Sách Tự Thú của Thánh Augustinô Bản dịch của Lm. Ngô Tường dzũng, Texas, usa



tải về 360.07 Kb.
trang4/6
Chuyển đổi dữ liệu24.09.2017
Kích360.07 Kb.
#33345
1   2   3   4   5   6

24. Vòng xích sắt

Câu chuyện Simplicianus kể cho tôi gây ảnh hưởng cho tôi. Tôi đột nhiên muốn hăng hái theo gương Victorinus. Sau đó trong thời hoàng đế Julian, Simplicianus cho tôi hay Victorinus phải chọn hoặc tiếp tục dậy tu từ hay chỉ học Thánh Kinh vì sắc lệnh hoàng đế không cho người Kitô hữu dậy văn chương hay tu từ. Dĩ nhiên Victorinus chọn con đường Lời Chúa. Tôi coi như ông có phước hơn là dứt khoát, khi có thể dễ dàng và rõ ràng quyết định như thế. Tôi ao ước có thể lựa chọn dễ dàng như thế. Tôi cảm thấy mình còn bị ràng buộc bằng xích sắt của Kẻ Thù dù tôi không muốn. Ðiều xảy ra cho chúng ta là những ước muốn không trong sạch phát xuất từ những tình cảm sai lạc và khi nhượng bộ chúng chúng ta tạo nên thói quen trở thành một thứ nhu cầu. Tiến trình này ràng buộc tôi như giây xích sắt. Ý chí mới của tôi muốn phụng sự Chúa không đủ mạnh để chiến thắng ý muốn cũ bị hư hoại, đã khó hơn vì thành thói quen. Vì thế hai ý muốn của tôi tranh chấp, cũ và mới, xác thịt và thần linh và cuộc tranh đấu làm cho tâm trí tôi rã rời.


Ðây là điều thánh Phaolô đã nói " Xác thịt tranh đấu cùng Thần Trí và Thần trí cùng xác thịt". Tôi dã kinh nghiệm điều mà thánh nhân và nhiều người khác đã có. Ðây không phải là điều độc đáo.


Chỉ vì ý chí tôi thất bại. Tôi như người đang ngủ thức dậy và muốn chỗi dậy và làm việc trong ngày, nhưng lại ngủ trở lại.Tâm trí bị thuyết phục nhưng thân xác không theo tín hiệu của nó.Chúa tỏ cho tôi điều tôi phải làm và tất cả câu trả lời là "Vâng, vâng, con đồng ý. Sớm sủa. Con sẽ làm ngay. Xin kiên nhẫn với con một chút nữa thôi." Nhưng thực sự cái sớm sủa càng ngày càng lâu và cái một ít nữa thôi thành một thời gian lâu.

Tôi thấy tập quán xấu rất tệ hại, một thứ luật của tội lỗi có thể làm cho tâm trí con người chống lại ý chí. Chúng ta phải trá giá quá đắt khi sa vào tội lỗi với ý thức. Như vị tông đồ đã viết "khốn khổ cho tôi, ai sẽ giải cứu khỏi thân xác hay chết này? Tôi biết như ngài biết, chỉ có câu giải đáp là ơn của Chúa Giêsu Kitô.

25. "Hãy làm cho con nên thánh nhưng xin đừng làm ngay"

Câu chuyện của Victorinus có ảnh hưởng lớn trong cuộc đời của tôi và lại được củng cố do một kinh nghiệm mấy ngày sau. Một người bạn ở Phi châu tên Pontitianus thăm tôi và Alipius. Anh ta có địa vị cao trong dinh hoàng đế. Tôi không thể nhớ anh đến thăm chúng tôi vào dịp nào nhưng tôi còn nhớ rõ anh lấy cuốn sách thu thánh Phaolô trên bàn tôi. Hình như anh ngạc nhiên thấy cuốn sách ở đó và anh rất hài lòng. Khi tôi giải thích cho anh tôi dùng nhiều thời gian để học kinh thánh, anh lợi dụng dịp ấy cho tôi hay anh là người Kitô hữu và mới có dịp học hỏi những tác phẩm của một vị ẩn sĩ Ai cập là Anthony. Cả tôi và Alipius đã nghe nói về ngài cũng như sự canh tân tinh thần lớn lao kèm theo sứ vụ của ngài. Hàng ngàn người đã vào tu viện hiến thân cho việc cầu nguyện và phục vụ ngay giữa lòng sa mạc.


Hơn thế nữa Pontitianus còn kể cho chúng tôi hay có một tu viện đang phát triển ở Milan ngay ngoài thành phố, dưới sự coi sóc của Ambrose. Chúng tôi sống ở Milan mà không biết gì về chuyện đó. Rồi anh tiếp tục kể anh đã đi thăm Treves với ba công chức, trong khi hoàng đế dự cuộc tranh đấu buổi chiều ở hí trường. Cả bốn người chia làm hai nhóm và tình cờ đi vào phía gần thành phố và hai người trong bọn đã vào một lều tranh nơi có nhiều kitô hữu sống hoàn toàn trong sự từ bỏ. Họ là những người có tinh thần nghèo khó sẽ được thừa hưởng nước trời.

Tại đây hai ông đọc một cuốn sách của thánh Anthony. Ðọc xong anh ta bèn quyết định sống cuộc sống như thế không phải một ngày kia, hay càng sớm càng tốt hay một lúc lâu sau, nhưng ngay tại đó và lúc đó. Anh ngỏ ý cho người bạn nói anh muốn đoạn tuyệt cuộc sống hiện tại và tham vọng và gia nhập cộng đoàn nhỏ này ngay, không trở về thành phố nữa. Anh bạn bất ngờ thay cũng muốn ở lại.

Khi Pontitianus và người bạn biết chuyện, họ cố gắng thuyết phục họ trở về hoàng cung. Nhưng khi họ thấy hai người quá thành thật họ cũng phải rơi nước mắt chúc mừng cho họ, hứa sẽ nâng đỡ họ bằng lời cầu nguyện và rất khó khăn mới trở về hoàng cung.


Hai người kia ở lại trong căn nhà nghèo đó, đầy tràn thị kiến. Cả hai đều mới đính hôn nhưng khi hai nàng nghe chuyện họ cũng quyết định hiến thân phục vụ Chúa và gia nhập tu viện.


Nghe câu chuyện đó tôi thấy như mình bị thúc nhắc. Ðiều này bó buộc tôi nhìn vào mình và ghét những gì tôi thấy. Trong bao nhiêu năm từ khi tôi được 19 tuổi, tôi thường nói mình tìm kiếm chân lý. Thế mà lúc này tôi vẫn còn trì hoãn còn chối bỏ trong khi những người này đã đáp lại tiếng gọi của Chúa ngay không phải trong năm hay tháng hay tuần lễ mà trong giây phút. Thực ra từ khi còn nhỏ tôi đã xin Chúa sự trong sạch. Nhưng tôi hay thêm điều kiện " Lạy Chúa xin cho con tiết độ nhưng đừng cho ngay." Tôi sợ Chúa trả lời ngay và giải thoát tôi ngay. Ðiều tôi muốn là làm sao cho ứ tràn dục tình.


Tôi điên khùng không quyết định nữa vì tôi không chắc con đường nào là đường chính mình phải theo. Lúc này tôi ở vị trí này, hoàn toàn chắc chắn về con đường, xác tín về chân lý, thế mà còn do dự cầu nguyện là "Lạy Chúa xin làm cho con nên thánh...nhưng xin đừng làm ngay."




26. Một ngày trong khu vườn

Có một khu vườn trong nhà trọ của chúng tôi, chúng tôi được tự do sử dụng vì ông chủ nhà ở chỗ khác. Một hôm trong giai đoạn tâm trí xao động, tôi vào vườn với Alipius. Tôi cảm thấy mình đang bị khủng hoảng. Tiếng tôi yếu đi và lạ kỳ, mặt tôi nóng bừng và tôi bắt đầu khóc.


Tôi nói với Alipius "Anh nhìn, nhìn xem tình trạng của chúng ta này. Người không được giáo dục và bình dân thì là những Kitô hữu dấn thân còn chúng ta, học cho nhiều vẫn còn bị xác thịt hành hạ." Chúng tôi ngồi xa căn nhà, tôi thổn thức và khóc, anh thì bối rối và bất ngờ. Lúc này tôi thấy tất cả chỉ là vấn đề của ý chí. Ta không thể làm gì nếu ta không muốn dù cho là giơ tay hay hoạch định một chương trình du lịch trên đất hay trên biển. Ta phải có ý chí muốn làm điều đó một ý chí có quyết tâm và mạnh mẽ, không phải thứ ý chí nửa chừng, do dự hay lập lờ.


Khi liên quan đến cơ thể, trừ khi bị thương tật hay yếu đuối, ý chí và năng lực để làm chuyện gì luôn là một. Tôi nghĩ đến chuyện giơ tay và tôi làm chuyện ấy.


Nhưng tại sao tâm trí lại chậm rì trong việc tuân theo ý chí? Có phải khi ta muốn chuyện gì như cử động vật lý thì ta muốn toàn diện, còn khi ta muốn làm gì về luân lý hay tâm linh, chúng ta chỉ muốn một phần hay nửa vời? Chính sự do dự làm cho không hành động được. Chúng ta không làm điều ấy vì trong nội tâm ta không chắc mình làm điều ấy.


Lúc đó tôi ngồi trong vườn trong thế giới riêng tư của riêng tôi. Bản tính cũ của tôi thừa hưởng của Adam và tội của ông, cố gắng giữ tôi lại trong khi Chúa tăng cường tiếng gọi nội tâm, gọi tôi dứt khoát với con người cũ và sống lại như con người mới. Tôi tiếp tục nói với chính mình "Nào hãy để chuyện đó xảy ra bây giờ, xảy ra bây giờ" và khi tôi nói tôi quyết định làm điều ấy. Nhưng tôi đã không làm. Tôi cũng không đi vào bản tính của mình. Tôi như đứng ngoài chính mình và nhìn xem cuộc chiến. Tôi đứng đó lưng chừng giữa chết cho cái chết và sống cho cuộc sống. Tôi ngạc nhiên vì những tập quán xấu giữ tôi lại.


Chúng thì thầm "nếu anh bước theo bước đó, anh sẽ không bao giờ nếm được khoái lạc do việc buông thả tình dục. Từ lúc đó anh sẽ bị cấm làm những chuyện đó. Anh có thực sự sống với chúng ta không?" Và dù cho tôi biết đó chỉ là trò chơi và hời hợt, so sánh với giá trịĩnh cửu, tiếng của chúng có vẻ mời gọi và sự hối thúc của chúng giữ tôi lại.


Nhưng dó chỉ là năng lực mờ nhạt dần; không có gì như thế từ trước đến nay. Như là tôi thấy trước mắt tôi một thị kiến, một hình ảnh toàn thể của cuộc đời mới, cuộc sống trong sạch và kỷ luật. Ðây không phải là khung cảnh mờ nhạt hay tiêu cực. Khác hẳn thế. Nó hiện kích thích nhưng không phải là tình dục. Tôi có thể thấy trong thị kiến nhiều hạng người thuộc mọi lứa tuổi, thanh niên và thiếu nữ, bà goá già, ông già, nhưng tất cả đều tươi cười chào đón và hình như chan chứa niềm vui nội tâm.


Có tiếng nói với tôi "Anh không thể làm những điều như những người này sao? Họ không làm những điều đó dựa trên sức mình. Họ đã có niềm vui đó qua sức mạnh Chúa của họ ban cho. "Bạn lo lắng vì bạn cố hoàn tất công việc đó với sức mạnh của bạn, và như thế bạn không hoàn tất điều gì cả. Hãy ném mình vào lòng Chúa và tin cậy vào mình Ngài. Ngài không từ chối và làm cho bạn sa ngã. Nhưng bạn phải tín thác hoàn toàn vào ngài. Chỉ lúc đó và chỉ lúc đó ngài sẽ tiếp nhận và chữa bạn lành." Tôi do dự lại như đang nghe tiếng thì thầm ma quái nơi tai tôi "ANh có thể sống không có chúng ta mãi mãi không?" Lại có tiếng từ trời "Hãy bịt tai đừng nghe tiếng thì thầm đó. Ðó là tiến nói của bản tính sa ngã tội lỗi. Hãy giết nó đi. Ta biết nó nói về mọi thứ mọi loại khoái lạc tội lỗi nhưng chúng nghịch lại luật của Chúa."


Cuộc tranh luận kỳ lạ tiếp tục trong lòng tôi trong khi Alipius khốn khổ ngồi bên cạnh tôi yên lặng đợi chờ cho cuộc chiến kết thúc.

Khi đó tôi thấy mình cần an tĩnh và tôi nói về điều đó, tôi không rõ đã nói gì và rời Alipius, để không bị áp lực của con người nào hết. Tôi nằm xuống gốc cây giẻ và khóc cay đắng, "một hi sinh đáng Chúa chấp nhận Chúa ơi." Tôi kêu lớn tiếng những lời tương tự như sau : "Ðến bao giờ, Chúa ơi? Ðến bao giờ ? Chúa giận con mãi sao? Xin đừng nhớ tới tội cũ của con.

Chính tội quá khứ và năng lực hiện tại của nó kêu tôi trở lại. Nên tôi tiếp tục cầu nguyện "Ðến bao giờ lạy Chúa? Ngày mai và ngày mai? Tại sao không bây giờ? Tại sao không thanh tẩy con trong giây phút này?"


Rồi trong lúc cầu nguyện tôi nghe có tiếng, như tiếng đứa trẻ trai hay gái trong nhà bên cạnh lập đi lập lại vài tiếng nói tôi nghe du dương như bài hát: Hãy cầm lấy mà đọc. Hãy cầm lấy mà đọc." Tôi dừng lại vì tiếng nói. Tôi chưa bao giờ nghe con nít nói thế khi chơi với nhau. Sự cay đắng và giọt lệ bỗng ngưng. Tôi chỗi dậy và xác tín sứ điệp tự trời cao và đó là điều nói với tôi bảo đọc nơi chương 1 tôi tìm thấy nơi cuốn sách thơ thánh Phaolô đang mở sẵn. Tôi nhớ lại Anthony cũng đã được bảo cũng một cách như thế bằng một đoạn Phúc âm hình như có ý nghĩa với ông trong một giai đoạn cuộc đời. "Hãy đi bán mọi của con có, và cho kẻ nghèo, và con sẽ có gia tài trên trời. Rồi đến và theo ta."


Thế là tôi trở lại bàn nơi Alipius đang ngồi và lấy cuốn sách thánh Phaolô tôi đang để đó. Tôi cầm lấy sách rất nhanh trong tay, mở sách và đọc trong thinh lặng chương sách đập vào mắt tôi "Không phải trong trác táng say sưa, trong việc đổi vợ chồng hay tà dâm, không phải trong giận dữ và ghen tương: nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô Giêsu và không chiều theo xác thịt hay ham muốn của nó."


Tôi không cần đọc thêm. Ngay tức khắc khi tôi đọc hết câu,mọi bóng tối nghi ngờ trước kia tan biến, như ánh sáng trong lành chói lói tràn vào lòng tôi. Tôi phải bỏ con người cũ, phải mặc lấy con người cũ, và tôi phải làm ngay bây giờ.


Tôi gấp sách đánh dấu chỗ vừa đọc và kể cho Alipius chuyện gì đã xảy ra cách bình tĩnh. Anh cũng kể cho tôi những gì xảy ra trong lòng anh mà tôi không biết. Bấy giờ anh xin tôi cho đọc đoạn kinh thánh tôi đã đọc nhưng anh đọc một đoạn xa hơn tôi không biết ở đâu "Bây giờ kẻ yếu đuối trong niềm tin anh hãy mang theo anh." Anh áp dụng điều đó cho anh, anh nói với tôi, và ngay lập tức, không do dự, anh theo tôi trong mục đích và quyết tâm mới.


Ngay lập tức chúng tôi vào nhà và kể cho mẹ tôi những gì đã xảy ra.


Khỏi cần phải nói mẹ tôi vui mừng khôn tả. Như bà nói "Chúa còn làm hơn cả những điều ta xin hay nghĩ tới." Bà nói thế vì bà chỉ giới hạn lời cầu nguyện cho tôi trở lại. Nhưng Chúa đã làm quá cho tôi khiến tôi quên cả tham vọng, ngay cả ước muốn có vợ, và quyết định dấn thân cho qui luật cuộc sống Chúa đã tỏ cho mẹ tôi trước đây bao nhiêu năm trước khi tôi chấp nhận, một sự chấp nhận mẹ không thể tin có thể xảy ra.

------------------------------

Chương 6
Tin và đau khổ


Việc trở lại của Augustin làm cho ngài vui mừng và thoải mái, và cũng mang lại niềm vui cho mẹ ngài. Việc chịu phép rửa tội của ngài của Alipius và của đứa con tên Adeodatus là một cuộc lễ lớn. Ðáng buồn cho Augustin là sau khi ngài được rửa tội thì mẹ ngài chết và đây là thử thách cho niềm tin mới của ngài.


Cuốn tự thú kết thúc ở đây. Người con hoang đã trở về. Người quan sát và cầu nguyện cho người con suốt cả cuộc đời đã vào chốn nghỉ ngơi hằng mong đợi.



Cuộc đời của Augustin còn tiếp tục. Ngài lập dòng tu còn tồn tại đến ngày nay. Ngài chịu chức linh mục năm 391 do giám mục Valerius thành Hippo. Rồi khi giám mục chết 4 năm sau, Augustin được chỉ định thay thế ngài. Ngài có ảnh hưởng lớn lao trên Giáo Hội ngày nay, đã huấn luyện hàng giáo sĩ với 12 giám mục Phi châu là người của ngài và viết rất nhiều sách phi bác lạc giáo và chứng minh Kitô giáo theo truyền thống tông đồ.


27. Hậu quả trên bạn bè

Quyết định đầu tiên của tôi sau khi trở lại là bỏ nghề giáo sư tu từ. Bây giờ tôi thấy nghề này chẳng khác gì bán cái lưỡi gian dối không hơn không kém, dùng tài lợi khẩu không phải để phục vụ luật pháp hay sự bình an, nhưng để thắng những tranh chấp luật pháp. Cuộc trở lại của tôi xảy ra ba tuần trước khi hết khoá học và dù đau đớn khi phải làm thế, tôi cảm thấy mình không đúng với các học sinh đang học tôi.


Tôi nói đau đớn theo hai ý nghĩa. Linh thiêng, vì mọi ước muốn kiếm tiền không còn nữa và đó là lý do của mọi công việc tôi đã làm. Nhưng vật chất vì tôi bị đau phổi nên khó thở. Tuy nhiên hoàn cảnh này cho phép tôi hạn chế lớp học và công việc cho nên làm cho tiến trình thôi dậy học dễ dàng hơn. Cũng tránh cho tôi phải tuyên bố rằng tôi thành Kitô hữu tôi đã bỏ chức vụ nhiều tiền và được kính trọng.


Tâm trí tôi được tự do khỏi những ham muốn và giàu sang, cũng không bị cám dỗ về không trong sạch hay tà dâm. Tôi chỉ ngồi trong phòng và tâm sự với Chúa như đứa nhỏ lắm chuyện.


Hai người bạn và đồng chí Verecundus và Nebridius không có chia xẻ kinh nghiệm trong khu vườn của chúng tôi. Verecundus rất bực bội vì ông thấy hội của chúng tôi sẽ tan vỡ. Anh bị đức tin lôi kéo nhưng anh thấy vợ anh là chướng ngại duy nhất cho việc trở lại dù cho vợ anh là người Công giáo. Chỉ vì như anh nói "Tôi không muốn là Kitô hữu nhưng kém hai người vì tôi không thể là người độc thân." Chúng tôi cố gắng khuyên nhủ anh là anh có thể hoàn toàn trung thành với Chúa trong tình trạng hôn nhân hiện tại. Nhưng khi đó anh không hoàn toàn bị khuất phục.


Anh rất tử tế nên cho chúng tôi mượn căn nhà ở nhà quê của anh ở Cassiciacum và tại đó chúng tôi có thể sống trong khi chúng tôi gặp khó khăn sau khi trở lại. Sau đó khi chúng tôi vắng mặt anh bị đau mà lại đau nặng anh đã trở thành Kitô hữu. Chúng tôi coi đó là dấu hiệu cho thấy Chúa thương anh và thương chúng tôi. Chắc chắn chúng tôi rất buồn vì anh rất thân thiết mà khi chết không có mặt chúng tôi.


Nebridius cũng trở lại với Chúa Kitô. Anh cũng theo bè rối cho rằng Chúa Giêsu thực sự không mang lấy xác thịt con người nhưng chỉ là hữu thể linh thiêng khi nhập thế. Nhưng trong thời gian chúng tôi trở lại anh đã bỏ quan niệm đó và tìm kiếm chân lý thực sự. Ít lâu sau anh cũng trở lại và mang cả gia đình ở Phi châu về với Chúa. Rồi như Verecundus anh bị đau và chết, hiện nay anh đang ở thiên đàng.


Tôi nhớ anh với nhiều thương mến và sung sướng nghĩ rằng anh đang ở bên Chúa như người con đích thực trên trời như anh thường nói với tôi trong lúc tôi cũng dốt nát về những sự siêu nhiên như anh. Bây giờ anh không cần hỏi người hướng đạo không có thích hợp và khả năng nhưng có thể uống sự khôn ngoan nơi nguồn hiểu biết tràn đầy. Và tôi dám hi vọng anh cũng còn nhớ đến tôi.




28. Niềm vui của Thánh Thần

Khi khoá học chấm dứt tôi có thể dành thì giờ cho việc thiêng liêng nuôi linh hồn tôi. Tôi viết nhiều thư vài thư cho Nebridius cố gắng giải thích cho anh hay Chúa đã tỏ mình ra cho chúng tôi thế nào và làm chứng cho ơn Chúa trong cuộc sống của tôi. Và Chúa hoạt động trong tôi trên sự thô kệch và kiêu ngạo, làm cho tôi tuân phục và khiêm nhường, nhiều khi với những roi vọt nhiều khi với sự ban phúc làm cho tôi vui mừng.


Tôi lại khám phá ra những Thánh vịnh của vua David, những ca vịnh tuyệt diệu về niềm tin với những lời trách cứ sự kiêu ngạo. Ðó là cuốn sách tôi dùng trong thời gian ở Cassiciacum. Tôi coi Thánh vịnh David như của tôi, đọc lớn tiếng, để hi vọng cả nhân loại có thể trả lời cho sứ điệp của những Thánh vịnh đó.


Tôi chỉ mới là tập sinh yêu Chúa, người khách lạ mới tới trong thế giới ơn sủng như Alipius.Nhưng có mẹ tôi ở với chúng tôi, người phụ nữ có niềm tin trưởng thành, càng thêm tuổi càng kiên nhẫn, sự thông cảm dịu dàng của một người mẹ, và sự đạo đức của người Kitô hữu đích thực. Trong khi chúng tôi học giáo lý và dần dần được giáo huấn về đức tin, thì bà luôn nâng đỡ và khuyến khích chúng tôi. Tôi cũng mở lòng cho Thánh Linh. Tôi đã nhận được ơn cứu độ. Chúa đã sai Con Ngài chết cho tội, cho Ngài sống lại từ cõi chết và tôn vinh Ngài trong vinh quang từ đó theo lời Kinh Thánh "Ngài tuôn tràn Thần Khí chân lý Ðấng an ủi." Thánh Thần đã ban cho tôi, điều này đã xảy ra nhưng tôi không ý thức về Ngài. Tôi đã được tha thứ nhưng tôi chưa có sự bình an toàn diện vì tôi còn lo lắng về những chuyên quá khứ đem đến tội lỗi và nhất là vì nhớ lại những tội trong quá khứ.


Tại căn nhà miền quê của Verecundus Thánh Thần bắt đầu công việc êm dịu của người và mang niềm vui cho tâm hồn tôi. Qua đau khổ tôi đến gần người hơn.


Tình cờ tôi bị đau răng kinh khủng. Làm cho tôi không nói được. Lúc đó vì đau quá tôi xin bạn bè cầu nguyện xin Chúa chữa tôi. Tôi viết thư xin cầu nguyện Và trong lúc chúng tôi quì xuống cầu nguyện thì cơn đau chấm dứt. Tôi sợ quá. Không hiểu đây là thứ đau đớn nào? Nguồn gốc từ đâu? Và do quyền lực nào mà không còn đau răng nữa? Nhưng trong nội tâm đã có lời xác tín tôi cần. Ý Chúa nên trọn nơi tôi. Lòng tôi hướng về Chúa với niềm vui và ca tụng, căn bản trong niềm tin.




29. Lòng thương của Chúa trong bí tích rửa tội

Cuối mùa hái nho khi sắp tới niên học ở Milan, tôi viết thư cho phụ huynh học sinh biết tôi không dậy học nữa.Tôi cũng viết thư cho giám mục Ambrose nói về những lầm lạc trước đây cũng như dấn thân hiện tại và xin ngài cho ý kiến nên đọc sách nào để lớn lên trong ơn sủng. Ngài đề nghị sách tiên tri Isaiah vì ông này nói rõ về phúc âm và ý định của Chúa cho người dân ngoại. Tuy nhiên khi bắt đầu đọc tôi thấy cuốn sách khó và tối tăm nên tôi không đọc, đợi khi nào được dậy dỗ về lời Chúa rồi mới đọc.


Lúc này tôi phải ghi tên chịu phép rửa nên chúng tôi bỏ miền quê và về Milan. Có hai người cùng chịu phép rửa với tôi và tôi vui mừng cho cả hai.


Người đầu tiên dĩ nhiên là Alipius bây giờ là người Kitô hữu có niềm tin khiêm nhường và kỳ diệu. Người thứ hai là con tôi, Adeodatus và đây là phép lạ của lòng Chúa quảng đại. Bây giờ cháu được 15 tuổi, đứa con của sự vô luân nhưng là đứa trẻ có tài năng không ngoan và trưởng thành trong tinh thần. Ðây là một lời tạ ơn nhỏ bé cho tôi vì tôi sợ như thế vì tất cả những gì tôi cho cháu chỉ là tội lỗi của tôi và cháu sinh ra do tội lỗi đó. Ðiều làm cho cháu kính sợ Chúa chính là ơn Chúa hoàn toàn, đã đem cha con chúng tôi đến đó ngay cả khi cả hai còn mù loà không thấy sự thực.


Tôi rất vui sau khi rửa tội cùng viết với cháu một cuốn sách,một cuộc đối thoại giữa hai cha con nhan đề :Về sư phụ. Chúa biết rõ mọi lời con tôi nói trong cuốn sách không phải là cháu nói, cho thấy mới 16 tuổi đã có dấu hiệu lạ lùng tìm kiếm sự thực. Cháu chết khi còn trẻ, chưa trọn vẹn ở thế gian nhưng tôi tin tưởng hiện nay cháu được trọn vẹn trên thiên đàng.


Khi chịu phép rửa chúng tôi đứng với nhau vì trong thực tại của ơn sủng chúng tôi chỉ là những đứa bé sơ sinh. Những lo lắng về tội quá khứ và cuộc sống đã qua liền biến đi ngay, và trong những ngày sau tôi cảm thấy vui khôn tả và đi sâu vào chương trình cứu độ của Chúa.




30. Một dịp ăn mừng

Thường khi hát Thánh vịnh hay thánh ca trong nhà thờ tôi thường khóc vì vui vì thấy bài hát êm dịu và ý tứ chứa đựng chân lý. Nhà thờ ơ Milan khi chúng tôi tham dự luôn có bầu khí vui mừng ca tụng. Một năm trước đây Justina mẹ của hoàng đế Valentinian còn trẻ tuổi đã theo bà Arian và mưu toan đổi giám mục Ambrose đi vì ngài phi bác hoàn toàn những lý thuyết sai lạc của Ario về bản tính của Chúa. Cả cộng đồng luôn canh gác nhà thờ và vùng phụ cận sợ tay sai của bà đến làm hại hay giết giám mục Ambrose. Mẹ tôi và những người khác suốt ngày cầu nguyện để quân thù khỏi bạo động.


Trong lúc đó nhà thờ Milan dùng Thánh vịnh và ca vịnh trong phụng vụ trước đây chỉ dùng trong Giáo Hội đông phương. Ðem Thánh vịnh vào để giảm bớt căng thẳng khi phải canh thức lâu giờ nhưng sau đó lại hạn chế và việc thực hành này hiện nay không sử dụng trên toàn thế giới.


Từ lúc đó Giáo Hội đã được giải thoát một cách đặc biệt. Chúa tỏ cho thánh Ambrose trong một thị kiến nơi có hài cốt hai thánh tử đạo Gervasio và Protasio được dấu ẩn trong nhiều năm. Khi nấm mộ bí mật được mở ra và thì thấy Chúa đã giữ cho hai xác không hư thối. Ambrose thu xếp đem hài cốt vào chôn cất trong nhà thờ. Chính trong lúc chuyển xác mà phép lạ thực hiện. Một người mù trong thành phố ai cũng biết xin người hướng dẫn đem anh đi rước và được phép rờ quan tài của các thánh bằng khăn tay. Khi đã làm xong anh giụi khăn vào mất và lạ lùng thay anh kêu lớn tiếng vì khỏi mù, sự kiện này ai cũng biết hết.


Kết quả là cả thành phố rung động và chính hoàng hậu Justina dù không từ bỏ bè rối, cũng đến nhà thờ nhưng không có bỏ ý định bách hại giám mục Ambrose.


Tôi giả thiết khi nhớ lại những biến cố trước khi được rửa tội, tôi đã biết tuy không cho đó là dấu hiệu hay xác tín về đức tin, đã làm cho tôi khóc khi đọc Thánh vịnh. Không còn hối tiếc chỉ còn niềm vui lớn lao tôi được hít thở trong ơn sủng Chúa và tình yêu Ngài bao lâu con người có thể hít thở trong căn nhà bằng đất này.




31. Mẹ tôi qua đời

Một anh thanh niên cùng quê tên là Euodius đã trở lại và rửa tội cùng về nhà với chúng tôi. Anh cũng muốn theo luật sống và chúng tôi định về Carthage và tìm cách phục vụ Chúa tại đấy. Chúng tôi theo đường bộ về Ostia nơi cửa sông Tiber và định ở lại sửa soạn ít lâu cho cuộc vượt biển.


Một hôm mẹ tôi và tôi đứng nơi cửa sổ nhìn ra vườn trong căn nhà ở Ostia. Như mọi khi chúng tôi nói chuyện với nhau. Chủ đề là cuộc sống vĩnh cửu và cuộc sống của các thánh trên thiên đàng. Trong khi nói hình như câu chuyện của chúng tôi vươn lên cao như ra khỏi giới hạn của tâm trí. Chúng tôi cảm phục lòng nhân hậu Chúa và tiếp tục nói và nhìn vào lòng mình thấy như có bàn tay Chúa ở đó. Chúng tôi ý thức hiện tại và ý thức hiện tại rất rõ ràng: không phải cái quá khứ hay tương lai, nhưng cái hiện tại như chính Chúa. Trong khoảnh khắc lời nói của chúg tôi không phải của con người nữa. Tôi thực sự tin là mình đã nếm thử sự đời đời. Rồi chúng tôi thở dài và trở lại với những ngôn ngữ thường ngày và những giới hạn của nó. Nhưng bằng những lời đó chúng tôi muốn bắt lấy kinh nghiệm. Hình như vĩnh cửu là khi mọi xôn xao của thế giới lắng chìm, mọi miệng lưỡi con người không nói nữa, mọi tư tưởng con người không còn, mọi tưởng tượng giấc mơ ký hiệu hay tượng trưng đều dẹp bỏ, Và trong cõi yên lặng hùng vĩ đó chỉ có Chúa nói, không qua con người, hay chữ viết, tiếng thiên thần hay dụ ngôn, nhưng hình như chính Chúa đang tỏ bày mọi sự.


Bên cạnh thực thể vĩnh cửu đó, mọi niềm vui của trái đất dù cho tinh tuyền nhất hay thánh thiện nhất cũng biến đi như vô ý nghĩa. Kinh nghiệm như thế ban cho con người đã là kinh nghiệm của chúng tôi trong khoảnh khắc nhận thức. Ðây có phải chu toàn lời hứa "Hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi?" Nhưng điều này có thể xảy ra khi ta mang thân xác thịt? Chắc chắn phải đợi cho đến khi ta sống lại, biến đổi trong khoảnh khắc" đi vào cuộc sống của sự sống lại. Rồi chúng tôi nói đến không phải với những từ ngữ như thế. Nhưng Chúa biết hôm đó chúng tôi đi vào việc chia xẻ kinh nghiệm làm cho cuộc sống cũng thành hèn hạ và chúng tôi đã diễn tả với những thành ngữ như thế. Khi xong, mẹ tôi nói.




"Augustin con của mẹ, mẹ không còn thấy thú vị gì khi sống ở trần gian này nữa. Thực ra mẹ không biết còn việc gì phải làm ở trần gian này, cũng không biết tại sao Chúa còn để mẹ ở đây trong khi mọi hi vọng đã thànhh sự thực. Chỉ một điều làm cho mẹ còn muốn sống lâu hơn là niềm hi vọng thấy con trở thành Kitô hữu thực trước khi mẹ chết. Bây giờ không những Chúa ban ơn cho mẹ mà còn ban hơn nữa là thấy con bỏ gian tà những ham hố trần gian và hiến thân phụng sự ngài. Vậy thì mẹ sống làm gì nữa ?"

Tôi không nhớ tôi trả lời mẹ tôi ra sao nhưng chỉ trong vòng năm ngày mẹ lên cơn nóng lạnh. Bà bị nặng nên bất tỉnh luôn và chúng tôi đều chạy đến bên giường bà. Khi vừa tỉnh lại và thấy tôi và em tôi là Navigius bên cạnh bà hỏi chúng tôi "Mẹ đang ở đâu?" Rồi nhìn vào chúng tôi bà nói:"Các con sẽ chôn mẹ tại đây."


Tôi im lặng nhưng em tôi nói mẹ nên về quê hãy chết. Mẹ tôi lo lắng nhìn em và nói "Hãy chôn thân xác này ở đâu tuỳ ý các con và đừng lo lắng về chuyện đó. Mọi điều mẹ xin là chúng con hãy nhớ đến mẹ khi các con chịu các phép bí tích, dù cho chúng con ở đâu. Rồi mẹ không nói nữa vì bà rất yếu và bịnh nặng thêm.


Tuy nhiên đối với tôi cuộc nói chuyện ngắn ngủi đó đáng khen ngợi. Tôi biết trong bao nhiêu năm mẹ tôi đã lo lắng mình sẽ được chôn cất ở đâu. Mẹ đã được phép sửa soạn chỗ nằm bên cạnh chồng bà, và hi vọng sau khi rời nước Ý bà sẽ được chôn cất trên mảnh đất quê hương ở Bắc phi.


Tôi không biết mẹ tôi từ bỏ cái hi vọng mê tín đó ở đâu nhưng ít lâu sau một người bạn ở Ostia cho tôi hay bà đã bàn cãi với anh về chuyện đó. Người bạn nói bà sợ chết xa quê hương. Mẹ tôi trả lời: "Chỗ nào cũng gần Chúa cả. Tôi không lo lắng sợ rằng trong ngày tận thế Chúa sẽ không tìm ra xác tôi ở đâu để làm cho sống lại.


Mẹ tôi đau một tuần. Rồi khi được 56 tuổi, khi tôi được 33 Chúa đã giải thoát linh hồn mẹ tôi khỏi nhà tù thân xác yếu đuối và mệt nhọc.




Каталог: doc
doc -> Qctđhn 01: 2014/btnmt quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệP ĐỐi với bụi và CÁc chất vô CƠ trêN ĐỊa bàn thủ ĐÔ HÀ NỘI
doc -> 1. MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
doc -> I. Quản lý sâu bệnh ở khu vực dự án Ô Môn – Xà No 4 II. Quản lý thuốc bảo vệ thực vật 12 Chủ sở hữu có trách nhiệm liên hệ với một đại diện phê duyệt của tỉnh để truyền đạt các hướng dẫn và yêu cầu xử lý
doc -> Tr­êng thcs nguyÔn §øc C¶nh Gi¸o ¸n §¹i Sè 7 Ch­¬ngI sè h÷u tØ. sè thùc
doc -> Ban chỉ ĐẠo công nghệ thông tin của cơ quan đẢng giáo trình thiết kế, XÂy dựng và quản trị CƠ SỞ DỮ liệu hà NỘI, 2004
doc -> THỦ TƯỚng chính phủ
doc -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam tỉnh thừa thiên huế Độc lập Tự do Hạnh phúc
doc -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
doc -> Sè: 90/2003/Q§-ub
doc -> Chương 1 Các khái niệm căn bản về mạng và giao thức mạng Mạng máy tính

tải về 360.07 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương