọng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật...Đồng thời, tiếp tục giảm xuất khẩu thô, đẩy mạnh chế biến sâu nhằm bảo vệ và nâng cao giá trị tài nguyên khoáng sản, hướng tới mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp khai khoáng ổn định, bền vững. Phát triển kinh tế biển, bảo vệ an ninh trên biển.

Thứ bảy: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, chuẩn bị cơ sở pháp lý cho ứng phó với biến đối khí hậu theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng Bộ Luật Môi trường, hình thành hệ thống các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ trách nhiệm và thiếu khả thi. Hệ thống pháp luật về môi trường phải tương thích, đồng bộ trong tổng thể hệ thống pháp luật chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nguyễn Xuân Thành

Cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm về môi trường - Bộ Công an

(Theo monre.gov.vn)

 

 

tải về 186.94 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương