2Tổng quan về ngành lúa gạo Việt Nam
Cây lúa luôn giữ vị trí trung tâm trong nông nghiệp và kinh tế Việt Nam. Hình ảnh đất Việt thường được mô tả như là một chiếc đòn gánh khổng lồ với hai đầu là hai vựa thóc lớn là ĐBSH và ĐBSCL. Đây là hai châu thổ có mật độ dân cư và thâm canh sản xuất nông nghiệp thuộc loại cao nhất trên thế giới. Điều kiện thời tiết khí hậu và địa lý thích hợp đã tạo một môi trường lý tưởng cho sản xuất lúa gạo tại hai châu thổ này.
Trong thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, cơ chế kế hoạch hoá sản xuất tập trung đã khiến ngành lúa gạo lâm vào cảnh trì trệ, năng suất lúa giảm và tài nguyên tự nhiên phục vụ sản xuất không được khai thác hết. Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu đổi mới kinh tế. Hộ gia đình được coi là một đơn vị sản xuất chính trong nông thôn và được trao quyền tự chủ quyết định sản xuất và tiêu thụ nông sản. Cơ chế khoán hộ cùng với những cải cách về chế độ sử dụng ruộng đất và tự do hoá thương mại đã tạo ra một bước nhảy vọt trong nông nghiệp. Sản xuất lúa gạo tăng mạnh bắt đầu từ cuối thập kỷ 80, Việt Nam chuyển từ một nước nhập khẩu lương thực thành một nước xuất khẩu gạo quan trọng trên thế giới vào cuối những năm 90.
Bên cạnh chính sách đổi mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước, hoạt động thương mại quốc tế của ngành lúa gạo cũng được đẩy mạnh. Một trong những thay đổi quan trọng nhất trong chính sách thương mại là việc xoá bỏ hạn ngạch và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu gạo, nhờ đó tăng nhanh luợng gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Ngày nay, phần lớn dân cư Việt nam đang sống ở nông thôn có nguồn sinh kế quan trọng là sản xuất nông nghiệp, trong đó sản xuất lúa gạo là nguồn lương thực và thu nhập chính của nhiều hộ nông dân. Chỉ riêng ĐBSH và ĐBSCL đã có tới 27 triệu dân nông thôn hoạt động sản xuất lúa được coi như nguồn sống chính.
Chính sách thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ đem lại lợi ích cho những người sản xuất kinh doanh và là công cụ hữu ích cho việc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam.
2.1Địa hình đất đai và khí hậu
Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, trải dài từ Bắc xuống Nam với tổng chiều dài là 1.650 km. Phía Đông giáp biển, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Căm Pu Chia. Tổng diện tích tự nhiên cả nước là 325.360 km2, với khoảng 20-25% đất đai được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, trong đó trên một nửa được dùng cho sản xuất lúa. Tổng diện tích gieo trồng lúa đạt 7.484.600 hecta, trong đó 3.056.900 hecta lúa đông xuân , 2.179.800 hecta lúa hè thu và 2.247.900 hecta lúa mùa.
Hiện nay Việt Nam được chia thành 64 tỉnh và 8 vùng sinh thái nông nghiệp (xem hình 1), bao gồm: Đồng bằng sông Hồng (11 tỉnh), Đông-Bắc (11 tỉnh), Tây Bắc (4 tỉnh), Bắc Trung Bộ (6 tỉnh), Duyên hải Nam Trung Bộ (6 tỉnh), Tây Nguyên (5 tỉnh), Đông Nam Bộ (8 tỉnh) và Đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh). Bốn vùng đầu tiên thuộc Bắc Bộ, bốn vùng sau thuộc Nam Bộ.
Hình 2 1 Các tỉnh phía Bắc Việt Nam
N
guồn:Bản đồ được vẽ dựa theo số liệu cập nhật mới của TCTK về 64 tỉnh thành
Hình 2 2 Các tỉnh phía Nam Việt Nam
N
guồn:Bản đồ được vẽ dựa theo số liệu cập nhật mới của TCTK về 64 tỉnh thành
2.2Các vùng sinh thái nông nghiệp
Hai vùng sản xuất lúa chính của Việt Nam là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Mặc dù hai châu thổ này chỉ chiếm khoảng 15% tổng diện tích nhưng đã sản xuất ra trên 2/3 sản lượng gạo của cả nước, ngoài ra còn sản xuất cây ăn quả, chăn nuôi gia đình và thuỷ sản. Vùng Đông Bắc và Tây Bắc có tỉ lệ người nghèo cao, nhiều núi đồi và là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số. Trồng ngô, chăn nuôi, cây ăn quả và nghề rừng là các hoạt động nông nghiệp khá phổ biến. Vùng duyên hải Bắc và Nam Trung Bộ có diện tích hẹp với nhiều núi đồi, sản xuất lúa gạo qui mô nhỏ, chăn nuôi và thuỷ sản là các ngành sản xuất quan trọng. Tây Nguyên là cao nguyên trù phú chủ yếu tập trung cho sản xuất cà phê và các cây công nghiệp. Đông Nam Bộ, vùng đất bao quanh thành phố Hồ Chí Minh, có mức độ đô thị hoá cao và là nơi tập trung nhiều cơ sở chế biến nông sản, sản xuất nông nghiệp khá đa dạng, bao gồm cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi tập trung và thuỷ sản. Rải rác ỏ các vùng này đều có các cánh đồng trồng lúa tưới, lúa rẫy và lúa nước trời.
Biểu 2 1 Cơ cấu giá trị sản lượng Nông-Lâm-Ngư nghiệp
|
GTSL Nông-Lâm-Ngư,
tỉ đồng
|
Tỉ lệ % trong tổng giá trị sản lượng Nông-Lâm-Ngư nghiệp
|
Nông nghiệp
|
Lâm ngh.
|
Ngư ngh.
|
Tổng số
|
Lúa
|
Mầu LT
|
Rau, đậu
|
Cây AQ
|
Cây CN
|
Chăn nuôi
|
Dịch vụ NN
|
1995
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Cả nước
|
100865
|
81.6
|
42.3
|
4.7
|
2.1
|
4.6
|
11.9
|
13.5
|
2.5
|
5.0
|
13.4
|
ĐBSH
|
17681
|
93.8
|
50.2
|
6.2
|
3.1
|
3.8
|
3.0
|
24.5
|
3.0
|
1.7
|
4.5
|
ĐB
|
8014
|
81.7
|
28.6
|
11.2
|
2.3
|
3.4
|
10.3
|
23.2
|
2.7
|
15.5
|
2.8
|
TB
|
2054
|
76.3
|
23.1
|
15.8
|
1.4
|
5.6
|
9.5
|
18.5
|
2.4
|
22.4
|
1.3
|
BTB
|
9406
|
78.6
|
34.1
|
8.7
|
2.4
|
3.1
|
8.4
|
19.4
|
2.5
|
12.1
|
9.3
|
DHNTB
|
7106
|
70.4
|
31.0
|
5.4
|
1.6
|
3.1
|
10.2
|
16.9
|
2.2
|
6.5
|
23.1
|
TN
|
5301
|
91.0
|
11.9
|
5.5
|
2.6
|
0.6
|
60.2
|
7.7
|
2.5
|
7.9
|
1.1
|
ĐNB
|
11408
|
80.1
|
19.0
|
5.6
|
3.1
|
2.4
|
39.8
|
7.9
|
2.3
|
3.1
|
16.8
|
ĐBSCL
|
39895
|
78.3
|
57.3
|
0.7
|
1.3
|
6.9
|
3.0
|
6.8
|
2.3
|
1.7
|
20.0
|
2002
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Cả nước
|
154478
|
78.3
|
38.0
|
5.1
|
2.7
|
3.7
|
13.2
|
13.7
|
1.9
|
3.9
|
17.8
|
ĐBSH
|
24415
|
91.6
|
46.3
|
4.2
|
4.4
|
3.1
|
3.3
|
28.2
|
2.1
|
1.0
|
7.4
|
ĐB
|
11662
|
80.8
|
26.1
|
11.2
|
2.9
|
7.2
|
8.7
|
22.8
|
1.9
|
15.4
|
3.8
|
TB
|
2931
|
76.8
|
19.6
|
21.6
|
1.7
|
5.3
|
8.5
|
18.3
|
1.8
|
21.8
|
1.4
|
BTB
|
13306
|
80.0
|
32.9
|
8.6
|
3.3
|
2.6
|
10.2
|
20.5
|
1.9
|
8.7
|
11.3
|
DHNTB
|
10305
|
63.7
|
26.1
|
5.4
|
2.6
|
2.2
|
9.4
|
16.5
|
1.5
|
4.3
|
32.0
|
TN
|
15001
|
96.3
|
9.7
|
10.1
|
3.8
|
0.4
|
62.3
|
7.7
|
2.3
|
3.1
|
0.6
|
ĐNB
|
17196
|
79.4
|
20.0
|
7.6
|
3.6
|
4.1
|
32.0
|
10.2
|
1.9
|
2.1
|
18.5
|
ĐBSCL
|
59663
|
69.9
|
53.5
|
0.6
|
1.5
|
4.4
|
1.9
|
6.3
|
1.7
|
1.5
|
28.6
|
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu TCTK
Ghi chú: GTSL -Giá trị sản lượng tính theo giá cố định 1994, tỉ đồng
ĐBSH - Đồng bằng sông Hồng; ĐB - Đông Bắc; TB - Tây Bắc; BTB - Bắc Trung Bộ; DHNTB - Duyên Hải Nam Trung Bộ; TN - Tây Nguyên; ĐNB - Đông Nam Bộ; ĐBSCL - Đồng bằng sông Cửu Long.
Việt Nam có 2 mùa rõ rệt: mùa khô (mùa đông) và mùa mưa (mùa hè). Điều kiện khí hậu thời tiết giữa các vùng rất đa dạng: khí hậu nhiệt đới ở miền Nam, Á nhiệt đới và ôn đới ở miền Bắc. Mùa hè thường có bão lớn từ biển đông tràn về. Nhiệt độ trung bình hàng năm (ở cao độ 0) giảm dần từ 27°C (ở miền Nam) xuống còn 21°C (ở miền Bắc).
Hình 2 3 Phân bổ lượng mưa theo tháng của các vùng (mức trung bình 1999-2002)
Nguồn: Niên giám Thống Kê 2000, 2001, 2002
Ghi chú: ĐBSH: Đồng bằng sông Hồng; TDMNPB: Trung du miền núi phía Bắc; BTB: Bắc Trung Bộ; DHNTB: Duyên Hải Nam Trung Bộ; TN: Tây Nguyên; ĐNB: Đông Nam Bộ; ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long.
Lượng mưa trung bình hàng năm giao động trong khoảng từ 1300 đến 2300 mm. Mưa thường tập trung trong giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 10 hay tháng 11 trong năm. Tại đồng bằng sông Cửu Long do tác động của gió mùa, nên mùa mưa kéo dài từ 5 đến 6 tháng với lượng mưa trung bình trên 200 mm/tháng. Tháng 10 thường là tháng mưa nhiều nhất trong năm. Sự khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc về điều kiện thời tiết khí hậu khiến cho các hệ thống nông nghiệp ở các vùng cũng rất đa dạng.
H
ình 2 4Vùng Sinh thái nông nghiệp Việt Nam
Nguồn:Bản đồ được vẽ dựa theoPhân vùng của TCTK, đã điều chỉnh bổ xung 64 tỉnh thành mới
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |