chia nhỏ tổng thể thành các phần nhỏ để xác định bản chất, tầm quan trọng, chức năng
và mối quan hệ của từng phần với các phần khác. Tổng hợp thì ngược lại. Nó là một
quá trình gắn kế các phần nhỏ lại thành một thể thống nhất. Mintzberg đã kết luận rằng
sai lầm nghiêm trọng của trường phái hoạch định là các đề xướng trong việc nhận biết
sự khác biệt tất yếu giữa hai quá trình này. Ông đã tranh luận mạnh mẽ:
Vì tiến trình
phân tích không thể là một tiến trình tổng hợp nên hoạch định chiến lược không phải
là sự hình thành chiến lược. . Tiến trình phân tích có thể được thực hiện trước là hỗ trợ
cho sự tổng hợp bằng cách xác định các nhân tố của tổng thể. Phân tích còn có thể thực
hiện sau và làm rõ cho tổng hợp bằng cách chia nhỏ và làm rõ các kết quả. Tuy nhiên,
tiến trình phân tích không thể thay thể được quá trình tổng hợp. Không có sự chuẩn bị
nào khả dĩ cho phép các tiến trình chính thức dự đoán sự ngắt quãng thông tin đến nhà
quản lý - những người bị chia cách ra khỏi các hoạt động của họ, tạo ra các chiến lược
lạ thường.
Với những chỉ trích trên, không có gì ngạc nhiên khi hoạch định chiến lược đã chịu sự
phản ứng ngày càng cao vào cuối những năm 70 và sự tranh cãi còn tiếp tục đến đầu
những năm 80. Vào năm 1983, General Electric, công ty đã đi tiên phong trong việc
thiết lập môn học hoạch định chiến lược, đã huỷ bỏ bộ phận hoạch định từng được hoan
nghênh ở khắp nơi của nó. Từ thời điểm này, hoạch định chiến lược trở nên lỗi thời,
những đến cuối những năm 80, nó lại trở lại tuy rằng dưới một hình thức khác. Lúc này,
khái niệm hoạch định chiến lược được mở rộng là việc thực hiện và kiểm soát quá trình
hoạch định. Bên cạnh đó, một thuật ngữ mới ra đời là
quản trị chiến lượcgiành được
quan tâm lớn. Như vậy, quản trị chiến lược cùng với việc thực hiện hoạch định chiến
lược đã trở thành một quá trình đơn nhất.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: