4.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ TRÍ TRONG CHUYỂN DẠ.
4.2.1. Phương pháp đẻ.
Phần lớn các sản phụ đẻ đường dưới (67,8%) trong đó đẻ thường 62,5%,
foxep 5,3%. Có 49 trường hợp mổ lấy thai chiếm 32,2% (Biểu đồ 3.8).
Trong số các trường hợp mổ lấy thai chúng tôi thấy 59,18% là do bất
thường các yếu tố chuyển dạ, 16,32% là do các nguyên nhân liên quan đến
VGVR B, còn lại 24,5% là do các nguyên nhân khác (Biểu đồ 3.9). Điều này
cho thấy rằng phương châm cố gắng cho đẻ đường dưới ở các sản phụ bị
nhiễm VRVG B. Trong đó có 48 trường hợp viêm gan thông thường, cuộc mổ
diễn ra hoàn toàn bình thường mẹ ổn định và con tốt, có 1 trường hợp sau mổ
bị chảy máu do rối loạn đông máu biểu hiện sinh sợi huyết còn 1,1g/l tỷ lệ
prothrombin 19% sau đó biến chứng suy gan, thận và được điều trị tích cực ở
viện YHLSCBNĐQG nên không bị hôn mê và tử vong.
Tỷ lệ mổ lấy thai, foxep của chúng tôi là 37,5% cao hơn so với nghiên
cứu của Nguyễn Dư Dậu (là 30,8%) và Vũ Thị Thu Huyền. Tỷ lệ này thấp
hơn so với Đinh Thị Bình (58,9%). Có lẽ phác đồ xử trí sản khoa của bệnh
77
viện Quân đội 108 không giống với phác đồ điều trị của BVPSTƯ nên kết quả
khác với chúng tôi.
Các trường hợp chỉ định can thiệp foxep là chủ động để hỗ trợ cho mẹ
khi đẻ rặn, có 1 trường hợp sau foxep sản phụ bị chảy máu do rối loạn đông
máu, biểu hiện sinh sợi huyết 1,0 g/l, tỷ lệ prothrombin 22%, sản phụ được
chỉ định cắt tử cung bán phần và truyền máu, tuy nhiên sản phụ không bị hôn
mê và tử vong.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ngoại trừ 1 trường hợp mổ lấy thai và
1 trường hợp foxep sau đó cắt tử cung bán phần do rối loạn đông máu gây
chảy máu, còn lại tất cả các sản phụ VGVR B nặng đều diễn ra bình thường.
Theo tác giả Nguyễn Dư Dậu thì tất cả các trường hợp suy thai cấp rồi
chết trong chuyển dạ đều xảy ra ở các sản phụ VGVR nặng, có suy gan thận
và hôn mê. Trong 7 trường hợp thai chết trong chuyển dạ có 6 trường hợp thai
non tháng có tuổi thai từ 28 -36 tuần, có lẽ do sản phụ đang ở trong tình trạng
nguy kịch kèm theo tuổi thai còn non nên không có chỉ định can thiệp bằng
phẫu thuật để lấy thai. Kết quả là thai chết, sau đẻ sản phụ bị chảy máu, suy
gan thận, hôn mê và tử vong.
Trong nghiên cứu của Vũ Khánh Lân năm 1978 tại Bệnh Viện C (nay
là BVPSTƯ) có 3 trường hợp suy thai cấp trong chuyển dạ nhưng sản phụ
không được phẫu thuật vì đang VGVR tiến triển do vậy cả 3 trường hợp này
đều tử vong cả mẹ và con [2].
Nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Huyền (1996 – 2000) thì hướng xử trí
của các nhà sản khoa là phù hợp với đa số tác giả trong nước ở những năm
trước đây [13]. Theo Trần Hán Chúc, Nguyễn Văn Kính, Vương Tiến Hòa
đều trích can thiệp các thủ thuật và phẫu thuật sản khoa vì nguy cơ chảy máu
dẫn đến tử vong mẹ [7], [17], [19]. Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi,
trong những năm gần đây việc sản phụ bị VGVR nặng có suy thai cấp đã
78
được phẫu thuật để cứu con mặc dù sau phẫu thuật sản phụ vẫn bị chảy máu
do rối loạn đông máu dẫn đến suy thận, gan và tử vong. Chúng tôi cho rằng
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |