5.2. Dữ liệu từ các nghiên cứu quan sát:
Số lượng các nghiên cứu quan sát đã xác định lợi ích điều trị của can thiệp mạch vành tiên phát so với TSH ở người cao tuổi vượt hơn hẳn RCTs. Như trong phân tích đã nói trước đây của CCP, Berger và cộng sự cho thấy can thiệp mạch vành tiên phát so với không tái tưới máu có liên quan tới giảm ý nghĩa trên tỉ lệ tử vong ở cả thời điểm 30 ngày và 1 năm trong số những bệnh nhân mà không có chống chỉ định hoàn toàn với điều trị TSH [9]. Trong nhóm bệnh nhân "lý tưởng", can thiệp mạch vành tiên phát giảm được tỉ lệ tử vong được điều chỉnh tại thời điểm 30 ngày và 1 năm so với không điều trị (OR 0.78, 95% CI 0.58-1.05; và OR 0.63, 95% CI 0.49-0.84). Tuy nhiên, do phân tích này dùng điều trị không tái tưới máu như là nhóm so sánh, nên can thiệp mạch vành tiên phát và TSH không được so sánh một cách trực tiếp.
Trong một phân tích riêng rẽ của CCP, Berger và cộng sự đã so sánh một cách trực tiếp can thiệp mạch vành tiên phát với điều trị TSH [10]. Dự hậu của 18.645 bệnh nhân điều trị TSH được so sánh với 2.038 bệnh nhân được điều trị can thiệp mạch vành tiên phát. Dân số nghiên cứu này bao gồm những bệnh nhân >65 tuổi, không bị shock tim, nhập viện trong 12 giờ từ lúc khởi phát triệu chứng và không có chống chỉ định với điều trị TSH. Trong toàn bộ dân số nghiên cứu, can thiệp mạch vành tiên phát làm hạ thấp tỉ lệ tử vong thô và tỉ lệ tử vong được điều chỉnh tại thời điểm 30 ngày và 1 năm. Lợi ích của can thiệp mạch vành được duy trì ngay cả ở bệnh nhân >75 tuổi.
Lợi ích của can thiệp mạch vành tiên phát cũng được chứng minh bởi Zahn và cộng sự trong một phân tích gộp của thử nghiệm MITRA và MIR [70]. Cả hai thử nghiệm MITRA (1994-1997) và MIR (1996-1998) đều thực hiện ở Đức, là các nghiên cứu quan sát, tiến cứu, đa trung tâm về điều trị bệnh nhân bị NMCT cấp. Có 54 bệnh viện tham gia vào nghiên cứu MITRA. Nghiên cứu MIR là nghiên cứu toàn quốc bao gồm tổng cộng 217 bệnh viện (chủ yếu là bệnh viện địa phương). Trong phân tích hơn 9000 bệnh nhân đủ điều kiện dùng TSH này, can thiệp mạch vành có liên quan hằng định tới giảm tỉ lệ tử vong nội viện qua tất cả các nhóm tuổi, giảm 40% nguy cơ tử vong nội viện ở những người ≥75 tuổi. Khi tỉ lệ tử vong tuyệt đối gia tăng thì có sự gia tăng lợi ích của can thiệp mạch vành hơn điều trị TSH.
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, đa trung tâm ở Đan Mạch về điều trị TSH so với can thiệp mạch vành tiên phát trên bệnh nhân NMCT cấp (DANAMI-2), nghiên cứu này so sánh bệnh nhân được chuyển đến can thiệp mạch vành trong vòng hai giờ từ lúc khởi phát triệu chứng với nhóm dùng TSH tại chỗ trên 1572 bệnh nhân NMCT cấp có đoạn ST chênh lên [4]. Một lần nữa, can thiệp mạch vành có liên quan tới giảm tỉ lệ tử vong, nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ tại thời điểm 30 ngày so với t-PA trên toàn bộ dân số và ở người cao tuổi (>63 tuổi: OR của can thiệp mạch vành so với t-PA, 0,53 [0,36-0,9]. Tại thời điểm 3 năm, nguy cơ TIMI cao lúc nhập viện là chỉ số tiên lượng tốt quan trọng của can thiệp mạch vành so với t- PA (p<0,0008). Những bệnh nhân có điểm nguy cơ TIMI cao hơn (≥5) bao gồm những bệnh nhân cao tuổi (≥75 tuổi, 55% so với 8%), bệnh nhân bị shock tim (huyết áp tâm thu <100 mmHg, 21% so với 3%), bệnh nhân có Killip ≥3 (26% so với 3%) và những người nhập viện trễ (≥4 giờ, 52% so với 27%). Điều này cung cấp thêm những chứng cứ về lợi ích vượt trội của
can thiệp mạch vành qua da. [58]
100>
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |