3.3.1.2. Ảnh hưởng của độ ẩm của ngô hạt đến khả năng bảo quản ngô
Để nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm nguyên liệu đến khả năng bảo quản,
ngô sau khi thu hoạch được phơi khô sơ bộ, sau đó tẽ hạt và phơi tiếp dưới nắng to
đến khi đạt độ ẩm 13,1%. Để đạt độ ẩm 12,04 và 10,98%, ngô sau khi phơi khô tiếp
tục được cho vào thiết bị sấy, sấy ở nhiệt độ 57
o
C trong các khoảng thời gian nhất
định. Ngô ở các độ ẩm khác nhau: 10,98; 12,04 và 13,10% được đóng trong các túi
chống thấm khí PAEV-10 và hút chân không đến áp suất chân không -0,08MPa.
Độ ẩm của hạt ngô là một chỉ tiêu quan trọng quyết định thời gian bảo quản
bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của vi sinh vật, nấm mốc. Mức độ nhiễm
nấm men, nấm mốc của nguyên liệu ngô hạt có độ ẩm khác nhau được tổng hợp
trong bảng 3.16.
Bảng 3.16. Mức độ nhiễm nấm mốc của ngô hạt theo thời gian bảo quản (CFU/ml)
Độ ẩm của ngô
Thời gian
10,98%
12,04%
13,10%
0
0
0
0
2 tháng
0
0
0
4 tháng
0
0
86
6 tháng
0
68
125
8 tháng
0
140
650
10 tháng
0
725
950
12 tháng
25
1,2 x 10
3
1,5 x 10
3
Ngô là loại hạt có phôi nằm bên ngoài nên dễ nhiễm nấm men, nấm mốc, vì
vậy khi bảo quản càng lâu tổng số bào tử nấm men, nấm mốc tăng lên. Đây là một
trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng ngô, gây tổn thất trong khâu bảo
quản. Kết quả bảng 3.16 cho thấy với độ ẩm nguyên liệu 10,98%, trong 10 tháng
đầu mẫu không nhiễm nấm men, nấm mốc, sau 12 tháng bảo quản thì mức độ
nhiễm nấm men, nấm mốc là 25 CFU/ml. Với các mẫu ngô có độ ẩm lớn hơn
(12,04% và 13,10%) có thể thấy mức độ nhiễm nấm men, nấm mốc tăng theo thời
gian bảo quản. Sau 10 tháng, mức độ nhiễm nấm men, nấm mốc của 2 mẫu ngô này
91
lần lượt là 725 và 950 CFU/ml, sau 12 tháng bảo quản mức độ nhiễm nấm men,
nấm mốc đều > 10
3
CFU/ml. Theo quyết định số 46/2007/QĐ-BYT, giới hạn cho
phép của tổng số bào tử nấm men, nấm mốc trong mẫu thực phẩm là 10
3
CFU/ml.
Như vậy ở độ ẩm 12,04% và 13,10%, ngô chỉ bảo quản được trong 10 tháng, với độ
ẩm 10,98% ngô có thể bảo quản được trên 12 tháng. Vì vậy độ ẩm nguyên liệu
10,98% được lựa chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.
3.3.1.3. Ảnh hưởng của vật liệu bao bì đến khả năng bảo quản ngô hạt
Để nghiên cứu ảnh hưởng của vật liệu bao bì đến khả năng bảo quản ngô,
ngô ở độ ẩm 10,98% được đóng trong các túi khác nhau PE, PAEV-5, PAEV-10,
PAEV-15 và hút chân không đến áp suất chân không -0,08MPa.
* Sự thay đổi các chỉ tiêu chất lượng của ngô hạt
Ảnh hưởng của vật liệu bao bì đến các chỉ tiêu chất lượng của ngô hạt trong
quá trình bảo quản được thể hiện trên hình 3.24 – 3.27.
Hình 3.24. Sự thay đổi độ ẩm của ngô
khi bảo quản bằng các loại bao bì khác
nhau
Hình 3.25. Sự thay đổi hàm lượng tinh
bột của ngô khi bảo quản bằng các loại
bao bì khác nhau
Hình 3.26. Sự thay đổi hàm lượng
protein thô của ngô khi bảo quản bằng
các loại bao bì khác nhau
Hình 3.27. Sự thay đổi hàm lượng chất
béo của ngô khi bảo quản bằng các loại
bao bì khác nhau
0
2
4
6
8
10
12
14
0
2
4
6
8
10
12
Độ ẩm
(%)
Thời gian bảo quản (tháng)
PE
PAEV-5
PAEV-10
PAEV-15
50
55
60
65
70
75
80
0
2
4
6
8
10
12
Hàm
lư
ợng tinh
bột (%)
Thời gian bảo quản (tháng)
PE
PAEV-5
PAEV-10
PAEV-15
0
2
4
6
8
10
0
2
4
6
8
10
12
Hàm
lư
ợng protein
thô
(%)
Thời gian bảo quản (tháng)
PE
PAEV-5
PAEV-10
PAEV-15
0
1
2
3
4
5
0
2
4
6
8
10
12
Hàm
lư
ợng chất
béo (%)
Thời gian bảo quản (tháng)
PE
PAEV-5
PAEV-10
PAEV-15
92
Kết quả cho thấy độ ẩm của ngô hạt khi bảo quản trong túi PE tăng chậm
trong giai đoạn đầu và tăng nhanh sau 5 tháng bảo quản, trong khi đó độ ẩm của ngô
bảo quản trong các túi chắn khí đa lớp (PAEV-5, PAEV-10, PAEV-15) gần như
không thay đổi. Sau 12 tháng bảo quản, độ ẩm của ngô hạt được bảo quản trong các
túi PE, PAEV-5, PAEV-10 và PAEV-15 lần lượt là 13,58; 11,04; 11,38 và 11,63 %.
Sự gia tăng độ ẩm của ngô khi bảo quản trong các túi PE được giải thích là do PE
có khả năng chắn hơi nước tốt nhưng khả năng chắn O
2
và các khí khác kém, do đó
không duy trì được môi trường chân không bên trong túi. Sự có mặt của oxy trong
túi đã tạo điều kiện cho quá trình hô hấp của khối hạt cũng như của côn trùng diễn
ra, đặc biệt là ở những tháng cuối bảo quản, khi số lượng côn trùng lớn, quá trình hô
hấp diễn ra mạnh làm tăng nhanh độ ẩm của ngô. Jacob P.A. và cộng sự cũng quan
sát thấy hiện tượng tương tự khi sử dụng túi PP để bảo quản ngô [85].
Hình 3.25-3.27 cũng cho thấy sau 12 tháng bảo quản trong bao bì chống
thấm khí, hàm lượng tinh bột, protein thô và hàm lượng chất béo hầu như không
biến đổi, chỉ giảm lần lượt là 1,39 – 4,36; 0,9 – 0,95 và 0,49 – 0,71%. Trong khi đó
ngô được bảo quản trong túi PE chỉ duy trì được chất lượng trong 2 tháng đầu, từ
tháng thứ 3 trở đi hàm lượng tinh bột, protein và chất béo giảm mạnh. Sau 12 tháng
bảo quản, các giá trị này ở ngô được bảo quản trong túi PE còn lại lần lượt là 60,85;
2,02% và 0,54%.
Khi so sánh 3 loại bao bì chống thấm khí PAEV-5, PAEV-10, PAEV-15 với
nhau thấy rằng hàm lượng tinh bột của ngô hạt bảo quản trong túi PAEV-5 giảm ít
nhất (1,39%), trong túi PAEV-15 giảm nhiều nhất (4,36%). Trong khi đó hàm
lượng chất béo lại có xu hướng biến đổi ngược lại, giá trị này giảm nhiều nhất khi
ngô được bảo quản trong túi PAEV-5, giảm ít nhất khi bảo quản trong túi PAEV-
15, tuy nhiên sự chênh lệch này không nhiều. Xu hướng biến đổi ngược nhau của
tinh bột và chất béo có thể do tinh bột bị ảnh hưởng nhiều của độ ẩm, trong khi chất
béo lại bị ảnh hưởng nhiều của oxy, trong khi đó thì màng đa lớp PAEV-5, PAEV-
10, PAEV-15 theo thứ tự có khả năng chắn oxy tăng dần và chắn hơi nước giảm
dần. Như vậy có thể thấy rằng màng đa lớp PAEV-5 cho hiệu quả bảo quản ngô tốt
hơn.
* Mức độ nhiễm nấm mốc của ngô hạt
Mức độ nhiễm nấm mốc của ngô hạt theo thời gian bảo quản khi sử dụng các
loại bao bì khác nhau được tổng hợp trong bảng 3.17.
93
Bảng 3.17. Mức độ nhiễm nấm mốc của ngô hạt khi bảo quản bằng các loại bao bì
khác nhau (CFU/ml)
Vật liệu
Thời gian
PE
PAEV-5
PAEV-10
PAEV-15
0
0
0
0
0
2 tháng
190
0
0
0
4 tháng
835
0
0
0
6 tháng
1,4 x 10
3
0
0
0
8 tháng
12 x 10
3
0
0
0
10 tháng
65 x 10
3
0
0
13
12 tháng
95 x 10
3
8
25
50
Kết quả cho thấy sau 2 tháng bảo quản trong túi PE ngô đã bắt đầu bị nhiễm
nấm men, nấm mốc, sau 6 tháng mức độ nhiễm nấm men, nấm mốc đã vượt quá
giới hạn quy định. Như đã giải thích ở phần trên do túi PE có độ thẩm thấu oxy cao
nên oxy vẫn thâm nhập được vào bên trong bao bì, quá trình hô hấp của ngô đã làm
độ ẩm của khối hạt tăng tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm men, nấm mốc phát triển.
Kết quả cũng cho thấy khi bảo quản trong các túi chống thấm khí PAEV-5, PAEV-
10, PAEV-15 sau 12 tháng bảo quản ngô mới bắt đầu bị nhiễm nấm mốc, với mức
độ nhiễm lần lượt là 8, 25 và 50 CFU/ml.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |