Abdullah Bin Abdul-Hameed Al-Athari Kiểm duyệt và giới thiệu Sheikh Saleh Bin Abdul-Aziz Bin Muhammad Ali Ash-Sheikh


Trụ cột thứ hai của đức tin Iman: Đức tin nơi các Thiên Thần



tải về 2.26 Mb.
trang5/15
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích2.26 Mb.
#30941
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15

Trụ cột thứ hai của đức tin Iman: Đức tin nơi các Thiên Thần

Đức tin Iman nơi các Thiên Thần: là đức tin vào sự hiện hữu và tồn tại của các vị Thiên Thần, tin một cách kiên định không có một chút nghi ngờ.

Allah, Đấng Tối Cao phán:



﴿ ءَامَنَ ٱلرَّسُولُ بِمَآ أُنزِلَ إِلَيۡهِ مِن رَّبِّهِۦ وَٱلۡمُؤۡمِنُونَۚ كُلٌّ ءَامَنَ بِٱللَّهِ وَمَلَٰٓئِكَتِهِۦ وَكُتُبِهِۦ وَرُسُلِهِۦ ﴾ [سورة البقرة : 285]

{Thiên sứ (Muhammad) tin vào những gì được ban xuống cho Y từ Thượng Đế của Y và những người có đức tin cũng tin tưởng như thế. Tất cả đều tin tưởng nơi Allah, các Thiên Thần của Ngài, các Kinh sách của Ngài và các vị Sứ giả của Ngài. } (Chương 2 – Albaqarah, câu 285).

Bởi thế, người nào phủ nhận sự tồn tại của các Thiên Thần thì y đã vô đức tin bởi lời phán của Allah:

﴿ وَمَن يَكۡفُرۡ بِٱللَّهِ وَمَلَٰٓئِكَتِهِۦ وَكُتُبِهِۦ وَرُسُلِهِۦ وَٱلۡيَوۡمِ ٱلۡأٓخِرِ فَقَدۡ ضَلَّ ضَلَٰلَۢا بَعِيدًا ١٣٦ ﴾ [سورة النساء: 136]

{Và người nào phủ nhận Allah, phủ nhận các Thiên Thần của Ngài, các Kinh sách của Ngài, các Sứ giả của Ngài và Ngày Tận thế thì quả thật y đã lầm lạc rất xa.} (Chương 4 – Annisa’, câu 136).



Phái Sunnah & Jama’ah tin hoàn toàn vào các Thiên Thần một cách tổng thể, còn đi vào chi tiết thì họ tin vào những thông điệp được nói trong Qur’an cũng như được xác thực từ Thiên sứ của Allah . Những vị Thiên Thần được Allah và Thiên sứ của Ngài nhắc đến, tiêu biểu như: Đại Thiên Thần Jibril có nhiệm vụ truyền lời mặc khải của Allah xuống cho các vị Nabi, Thiên thần Mi-ka-il có nhiệm vụ trông coi về mưa, Thiên thần Isra-fil có nhiệm vụ thổi còi cho Ngày Tận Thế, Thiên Thần Chết có nhiệm vụ đi rút hồn, Thiên Thần cai quản Hỏa Ngục, Thiên Thần cai quản Thiên Đàng, hai Thiên thần Munkar và Nakir ở cõi mộ.

Phái Sunnah & Jama’ah tin vào sự tồn tại của các Thiên Thần, họ tin rằng các Thiên Thần là những bề tôi được Allah tạo ra, Ngài tạo họ ra từ ánh sáng, các Thiên Thần là những cơ thể với những hình hài đích thực chứ không phải là những điều chỉ mang ý nghĩa tượng trưng hay chỉ biểu hiện của sức mạnh vô hình, họ là tạo vật trong các tạo vật của Allah, và họ ở trên trời.

Các Thiên Thần là những tạo vật khổng lồ, họ có những chiếc cánh, có vị chỉ có hai cánh, ba hoặc bốn cánh, và có vị có nhiều hơn thế, riêng đại Thiên Thần Jibril u thì được Nabi e cho biết rằng ngài có tới sáu trăm chiếc cánh.

Các Thiên Thần là thiên binh trong các thiên binh của Allah, họ tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của Allah, họ có thể biến hóa thành nhiều dạng trạng khác nhau tùy theo sứ mạng được giao phó để thực hiện mệnh lệnh của Allah, họ là những quân thần cao quý cận kề Allah, họ không có hệ tính nam nữ, họ không có nhu cầu tình dục và cũng không sinh sản.

Các Thiên Thần là những tạo vật không có nhu cầu ăn uống, không có nhu cầu vật chất; thức ăn của họ là những lời tụng niệm, họ không buồn chán, không lãnh đạm, không thờ ơ cũng như không hệ mỏi mệt; họ được mô tả với những điều tốt, đẹp đẽ, mắc cở và tuyệt đối nguyên tắc kỷ cương.

Các Thiên Thần đặc biệt khác với loài người ở chỗ là họ tuyệt đối tuân thủ và phục tùng mệnh lệnh của Allah, không bao giờ làm trái lệnh Ngài. Allah tạo họ ra là để thờ phượng và chấp hành các mệnh lệnh của Ngài.

Allah, Đấng Tối Cao nói về họ:



﴿ وَقَالُواْ ٱتَّخَذَ ٱلرَّحۡمَٰنُ وَلَدٗاۗ سُبۡحَٰنَهُۥۚ بَلۡ عِبَادٞ مُّكۡرَمُونَ ٢٦ لَا يَسۡبِقُونَهُۥ بِٱلۡقَوۡلِ وَهُم بِأَمۡرِهِۦ يَعۡمَلُونَ ٢٧ يَعۡلَمُ مَا بَيۡنَ أَيۡدِيهِمۡ وَمَا خَلۡفَهُمۡ وَلَا يَشۡفَعُونَ إِلَّا لِمَنِ ٱرۡتَضَىٰ وَهُم مِّنۡ خَشۡيَتِهِۦ مُشۡفِقُونَ ٢٨ ﴾ [سورة الأنبياء: 28]

{Và chúng (những kẻ ngoại giáo) đã nói rằng Đấng Arrahman (Độ lượng) có con cái, nhưng thật vinh quang thay cho Ngài rằng Ngài không phải như thế mà tất cả (những ai mà chúng cho là con cái của Ngài) đều là những bề tôi vinh dự (của Ngài). Họ (các Thiên thần) không dám nói trước Ngài (một điều gì) mà họ chỉ luôn tuân thủ và hoàn toàn phục tùng theo mệnh lệnh của Ngài. Ngài biết điều gì có trước họ và điều gì xảy ra sau họ và họ không thể can thiệp giùm cho ai được ngoại trừ người nào mà Ngài hài lòng. Và họ luôn là những người rất sợ Ngài.} (Chương 21 – Al-Ambiya’, câu 28).

Các vị Thiên thần luôn ca tụng và tán dương Allah ngày đêm, họ đi Tawaf quanh ngôi nhà Ma’mur trên trời và họ rất kính sợ Allah, Đấng Tối Cao.


  • Các Thiên Thần rất đa dạng:

Có những vị Thiên Thần chuyên gánh Arsh (Ngài vương) của Allah, có những vị có nhiệm vụ truyền tải lời mặc khải của Allah, có những vị trông coi núi non, có những vị là cai quản Hỏa Ngục và có những vị là cai quản Thiên Đàng, có những vị được giao nhiệm vụ ghi chép các việc làm và hành vi của các bề tôi, có những vị là những vị chuyên đi rút linh hồn của những người có đức tin và có những vị chuyên đi rút linh hồn những người vô đức tin, có những vị được giao nhiệm vụ đi tra hỏi trong cõi mộ, có những vị chuyên cầu nguyện và xin tha thứ cho những người có đức tin, có những vị có nhiệm vụ tham gia các buổi giảng thuyết và học hỏi kiến thức đạo và họ phải dang những chiếc cánh của họ bảo vệ và che chở cho những người đó, có những vị được giao nhiệm vụ ở xuyên suốt cùng với con người, có những vị có nhiệm vụ thúc giục các bề tôi làm việc thiện tốt, có những vị chuyên tham dự an táng cho những người ngoan đạo, có những vị chuyên tham gia đánh chiến cùng với những người có đức tin để chống kẻ thù của Allah, có những vị được giao nhiệm vụ bảo vệ những người ngoan đạo và giải nạn cho họ, và có những vị được giao cho nhiệm vụ trừng phạt người nào Allah muốn.

Các Thiên Thần không vào những ngôi nhà có bụt tượng, tranh ảnh (con người và động vật), chó, và chuông.

Nabi e nói:

« إِنَّ الْبَيْتَ الَّذِى فِيهِ الصُّوَرُ لاَ تَدْخُلُهُ الْمَلاَئِكَةُ » رواه البخاري ومسلم.

Quả thật, ngôi nhà mà trong đó có treo tranh ảnh thì các Thiên Thần không vào” (Albukhari, Muslim).

« لاَ تَدْخُلُ الْمَلاَئِكَةُ بَيْتًا فِيهِ كَلْبٌ وَلاَ تَصَاوِيرُ » رواه البخاري ومسلم.

Các Thiên Thần không vào bất cứ ngôi nhà nào có chó và tranh ảnh” (Albukhari, Muslim).

Số lượng Thiên Thần là vô số kể, chỉ có Allah mới biết rõ số lượng của họ là bao nhiêu, Ngài phán:



﴿ وَمَا يَعۡلَمُ جُنُودَ رَبِّكَ إِلَّا هُوَۚ وَمَا هِيَ إِلَّا ذِكۡرَىٰ لِلۡبَشَرِ ٣١ ﴾ [سورة المدثر: 31]

{Và không một ai biết rõ lực lượng binh lính của Thượng Đế của Y (Muhammad) ngoại trừ Ngài. Và đó là lời nhắc nhở cho người phàm.} (Chương 74 – Al-Mudaththir, câu 31).

Quả thật, Allah đã che khuất các Thiên thần khỏi cặp mắt của người phàm chúng ta, cho nên chúng ta không nhìn thấy nguyên hình trạng của họ, tuy nhiên, đôi lúc Ngài cũng để một số người bề tôi của Ngài nhìn thấy, giống như Nabi e đã nhìn thấy đại Thiên Thần Jibril u với nguyên hình trạng mà Allah tạo ra trong hai lần. Allah, Đấng Tối Cao phán:

﴿ وَلَقَدۡ رَءَاهُ نَزۡلَةً أُخۡرَىٰ ١٣ عِندَ سِدۡرَةِ ٱلۡمُنتَهَىٰ ١٤ ﴾ [سورة النجم: 13].

{Và quả thật Y (Nabi) đã thấy (đại Thiên Thần Jibril) vào lúc giáng trần lần thứ hai. Tại Sidrah Al-Muntaha (một loại cây trên tầng trời thứ bảy)} (Chương 53 – Annajm, câu 13).



﴿ وَمَا صَاحِبُكُم بِمَجۡنُونٖ ٢٢ وَلَقَدۡ رَءَاهُ بِٱلۡأُفُقِ ٱلۡمُبِينِ ٢٣ ﴾ [سورة التكوير: 22، 23]

{Và người bạn của các ngươi (Muhammad) không phải là kẻ mất trí. Và quả thật Y đã nhìn thấy (đại Thiên Thần Jibril) tại chân trời sáng tỏ} (Chương 81 – Attakwir, câu 22, 23).



  • Trụ cột thứ ba của đức tin Iman: Đức tin nơi các Kinh sách

Phái Sunnah & Jama’ah tin tưởng nơi Allah, họ tin tưởng kiên định rằng Ngài đã ban xuống cho các Thiên sứ của Ngài những Kinh sách trong đó mang những chỉ đạo, những mệnh lệnh, sự cấm đoán, lời hứa ban thưởng và cảnh báo sự trừng phạt và những điều Ngài muốn ở những bầy tôi của Ngài. Allah, Đấng Tối Cao phán:

﴿ ءَامَنَ ٱلرَّسُولُ بِمَآ أُنزِلَ إِلَيۡهِ مِن رَّبِّهِۦ وَٱلۡمُؤۡمِنُونَۚ كُلٌّ ءَامَنَ بِٱللَّهِ وَمَلَٰٓئِكَتِهِۦ وَكُتُبِهِۦ وَرُسُلِهِۦ ﴾ [سورة البقرة : 285]

{Thiên sứ (Muhammad) tin vào những gì được ban xuống cho Y từ Thượng Đế của Y và những người có đức tin cũng tin tưởng như thế. Tất cả đều tin tưởng nơi Allah, các thiên thần của Ngài, các kinh sách của Ngài và các vị sứ giả của Ngài.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 285).

Họ tin rằng Allah ban các Kinh sách của Ngài xuống cho các Thiên sứ của Ngài để làm sự hướng dẫn cho nhân loại. Allah, Đấng Tối Cao phán:

﴿كِتَٰبٌ أَنزَلۡنَٰهُ إِلَيۡكَ لِتُخۡرِجَ ٱلنَّاسَ مِنَ ٱلظُّلُمَٰتِ إِلَى ٱلنُّورِ بِإِذۡنِ رَبِّهِمۡ إِلَىٰ صِرَاطَ العَزِيزِ الحَمِيْدِ ١ ﴾ [سورة إبراهيم: 1]

{Đây là một Kinh sách mà TA đã ban cho Ngươi (Muhammad) để Ngươi dùng nó đưa nhân loại từ nơi tâm tối ra ngoài ánh sáng với sự cho phép của Thượng Đế của họ, hầu đi đến con đường của Đấng Toàn Năng và đáng ca ngợi.} (Chương 14 – Ibrahim, câu 1).

Tiêu biểu cho các Kinh sách của Allah được ban xuống: Qur’an, Tawrah (Cựu ước), Injil (Tân ước), Zabur (Thánh thi), các Suhuf của Nabi Ibrahim và Nabi Musa, trong đó vĩ đại nhất là Tawrah, Injil và Qur’an, và tốt đẹp nhất và ân phúc nhất trong ba Kinh sách này là Qur’an.

Tất cả các Kinh sách được ban xuống ngoài Qur’an thì Allah không phán bảo sẽ bảo hộ và gìn giữ chúng, mà sự gìn giữ và bạo hộ chúng sẽ do những vị giáo sĩ và những người thờ phượng Allah đảm trách. Tuy nhiên, họ đã không làm tròn trách nhiệm, họ đã không gìn giữ đúng mực cho nên tất cả các Kinh sách đã bị chỉnh sửa và thay đổi.



  • Kinh Qur’an: Là lời phán của Allah, Đấng Chủ Tể của vũ trụ và muôn loài. Ngài ban Nó xuống cho vị Thiên sứ của Ngài, Muhammad Bin Abdullah, để làm hiến pháp cho nhân loại, đưa nhân loại khỏi nơi tâm tối đến với ánh sáng của chân lý, hướng dẫn họ đến với con đường ngay chính và đúng đắn.

Quả thật trong Qur’an, Allah đã cho biết về các thông tin của những người ở các thời kỳ trước và những người ở thời kỳ sau; trong đó, Ngài nói về sự tạo hóa trời đất, phân biệt điều Halal (được phép) và điều Haram (cấm kỵ), chỉ dạy các nguyên tắc đạo đức và phẩm hạnh, các luật thờ phượng và cư xử giao tế; trong đó, Ngài nói về tiểu sử của những vị Nabi và những người ngoan đạo, nói về sự ân thưởng cho những người có đức tin và sự trừng phạt đối với những người vô đức tin; trong đó, Ngài mô tả về Thiên Đàng, một nơi tốt đẹp dành cho những người có đức tin, và mô tả về Hỏa Ngục, một nơi tồi tệ dành cho những người ngoại đạo.

Allah dùng Qur’an làm phương thuốc chữa bệnh tật và tâm bệnh, làm nguồn kiến thức cho mọi sự việc, và làm nguồn hướng dẫn và chỉ đạo, một hồng ân dành cho những người có đức tin.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

﴿ وَنَزَّلۡنَا عَلَيۡكَ ٱلۡكِتَٰبَ تِبۡيَٰنٗا لِّكُلِّ شَيۡءٖ وَهُدٗى وَرَحۡمَةٗ وَبُشۡرَىٰ لِلۡمُسۡلِمِينَ ٨٩ ﴾ [سورة النحل: 89]

{Và TA đã ban xuống cho Ngươi (Muhammad) Kinh sách (Qur’an) trình bày rõ tất cả mọi điều, và Nó là một Chỉ đạo, một hồng ân và một tin mừng cho những người Muslim.} (Chương 16 – Annahl, câu 89).

Bắt buộc tất cả nhân loại phải tuân thủ theo Qur’an và dùng Nó để phán quyết mọi điều, cũng như phải tuân thủ theo Sunnah (đường lối) của Nabi e nếu như đã xác định rõ đó là Sunnah của Người, bởi lẽ, Allah đã cử phái Thiên sứ của Ngài đến với toàn thể hai loài: Jinn và con người và để Người giảng giải cho họ về những điều mà Ngài đã ban xuống cho họ. Ngài phán:

﴿ وَأَنزَلۡنَآ إِلَيۡكَ ٱلذِّكۡرَ لِتُبَيِّنَ لِلنَّاسِ مَا نُزِّلَ إِلَيۡهِمۡ وَلَعَلَّهُمۡ يَتَفَكَّرُونَ ٤٤ ﴾ [سورة النحل: 44]

{Và TA (Allah) đã ban cho Ngươi (Muhammad) Zikr (Qur’an) để Ngươi giảng giải cho nhân loại biết về những điều mà TA đã ban xuống cho họ và mong rằng họ biết suy ngẫm.} (Chương 16 – Annahl, câu 44).



Phái Sunnah & Jama’ah tin rằng Qur’an là lời phán của Allah – các chữ và ý nghĩa của Nó – Nó đến từ bản thân Ngài và Nó sẽ quay trở lại với Ngài, Nó không phải là tạo vật mà chính Allah đã nói bằng lời nói đích thực của Ngài, Ngài mặc khải Nó cho đại Thiên Thần Jibril u và Jibril truyền tải xuống cho Nabi Muhammad e. Và Nó được ban xuống bằng tiếng Ả rập rõ ràng, và Nó được truyền tải đến chúng ta bởi đông đảo người truyền tải đến nỗi không thể có sự nghi ngờ về tính xác thực của Nó.

Allah, Đấng Tối Cao phán:



﴿ وَإِنَّهُۥ لَتَنزِيلُ رَبِّ ٱلۡعَٰلَمِينَ ١٩٢ نَزَلَ بِهِ ٱلرُّوحُ ٱلۡأَمِينُ ١٩٣ عَلَىٰ قَلۡبِكَ لِتَكُونَ مِنَ ٱلۡمُنذِرِينَ ١٩٤ بِلِسَانٍ عَرَبِيّٖ مُّبِينٖ ١٩٥ ﴾ [الشعراء: 192 - 195]

{Quả thật, Nó (Qur’an) do Thượng Đế của vũ trụ và muôn loài ban xuống. Thiên Thần Jibril đã mang Nó xuống, đặt vào quả tim của Ngươi (Muhammad) để Ngươi trở thành một Người báo trước, bằng tiếng Ả rập trong sáng rõ ràng.} (Chương 26 – Ash-Shu’ara’, câu 192 – 195).



Qur’an được ghi trong Lawhul-Mahfuzh (quyển Kinh Mẹ được lưu trữ ở nơi Allah), được lưu giữ trong lòng của các tín đồ, được đọc trên các chiếc lưỡi và được ghi chép thành các quyển kinh.

Allah, Đấng Tối Cao phán:



﴿ بَلۡ هُوَ ءَايَٰتُۢ بَيِّنَٰتٞ فِي صُدُورِ ٱلَّذِينَ أُوتُواْ ٱلۡعِلۡمَۚ وَمَا يَجۡحَدُ بِ‍َٔايَٰتِنَآ إِلَّا ٱلظَّٰلِمُونَ ٤٩ ﴾ [سورة العنكبوت: 49]

{Không! Nó (Qur’an) là những Lời Mặc Khải rõ ràng ở trong lòng của những ai đã được (Allah) ban cho kiến thức. Và chỉ những kẻ làm điều sai quấy mới cãi lại những Lời Mặc Khải của TA.} (Chương 29 – Al-Ankabut, câu 49).



﴿ إِنَّهُۥ لَقُرۡءَانٞ كَرِيمٞ ٧٧ فِي كِتَٰبٖ مَّكۡنُونٖ ٧٨ لَّا يَمَسُّهُۥٓ إِلَّا ٱلۡمُطَهَّرُونَ ٧٩ تَنزِيلٞ مِّن رَّبِّ ٱلۡعَٰلَمِينَ ٨٠ ﴾ [سورة الواقعة: 77 - 80]

{Và đó là Qur’an vinh dự, trong một Kinh sách được giữ kỹ mà không ai được phép sờ đến ngoại trừ những người trong sạch. Một sự Mặc khải do Thượng Đế của vũ trụ và muôn loài ban xuống.} (Chương 56 – Al-waqi’ah, câu 77 – 80).



Kinh Qur’an là một đại phép màu vĩnh hằng dành cho vị Nabi của Islam, Muhammad Bin Abdullah e, và là một thiên Kinh cuối cùng được ban xuống, sẽ không có một kinh sách nào khác để thay thế, và quả thật Allah đã hứa bảo đảm sự vẹn toàn của Nó khỏi sự bóp méo, chỉnh sửa, thay đổi, tẩy xóa, thêm bớt cho đến ngày mà Allah sẽ đưa Nó trở lại với Ngài trước Ngày Tận Thế.

Allah, Đấng Tối Cao phán:



﴿ إِنَّا نَحۡنُ نَزَّلۡنَا ٱلذِّكۡرَ وَإِنَّا لَهُۥ لَحَٰفِظُونَ ٩ ﴾ [سورة الحجر:9]

{Quả thật, TA (Allah) đã ban lời nhắc nhở (Qur’an) xuống và TA sẽ luôn bảo quản nó} (Chương 15 – Al-Hijr, câu 9).



Phái Sunnah & Jama’ah phủ nhận và phản đối những ai bóp méo, chỉnh sửa hoặc thêm bớt những gì trong Qur’an. Với lẽ này, chúng ta tin tưởng bằng đức tin kiên định rằng tất cả các câu Kinh Qur’an đều được ban xuống từ nơi Allah, Qur’an được truyền tải đến chúng ta bằng đường truyền bởi đông đảo người dẫn truyền đến nỗi không thể có sự nghi ngờ.

Kinh Qur’an không được mặc khải xuống toàn bộ trong một lần duy nhất cho Thiên sứ của Allah e mà Nó được ban xuống từng phần theo các sự kiện xảy ra cũng như để trả lời các câu hỏi hoặc để giải quyết các vấn đề trong suốt hai mươi ba năm.

Kinh Qur’an gồm 114 Surah (chương), 86 Surah được mặc khải xuống tại Makkah và 28 Surah được mặc khải xuống tại Madinah. Các Surah được mặc khải xuống tại Makkah được gọi là những chương Makkiyah, còn các Surah được mặc khải xuống tại Madinah được gọi là những chương Madaniyah, và trong đó có 29 Surah được mở đầu bằng các chữ cái.

Qur’an đã được biên chép ngay trong thời của Nabi e dưới sự giám sát của Người. Người đã lựa chọn những người ưu tú nhất trong số các vị Sahabah của Người để giao công việc biên chép mỗi khi các Lời Mặc Khải được ban xuống. Sau đó, đến thời lãnh đạo của Abu Bakr t thì Nó được tập hợp lại và được viết thành một quyển kinh hoàn chỉnh, và đến thời của Uthman t thì Nó được thống nhất trên cùng một mặt chữ. Cầu xin Allah hài lòng về tất cả họ.



Phái Sunnah & Jama’ah chú trọng và quan tâm đến việc truyền dạy và học Qur’an như học thuộc lòng, đọc xướng, Tafseer (giảng giải nội dung ý nghĩa) và thi hành theo Nó. Allah, Đấng Tối Cao phán:

﴿كِتَٰبٌ أَنزَلۡنَٰهُ إِلَيۡكَ مُبَٰرَكٞ لِّيَدَّبَّرُوٓاْ ءَايَٰتِهِۦ وَلِيَتَذَكَّرَ أُوْلُواْ ٱلۡأَلۡبَٰبِ ٢٩ ﴾ [سورة ص: 29]

{Kinh sách (Qur’an) mà TA (Allah) ban Nó xuống cho Ngươi (Muhammad) là Kinh sách đầy ân phúc để giúp họ nghiền ngẫm về những Câu của Nó và để cho những người thông hiểu ghi nhớ.} (Chương 38 – Sad, câu 29).

Allah qui định lấy việc đọc xướng Qur’an trong cung cách thờ phượng Ngài. Mỗi chữ của Qur’an khi đọc lên sẽ được ban cho một ân phước và nhân lên thành mười như Nabi e đã di huấn:

« مَنْ قَرَأَ حَرْفًا مِنْ كِتَابِ اللهِ فَلَهُ بِهِ حَسَنَةٌ وَالْحَسَنَةُ بِعَشْرِ أَمْثَالِهَا لاَ أَقُولُ الم حَرْفٌ وَلَكِنْ أَلِفٌ حَرْفٌ وَلاَمٌ حَرْفٌ وَمِيمٌ حَرْفٌ » رواه الترمذي: فضائل القرآن (2910) وفي صحيح سنن الترمذي للألباني.

Ai đọc một chữ từ Kinh sách của Allah (Qur’an) thì y được ban cho một ân phước và ân phước đó được nhân lên mười lần tương tự. Ta không nói الم là một chữ mà ا là một chữ, ل là một chữ và مlà một chữ.” (Tirmizhi trong Fadha-il Al-Qur’an (2910), và trong Sahih Sunnan Attirmizhi của Albani).

Phái Sunnah & Jama’ah không giảng giải nội dung ý nghĩa Qur’an theo suy nghĩ và quan điểm của riêng họ bởi vì đó là lời nói không đúng cho Allah một cách vô kiến thức và là hành vi của Shaytan. Allah, Đấng Tối Cao phán:

﴿ يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ كُلُواْ مِمَّا فِي ٱلۡأَرۡضِ حَلَٰلٗا طَيِّبٗا وَلَا تَتَّبِعُواْ خُطُوَٰتِ ٱلشَّيۡطَٰنِۚ إِنَّهُۥ لَكُمۡ عَدُوّٞ مُّبِينٌ ١٦٨ إِنَّمَا يَأۡمُرُكُم بِٱلسُّوٓءِ وَٱلۡفَحۡشَآءِ وَأَن تَقُولُواْ عَلَى ٱللَّهِ مَا لَا تَعۡلَمُونَ ١٦٩ ﴾ [سورة البقرة : 168، 169]

{Hỡi nhân loại! Hãy ăn những gì tốt lành được phép trên trái đất và chớ đừng theo bước chân của Shaytan, quả thật, nó là kẻ thù công khai của các ngươi. Quả thật, nó chỉ sai khiến các ngươi làm điều tội lỗi và điều khả ố và bắt các ngươi nói về Allah những điều mà các ngươi không hiểu biết.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 198, 169).

Họ chỉ giảng giải Qur’an bằng Qur’an, rồi bằng Sunnah, sau đó là bằng các lời nói của các vị Sahabah, các vị Tabieen và sau đó là bằng ngôn ngữ Ả rập mà Qur’an được ban xuống.


  • Trụ cột thứ tư của đức tin Iman: Đức tin nơi các Thiên sứ

Phái Sunnah & Jama’ah tin tưởng kiên định rằng Allah, Đấng Tối Cao đã cử phái đến cho các bầy tôi của Ngài những vị Thiên sứ để báo tin vui và mang lời cảnh báo, để kêu gọi họ đến với tôn giáo chân lý, để hướng dẫn nhân loại, đưa họ khỏi nơi tâm tối ra ngoài ánh sáng của chân lý.

Sự kêu gọi và truyền bá của họ cứu rỗi nhân loại khỏi sự thờ phượng đa thần và bụt tượng, tẩy sạch xã hội khỏi những điều tội lỗi và lầm lạc.

Các Thiên sứ của Allah là những người truyền bá Thông Điệp của Ngài, giữ trọn chữ tín, răn dạy cộng đồng, tranh đấu cho con đường chính nghĩa của Allah. Quả thật, họ đã mang đến những phép màu chứng minh sự trung thực của họ. Người nào phủ nhận bất cứ ai trong số họ là kẻ vô đức tin nơi Allah và vô đức tin nơi toàn thể các vị Thiên sứ.

Allah, Đấng Tối Cao phán:



﴿ إِنَّ ٱلَّذِينَ يَكۡفُرُونَ بِٱللَّهِ وَرُسُلِهِۦ وَيُرِيدُونَ أَن يُفَرِّقُواْ بَيۡنَ ٱللَّهِ وَرُسُلِهِۦ وَيَقُولُونَ نُؤۡمِنُ بِبَعۡضٖ وَنَكۡفُرُ بِبَعۡضٖ وَيُرِيدُونَ أَن يَتَّخِذُواْ بَيۡنَ ذَٰلِكَ سَبِيلًا ١٥٠ أُوْلَٰٓئِكَ هُمُ ٱلۡكَٰفِرُونَ حَقّٗاۚ وَأَعۡتَدۡنَا لِلۡكَٰفِرِينَ عَذَابٗا مُّهِينٗا ١٥١ وَٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ بِٱللَّهِ وَرُسُلِهِۦ وَلَمۡ يُفَرِّقُواْ بَيۡنَ أَحَدٖ مِّنۡهُمۡ أُوْلَٰٓئِكَ سَوۡفَ يُؤۡتِيهِمۡ أُجُورَهُمۡۚ وَكَانَ ٱللَّهُ غَفُورٗا رَّحِيمٗا ١٥٢ ﴾ [سورة النساء : 150 - 152]

{Quả thật, những ai phủ nhận Allah và các Sứ giả của Ngài, và họ muốn chia rẽ giữa Allah và các Sứ giả của Ngài. Họ nói: Chúng tôi tin tưởng một số Sứ giả và phủ nhận một số khác. Và họ muốn cho một lối đi ở chính giữa cái đó. Họ đích thực là những kẻ phản nghịch và TA (Allah) đã chuẩn bị cho những kẻ vô đức tin một sự trừng phạt nhục nhã. Ngược lại, những ai có đức tin nơi Allah và các Sứ giả của Ngài và không kỳ thị phân biệt bất cứ một vị Sứ giá nào thì TA sẽ sớm ban cho họ phần thưởng của họ. Và Allah là Đấng Hằng Tha Thứ, rất mực Khoan Dung.} (Chương 4 – Annisa’, câu 150 - 152).

Quả thật, Allah đã nói rõ về ý nghĩa và mục đích của việc cử phái các vị Thiên sứ cao quý đến cho nhân loại, Ngài phán:

﴿ رُّسُلٗا مُّبَشِّرِينَ وَمُنذِرِينَ لِئَلَّا يَكُونَ لِلنَّاسِ عَلَى ٱللَّهِ حُجَّةُۢ بَعۡدَ ٱلرُّسُلِۚ وَكَانَ ٱللَّهُ عَزِيزًا حَكِيمٗا ١٦٥ ﴾ [سورة النساء: 165]

{Các vị sứ giả, họ vừa là những người báo tin lành vừa là những người cảnh báo để nhân loại không còn có lý do khiếu nại với Allah sau khi các vị sứ giả được phái đến. Và Allah là Đấng Toàn năng và vô cùng sáng suốt.} (Chương 4 – Annisa, câu 165).

Quả thật, Allah đã cử phái rất nhiều Thiên Sứ cũng như rất nhiều các vị Nabi, trong số họ, có vị được nhắc đến trong Qur’an của Ngài hoặc qua chiếc lưỡi của vị Nabi của Ngài, Muhammad e, và cũng có vị không được thông tin cho chúng ta biết. Ngài phán:

﴿ وَلَقَدۡ أَرۡسَلۡنَا رُسُلٗا مِّن قَبۡلِكَ مِنۡهُم مَّن قَصَصۡنَا عَلَيۡكَ وَمِنۡهُم مَّن لَّمۡ نَقۡصُصۡ عَلَيۡكَۗ ﴾ [سورة غافر: 78]

{Và quả thật, TA (Allah) đã cử phái các Sứ giả đến với nhân loại trước Ngươi. Trong số đó có người TA đã kể cho Ngươi (Muhammad) câu chuyện của họ và có người TA không kể câu chuyện của họ cho Ngươi.} (Chương 40 – Ghafir, câu 78).



﴿وَلَقَدۡ بَعَثۡنَا فِي كُلِّ أُمَّةٖ رَّسُولًا أَنِ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ وَٱجۡتَنِبُواْ ٱلطَّٰغُوتَۖ﴾ [سورةالنحل : 36]

{Và quả thật, TA đã cử phái đến với mỗi cộng đồng một vị Sứ giả với mệnh lệnh rằng hãy thờ phượng Allah và tránh xa tà thần} (Chương 16 – Annahl, câu 36).

Trong Qur’an, Allah đã nhắc đến hai mươi lăm vị Thiên sứ và Nabi, đó là: Tổ tiên của loài người Adam, Idris, Nuh, Hud, Saleh, Ibrahim, Lut, Isma’il, Ishaq, Yaqub, Yusuf, Shu’aib, Ayyub, Zhul-Kifl, Musa, Harun, Dawood, Sulayman, Ilyas, Al-Yasa’, Yunus, Zakariya, Yahya, Ysa, và Muhammad vị cuối cùng trong các vị Thiên sứ và Nabi, cầu xin bằng an và phúc lành cho tất cả họ.

Và quả thật, Allah đã ban phúc lành và sự cao quý giữa các vị Nabi, các vị Thiên sứ trong sự hơn kém nhau. Tất cả cộng đồng Islam đều đồng thuận với nhau rằng các vị Thiến sứ cao quý hơn các vị Nabi, và giữa các vị Thiên sứ cũng có sự hơn kém nhau, và vị tốt nhất trong số các vị Thiên sứ và các vị Nabi là những vị Ulu-Azm (Nhiệt quyết và nổi trội nhất), những vị Ulu-Azm này gồm năm người cả thảy: Muhammad, Nuh, Ibrahim, Musa và Ysa.

Và vị cao quý và trội nhất trong số những vị Ulu-Azm là vị Nabi của Islam, một vị Thiên sứ và Nabi cuối cùng được Đấng Chủ Tể của vũ trụ và muôn loài cử phái đến, đấy chính là Muhammad Bin Abdullah e. Allah, Đấng Tối Cao phán:

﴿ مَّا كَانَ مُحَمَّدٌ أَبَآ أَحَدٖ مِّن رِّجَالِكُمۡ وَلَٰكِن رَّسُولَ ٱللَّهِ وَخَاتَمَ ٱلنَّبِيِّ‍ۧنَۗ وَكَانَ ٱللَّهُ بِكُلِّ شَيۡءٍ عَلِيمٗا ٤٠ ﴾ [سورة الأحزاب: 40]

{Muhammad không phải là người cha của một ai trong số đàn ông các ngươi, mà Y chính là Thiên sứ của Allah và là vị Nabi cuối cùng trong các vị Nabi. Và Allah là Đấng am tường mọi sự việc} (Chương 33 – Al-Ahzab, câu 40).



Каталог: data
data -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
data -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
data -> Qcvn 81: 2014/bgtvt
data -> Trung taâm tin hoïC Ñhsp ñEÀ thi hoïc phaàn access
data -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
data -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
data -> Nghiên cứu một số đặc điểm
data -> NHỮng đÓng góp mới của luậN Án tiến sĩ CẤP ĐẠi học huế Họ và tên ncs : Nguyễn Văn Tuấn
data -> Mẫu 01/hc-sn-dn (Ban hành kèm theo Thông tư số 83/2007/tt-btc ngày 16/7/2007 của Bộ Tài chính) TỜ khai hiện trạng sử DỤng nhà, ĐẤt thuộc sở HỮu nhà NƯỚc và ĐỀ xuất phưƠng án xử LÝ

tải về 2.26 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương