22 quy luật bất biến trong marketing



tải về 349.69 Kb.
trang2/7
Chuyển đổi dữ liệu16.09.2017
Kích349.69 Kb.
#33263
1   2   3   4   5   6   7

Tâm trí của các nhà tiếp thị đã bị tràn ngập trước với công việc nghiên cứu và thu thập các sự kiện. Họ phân tích sao cho sự thật đứng về phía họ, rồi tuyên bố một cách tự tin trên đấu trường tiếp thị rằng họ có sản phẩm tốt nhất và khẳng định sản phẩm tốt nhất sẽ thắng.
Đó là một ảo tưởng. Không có thực tế khách quan. Không có những sự kiện. Không có những sản phẩm tốt nhất. Tất cả hiện hữu trong thế giới tiếp thị là những nhận thức trong tâm trí khách hàng. Chỉ có nhận thức là thực tại còn mọi thứ khác đều là ảo tưởng.
Tất cả sự thật đều có tính tương đối. Tương đối với tâm trí của bạn hay tâm trí của người khác. Khi bạn nói: “tôi đúng còn người kia sai”, thực ra là bạn muốn nói mình nhận thức hay hơn người nào đó.
Hầu hết mọi người đều cho rằng mình nhận thức hay hơn người khác. Họ có cảm giác của một sự hoàn hảo mang tính chủ quan. Nhận thức của họ luôn chính xác hơn người láng giềng hay bạn bè. Sự thật và nhận thức trở nên hợp nhất trong tâm trí, không có sự khác biệt giữa hai điều đó.
Đó là điều khó nhận thấy. Đương đầu với thực tại phủ phàng là sự cô đơn trong vũ trụ, người ta tự tách mình ra khỏi thế giới. Họ “sống” trong một đấu trường của sách vở, điện ảnh, truyền hình, báo chí. Họ “thuộc về” các câu lạc bộ, các tổ chức, hội đoàn. Bức họa bên ngoài của thế giới hình như thật hơn là thực tại bên trong tâm trí họ.
Người ta bám víu vào sự tin tưởng rằng thực tại là thế giới bên ngoài của trí tuệ và cá nhân là một hạt bụi của vũ trụ. Thực tế ngược lại. Chỉ có một thực tại bạn có thể chắc chắn tin vào, đó là nhận thức riêng của bạn. Nếu vũ trụ hiện hữu, nó hiện hữu bên trong tâm trí của chính bạn và tâm trí của những người khác. Đó là thực tại mà các chương trình tiếp thị phải đương đầu.
Có thể có thực các đại dương, sông ngòi, thành phố và nhà ở nơi đó, nhưng chẳng có cách nào cho chúng ta biết các vật này ngoại trừ thông qua nhận thức riêng của chúng ta. Tiếp thị là một sự vận dụng các nhận thức này.
Hầu hết các sai lầm về tiếp thị bắt nguồn từ giả thuyết là bạn đang chiến đấu trong một trận chiến của các sản phẩm. Tất cả những điều luật trong cuốn sách này lại rút ra từ những quan điểm ngược lại.
Một số nhà tiếp thị khảo sát những qui luật tiếp thị tự nhiên dựa vào một lập luận sai lầm: sản phẩm chính là trung tâm của các chương trình tiếp thị và rồi bạn sẽ thắng hay thua dựa vào sản phẩm. Đó chính là lý do tại sao đường lối tiếp thị tự nhiên của một số sản phẩm (từng được coi là hợp lý) luôn bị sai lầm.
Chỉ có cách nghiên cứu cách nhận thức được hình thành ra sao trong tâm trí và đặt trong tâm các chương trình tiếp thị của bạn trên các nhận thức này bạn mới có thể vượt qua các sai lầm căn bản của bản năng tiếp thị.
Mỗi người trong chúng ta (nhà sản xuất, phân phối, đại lý, khách hàng…) đều nhìn thế giới qua một cặp mắt. Nếu có một sự thật khách quan ở đó, làm thế nào chúng ta biết được? Ai sẽ nói cho chúng ta biết? Chỉ có thể là do một người nào khác nhìn cùng một cảnh tượng qua một cặp mắt khác mà thôi.
Sự thật không hơn không kém chỉ là nhận thức của một chuyên gia. Mà ai là chuyên gia? Đó là những người được người khác công nhận họ là những chuyên gia.
Nếu sự thật là ảo ảnh như vậy tại sao có qúa nhiều bàn cãi trong tiếp thị gọi là những sự kiện? Tại sao có nhiều quyết định tiếp thị dựa trên việc so sánh những sự kiện? Tại sao nhiều nhà tiếp thị coi sự thật đứng về phía họ, rằng các công việc của họ là sử dụng sự thật như là vũ khí để sửa chữa những sai lầm đã hiện hữu trong tâm trí của khách hàng.
Các nhà tiếp thị tin tưởng vào các sự kiện bởi vì họ tin tưởng vào thực tại khách quan. Nó cũng thật dễ dàng để các nhà tiếp thị cho rằng sự thật ở về phía họ. Nếu bạn nghĩ là bạn cần sản phẩm tốt nhất để thắng trong trận chiến tiếp thị, thì bạn sẽ dễ dàng tin là mình có sản phẩm tốt nhất. Tất cả chỉ đòi hỏi bạn một sự sửa đổi nhỏ trong nhận thức của chính bạn.
Thay đổi tâm trí của khách hàng lại là vấn đề khác. Tâm trí của khách hàng rất khó thay đổi. Với một chút kinh nghiệm về một loại sản phẩm, người tiêu dùng cho rằng họ đúng. Một nhận thức hiện hữu trong tâm trí thường được diễn giải như là một sự thật chung. Người ta nghĩ hiếm khi nào, nếu không muốn nói là không khi nào họ sai lầm, ít nhất là trong tâm trí của họ.
Thật dễ dàng để nhận thấy sức mạnh của nhận thức qua sản phẩm khi những sản phẩm được tách biệt nhau. Ví dụ: Toyota, Honda và Nissan là 3 hãng xe lớn nhất nhảy vào thị trường Mỹ. Hầu hết các nhà tiếp thị cho rằng cuộc chiến giữa ba nhãn hiệu được căn cứ vào phẩm chất, mẫu mã kiểu dáng, công suất và giá cả. Không đúng như vậy. Cái gì mà người ta nghĩ về xe Honda, Toyota và Nissan thì ý nghĩ đó quyết định nhãn hiệu nào sẽ thắng. Tiếp thị là một cuộc chiến của nhận thức.
Các nhà sản xuất xe ôtô Nhật Bản bán ra cùng một loại xe tại Mỹ cũng như tại Nhật. Nếu tiếp thị là cuộc chiến của sản phẩm, thì thứ tự doanh số bán ra tại hai quốc gia phải giống nhau, vì cùng phẩm chất, cùng mẫu mã, cùng công suất, cùng giá cả thì tại Mỹ và Nhật bán ra phải như nhau. Thế nhưng, ở Nhật, xe Honda còn lâu mới tới gần được hãng xe dẫn đầu. Xe Honda đứng hạng ba sau xe Toyota và Nissan. Hãng Toyota bán ra gấp bốn lần xe Honda bán ra tại Nhật.
Như vậy điều gì khác biệt giữa xe Honda bán ra tại Nhật và xe Honda bán ra tại Mỹ? Sản phẩm như nhau, nhưng nhận thức trong tâm trí khách hàng khác nhau.
Nếu bạn nói với bạn bè ở New York rằng bạn mới mua một xe Honda, họ có thể sẽ hỏi bạn: “Anh đã mua kiểu nào? Một chiếc Civic, một chiếc Accord? Hay là một chiếc Prelude?” Nhưng khi bạn khoe với bạn bè ở Tokyo là bạn mới mua một xe Honda, các bạn Nhật sẽ hỏi: “Anh mua loại xe gắn máy kiểu gì vậy?”. Ơ Nhật, Honda đi vào tâm trí khách hàng như là một hãng sản xuất xe gắn máy, và hình như hầu hết người ta không muốn mua một chiếc xe hơi do một nhà sản xuất xe gắn máy làm ra.
Một tình huống ngược lại, liệu Harley- Davidson có thành công không nếu họ tung ra một chiếc xe hơi hiệu Harley- Davidson? Bạn nghĩ có thể lắm, nó còn tùy thuộc vào chiếc xe: phẩm chất, kiểu dáng, công suất máy, giá cả. Ngay cả khi bạn tin rằng Harley- Davidson có tiếng về làm ra sản phẩm tốt, thì câu trả lời vẫn là không. Người ta nhận thức về Harley- Davidson như là một hãng sản xuất xe môtô, điều này sẽ làm giảm giá trị xe hơi Harley- Davidson không cần biết sản phẩm tốt ra sao (chương 12: luật mở rộng).
Tại sao hãng súp Campbell đứng thứ nhất ở Mỹ mà không làm nên trò trống gì ở Anh? Tại sao súp hiệu Heinz đứng đầu ở Anh mà lại thất bại thảm hại ở Mỹ? Tiếp thị là trận chiến của nhận thức, chứ không phải của sản phẩm. Tiếp thị là qúa trình giải quyết các nhận thức này.
Nhiều nhà kinh doanh thức uống tin rằng tiếp thị là chiến tranh mùi vị. Tốt lắm, Coke mới (new Coke) đứng đầu về mùi vị (hãng Coca- Cola đã thử nghiệm 200.000 lần về mùi vị, cuộc thử nghiệm cho thấy New Coke có mùi vị ngon hơn Pepsi- Cola và Pepsi có mùi vị ngon hơn Coca- Cola nguyên thủy).
Nhưng ai là người thắng cuộc chiến tiếp thị này? Thức uống được coi là có vị ngon nhất trong thí nghiệm là New Coke lại đứng hạng ba. Thức uống ngon thứ ba trong thí nghiệm la Coca- Cola nguyên thủy lại đứng hạng nhất.
Bạn hãy tin tưởng vào cái gì mà bạn muốn tin. Bạn hãy nếm những gì mà bạn muốn nếm. Tiếp thị nước giải khát là cuộc chiến của nhận thức, không phải là cuộc chiến của mùi vị.
Cuộc chiến càng khó khăn hơn khi khách hàng thường quyết định mua hàng dựa trên những nhận thức cũ. Hoặc thay vì dựa vào chính nhận định của họ, khách hàng lại quyết định dựa vào nhận thức thật tế của người nào đó. Đây là nguyên tắc “everybody knows” (mọi người đều biết).
Mọi người đều biết là xe Nhật có phẩm chất cao hơn xe Mỹ. Như vậy, người ta quyết định mua xe dựa trên sự kiện là mọi người đều biết xe Nhật có phẩm chất cao hơn. Khi người mua hàng được hỏi là có kinh nghiệm riêng của họ về sản phẩm đó không, hầu hết mọi người đều nói là không có. Và nếu có thì kinh nghiệm cá nhân của họ cũng bị bẻ cong cho hợp với nhận thức của họ.
Nếu bạn mua phải một chiếc xe Nhật không tốt, họ coi bạn là xui xẻo, bởi vì tất cả mọi người đều nghĩ rằng xe Nhật được chế tạo với phẩm chất cao. Ngược lại, nếu bạn có một xe Mỹ tốt, bạn được coi là may mắn, bởi vì tất cả mọi người đều cho rằng xe Mỹ kém phẩm chất.
Tất cả mọi người đều biết xe Audi có vấn đề trục trặc. Ngày 23/11/1986, hãng thông tấn và truyền hình CBS phát đi trong chương trình “60 phút” câu chuyện “mất sự điều khiển”, phóng sự này lưu ý mọi người về một số lời phàn nàn của người tiêu dùng về sự gia tăng tốc độ không kiểm soát được của xe Audi. Số lượng xe Audi bán ra tại Mỹ sụt giảm tới mức từ 60.000 xe trong năm 1986 xuống còn 12.000 xe năm 1991. Nhưng bản thân bạn đã gặp vấn đề gì về sự gia tăng tốc độ không kiểm soát được của xe Audi chưa? Hầu như là không. Mọi chuyên gia về xe ôtô không tìm thấy vấn đề bị phàn nàn này. Tuy vậy, nhận thức vẫn tiếp tục kéo dài.
Mới đây hãng Audi đã tung ra một quảng cáo nhằm so sánh xe của họ với hai loại xe tương tự của Mercedes Benz và BMW. Theo quảng cáo, các chuyên gia về xe ôtô của Đức đã xếp hạng xe Audi trên cả Mercedes và BMW.
Bạn có tin điều đó không? Có lẽ là không.
Điều đó có thật không? Không thành vấn đề.
Vậy tiếp thị không phải là trận chiến của sản phẩm. Đó là trận chiến của nhận thức.
5. Luật về trọng tâm:
Khái niệm mạnh mẽ nhất trong tiếp thị là làm chủ được một từ có trong tâm trí khách hàng.

Một công ty có thể thành công vượt bậc nếu công ty đó tìm cách làm chủ một từ nào đó trong tâm trí khách hàng. Không phải là một từ phức tạp, không phải sáng tạo ra từ đó. Những từ đơn giản là tốt nhất, thường có trong từ điển.


Đây là luật về trọng tâm (law of focus). Bạn rút ngắn đường đi vào tâm trí khách hàng bằng cách thu nhỏ điểm hội tụ thành một từ đơn hay một khái niệm. Đó là sự hy sinh căn bản trong tiếp thị.
Hãng Federal Express đã đưa được từ overnight vào tâm trí khách hàng của họ bởi vì hãng đã hy sinh các dịch vụ khác và chỉ tập trung vào dịch vụ giao nhận hàng trong một đêm mà thôi (overnight package delivery).
Trong một chừng mực nào đó, vị trí dẫn đầu hay vị trí tốt hơn đã tạo điều kiện để nhãn hiệu hay công ty dẫn đầu đó làm chủ một từ trong tâm trí khách hàng. Nhưng từ mà công ty dẫn đầu làm chủ phải thật đơn giản đến mức độ như là vô hình.
Hãng dẫn đầu có thể làm chủ một từ đại diện cho cả chủng loại (category). Ví dụ: hãng IBM làm chủ từ computer. Đây cũng là một cách nói khác đi về việc một nhãn hiệu trở thành tên gọi chung cho cả chủng loại “Chúng tôi cần một máy IBM, có ai nghi ngờ đó không phải là một máy vi tính hay không?
Bạn có thể đánh giá được vị trí được khẳng định của những người dẫn đầu qua việc kết hợp những từ ngữ. Nếu các từ cho trước là computer, copier, chocolate bar và cola được đưa ra, thì bốn từ thích hợp nhất sẽ là IBM, Xeror, Hershey’s và Coke.
Một người dẫn đầu khôn ngoan sẽ tiến thêm một bước để cũng cố vị trí dẫn đầu của mình. Công ty Heinz là chủ từ ketchup (tương cà chua) nhưng nó đã nổ lực để độc lập: Điều quan trọng nhất của ketchup là “ketchup đặc nhất của miền Tây” (slowest ketchup in the West). Chỉ cần làm chủ được từ slow thôi, Heinz duy trì được sự kiểm soát 50% thị trường.
Nếu bạn không phải là người dẫn đầu thì từ của bạn nên thu hẹp trọng tâm. Tuy nhiên, quan trọng hơn nữa từ của bạn phải có ngay trong chủng loại sản phẩm, không ai có thể giấu nó được.
Bạn không cần phải là một nhà ngôn ngữ học uyên thâm mới có thể đạt được thắng lợi. Prego đã thắng hãng dẫn đầu Ragu về sốt mì ống (spaghetti sauce) và chiếm 27% thị trường nhờ một ý kiến vay mượn từ hãng Heinz, từ của hãng Prego là thicker (đặc hơn).
Những từ hiệu qủa nhất là những từ đơn giản và có khuynh hướng nói về lợi ích. Không cần biết sản phẩm phức tạp ra sao, không cần biết nhu cầu thị trường thế nào, tốt nhất là luôn đặt trọng tâm vào một từ hay lợi ích của khách hàng, hơn là hai, ba hoặc bốn từ.
Việc này sẽ đạt kết qủa to lớn hơn nếu bạn đưa ra một lợi ích mạnh mẽ, khách hàng có thể cho bạn biết một số lợi ích khác nữa. Một sốt mì ống “đặc hơn” (thicker) nói lên phẩm chất tốt, giá trị dinh dưỡng cao…
Một xe hơi được thiết kế “an toàn hơn” nói lên xe được thiết kế và máy móc tốt hơn (a “safer” car). Không biết đó có phải là kết quả của một qúa trình được cân nhắc kỹ hay không, mà hầu hết các công ty (hay nhãn hiệu) thành công là những công ty làm chủ một từ có trong tâm trí người tiêu dùng, (một vài từ như Volkswagen’s fahrvergnugen không đáng để làm chủ). Sau đây là một vài ví dụ:

Kem đánh răng Crest Cavities


Xe ôtô Mescedes Engineering
Xe ôtô Volvo Safety
Xe ôtô BMW Driving
Bánh pizza Domino’s Home delivery
Nước uống Pepsi Cola Youth
Hãng Nordstrom Service
Các từ đều khác nhau. Nó có thể liên hệ tới lợi ích (ngăn ngừa sâu răng- cavity prevention), liên hệ tới dịch vụ (giao hàng tận nhà- home delivery).
Mặc dù chúng ta biết rằng những từ đó luôn ngự trị trong đầu khách hàng, nhưng không phải nó tồn tại mãi mãi. Cũng có lúc cần thay đổi các từ. Đó chẳng phải là công việc dễ dàng. Câu chuyện vừa mới đây của Lotus Development Corporation là một minh chứng rõ bản chất của vấn đề này.
Từ nhiều năm qua, hãng Lotus đã làm chủ từ spreadsheet. Lotus đồng nghĩa với 1-2-3 và spreadsheet . Nhưng từ spreadsheet bị cạnh tranh, và triển vọng phát triển bị giới hạn. Cũng giống như các công ty khác, Lotus muốn lớn mạnh hơn. Làm thế nào để công ty vượt qua được mình, mà chỉ vốn là hãng kinh doanh một loại sản phẩm?
Đáp số có tính quy ước là bành trướng ra mọi hướng như IBM và Microsoft đã làm. Lotus đã nới rộng việc mua phần mềm của hãng Ami Pro và giới thiệu một số phần mềm mới. Sau đó Lotus chấn chỉnh lại tổ chức và đặt trọng tâm vào một khái niệm mới được gọi là groupware, sản phẩm phần mềm dành cho mạng vi tính cá nhân.
Lotus là công ty phần mềm đầu tiên phát triển thành công groupware. Công ty tự nhiên đã làm chủ một từ thứ hai trong tâm trí khách hàng.
Không giống như Microsoft, Lotus ngày nay có một mục tiêu cho công ty. Công việc này không phải trong một đêm, mà là một công việc khuếch trương lâu dài trong lĩnh vực phần mềm.
Những gì mà từ overnight giúp cho Federal Express và từ Safety giúp cho Volvo thì groupware cũng sẽ làm cho Lotus.
Bạn không thể lấy từ của người khác. Thành công của Lotus là từ groupware, chưa có công ty nào làm chủ nó. Hơn thế nữa, có một công nghệ rộng lớn hướng về vi tính nối mạng (network computers). Hơn phân nửa số máy vi tính của giới kinh doanh được nối mạng. Có cả một tạp chí mới được gọi là network computing.
Nhiều công ty nhìn thấy lợi ích của việc làm chủ một từ hay một khái niệm, nhưng họ lại bất cẩn để không được là người đầu tiên làm chủ từ đó.
Việc không nên làm trong tiếp thị là bỏ đi những từ đã là của riêng mình và chạy theo một từ đã thuộc về người khác.
Đây là trường hợp của Atari, công ty làm chủ từ video game. Vì công cuộc kinh doanh sa sút vào năm 1982, công ty đã đổi qua hướng đi mới. Họ muốn Atari đồng nghĩa với computers. Tổng giám đốc James Morgan tuyên bố: “Atari có sức mạnh của một cái tên nhưng đồng thời biểu lộ sự yếu kém. Nó đồng nghĩa với video games- Atari phải định rõ lại hình ảnh của nó với sản phẩm điện tử”.
Không may cho chiến lược của ông Morgan, các công ty khác kể cả Apple và IBM đã làm chủ những từ mà ông theo đuổi. Sự đa dạng của Atari là một thảm họa. Nhưng sự trớ trêu có thực là vào năm 1986 một công ty đã lấy lại khái niệm mà Atari đã vứt bỏ. Đó là công ty Nintendo, hiện nay kiểm soát 75% thị trường đáng giá hàng tỷ đôla. Bây giờ đố ai biết được Atari ở đâu?
Điều thiết yếu của tiếp thị là thu hẹp mục tiêu lại. Bạn trở nên mạnh hơn khi giảm bớt phạm vi hoạt động. Bạn không thể đứng vững khi bạn đuổi theo sau mọi thứ.
Một vài công ty chấp nhận sự thu hẹp mục tiêu và cố gắng hoàn thiện chiến lược này “Chúng tôi đặt trọng tâm vào phẩm chất cho thị trường. Chúng tôi không dự phần vào thị trường, đặt nặng vào giá cả”.
Vấn đề là khách hàng không tin vào bạn cho đến khi nào họ thấy bạn chỉ hạn chế công việc kinh doanh vào các sản phẩm có gía trị cao mà thôi, như Mescedes Benz hay BMW.
General Motors cố gắng bán sản phẩm, chất lượng của sản phẩm tùy thuộc vào giá cả
“Putting quality on the road” là khẩu hiệu mới nhất của công ty. Mỗi một sản phẩm của General Motor đều có các từ “Mark of Excellence” (dấu hiệu tuyệt hảo). Bạn đoán xem Ford đang làm gì? Họ làm giống vậy “Quality is Job 1” (phẩm chất là việc đầu tiên), quảng cáo của hãng Ford đã nói như vậy.
Chủ tịch của hãng Chrysler là ông Lee Iacocca tuyên bố: “Chúng tôi không muốn là lớn nhất, chúng tôi chỉ muốn là tốt nhất (We don’t want to be biggest, We just want to be the best). Có ai tin là Iacocca không muốn mình là lớn nhất không?
Đây là những chất liệu to lớn bên trong công ty. Toàn thể phẩm chất, con đường đi đến sự vĩ đại. Nó là những khẩu hiệu tuyệt vời tại đại hội khách hàng, đặc biệt là khi cộng thêm với giàn nhạc, hoa và khiêu vũ. Nhưng phía ngoài công ty, các lời nhắn gởi này rơi rụng lả tả. Có công ty nào tự nhận mình là công ty không có phẩm chất không? Không khi nào. Mọi người đều nói mình có phẩm chất, kết qủa là không ai có hết.
Bạn không thể thu hẹp trọng tâm với phẩm chất hay các mà không có những bênh vực cho quan điểm ngược lại. Bạn cũng không thể đặt vị trí của bạn như là một nhà chính trị lương thiện, bởi vì không có ai muốn chọn vị trí ngược lại (dù rằng có rất nhiều ứng viên sáng giá).
Tuy nhiên, bạn có thể đặt mình vào một vị trí như một ứng viên thiên về kinh doanh hay một ứng viên về thế giới lao động, và sẽ được chấp nhận ngay vì có sự ủng hộ cho phe khác.
Khi bạn đặt trọng tâm vào việc khuếch trương từ ngữ của bạn hãy gạt các luật sư ra ngoài. Họ muốn đăng ký nhãn hiệu tất cả mọi thứ. Mưu mẹo này là để người khác sử dụng từ của mình (là người dẫn đầu thì tất nhiên phải có những người đi theo). Thật hữu ích cho Lotus khi có những công ty khác nhảy vào kinh doanh groupware. Việc đó làm cho lĩnh vực này quan trọng hơn vào người ta càng khâm phục vị trí dẫn đầu của Lotus.
Một khi bạn đã sở hữu một từ bạn phải xông ra bảo vệ nó trên thị trường, trường hợp của BMW minh họa việc này rất hay. Từ nhiều năm, hãng BMW là cỗ máy “lái” tốt nhất (ultimate “driving” machine). Rồi thì công ty quyết định mở rộng dây chuyền sản phẩm và rượt đuổi theo Mescedes- Benz với xe du lịch cỡ lớn sê-ri 700. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để cả một căn phòng khách (a living room) có bánh xe lại là một cỗ máy lái tốt nhất được, bạn chẳng thể nào cảm nhận mặt đường. Kết qủa là mọi thứ bắt đầu tuột dốc cho BMW. May thay, hãng vừa giới thiệu một loại xe BMW nhỏ, và một lần nữa từ lái (driving) lại được nhấn mạnh. Công ty đã khôi phục lại trọng tâm của họ.
Luật về trọng tâm áp dụng cho bất cứ cái gì mà bạn bán ra. Ví dụ như ma túy, chiến dịch về chống ma túy được tuyên truyền rầm rộ trên truyền hình và báo chí đã bị thất bại vì thiếu trọng tâm. Không có từ nào lọt vào được tâm trí những người dùng ma túy mà có thể bắt đầu nói về khái niệm ma túy. Quảng cáo chống ma túy cùng khắp mọi nơi.
Bạn có thể nghĩ rằng những lực lượng chống ma túy (những nhà chuyên nghiệp) nên bắt chước các tay tài tử chống việc phá thai đã đặt trọng tâm vào một từ mạnh mẽ duy nhất- ủng hộ đời sống và ủng hộ sự lựa chọn.
Các lực lượng chống ma túy nên làm giống như vậy- đặt trọng tâm vào một từ mạnh mẽ duy nhất. Việc cần thiết là làm sao để ma túy cũng bị xã hội từ chối như là không chấp nhận thuốc lá bây giờ vậy.
Một từ có thể làm được vai trò độc nhất này là từ loser (người thua cuộc, thất bại). Người dùng ma túy sẽ tạo ra mọi mất mát, thua thiệt (all kinds of losses) mất việc, mất gia đình, mất tự do, mất đời sống. Một chương trình mà nói “Ma túy chỉ dành cho người thua cuộc” có thể sẽ tạo ảnh hưởng sâu đậm, đặc biệt là với những người nghiện, hay dùng ma túy để giải trí, đó là những người quan tâm tới địa vị xã hội hơn là để chìm đắm trong cơn say.
Khi đó, biết đâu. Luật trọng tâm, một luật của tiếp thị, có thể giúp hạn chế một tệ nạn lớn của xã hội.
6.Luật độc quyền.
Hai công ty không thể nào làm chủ cùng một từ trong tâm trí khách hàng.

Nếu một đối thủ đã làm chủ một từ hay đã chiếm một vị trí trong tâm trí khách hàng rồi thì thật là vô ích khi cố công làm chủ từ đó. Như đã nêu ở chương 5. Volvo làm chủ từ “safely”. Nhiều hãng ôtô khác trong đó có cả Mercedes-Benz và General Motors cũng cố gắng vận dụng từ “safely” để kiếm lời trên thị trường. Nhưng không một ai ngoại trừ Volvo là người thành công trong việc đưa từ này vào tâm trí khách hàng.


Câu chuyện về Atari là một minh chứng cho sự nhọc công khi hãng toan tính tham gia vào việc sản xuất máy vi tính cá nhân dùng tại nhà (home computer). Để chống đối lại những đối thủ đã chuẩn bị và phòng thủ vững chắc, hành động thay đổi tên gọi “game computer” có thể khả dĩ chấp nhận được vì có lợi thế ở chỗ đã được mọi người nhận thức là Atari đã sáng tạo ra trò chơi điện tử (computer games), nhưng chỉ có vậy thôi. Thị trường máy vi tính dùng tại nhà (home computer) đã thuộc về Apple, Commodore và các hãng khác.
Mặc cho những thất bại thảm hại đã được kể ra, nhiều công ty tiếp tục vi phạm luật độc quyền. Bạn không thể nào thay đổi được ý nghĩ của người ta một khi nó đã hình thành. Bạn chỉ làm cho vị trí của đối thủ được vững chắc hơn mà thôi.
Federal Express đã bỏ từ “overnight” và cố gắng lấy từ “worldwide” (toàn thế giới) của DHL. “Overnight Letter” đã được in trên bao bì của Federal Express trước đây, nay bạn lại thấy in các từ “FedEx Letter” thay vào chỗ đó. Quảng cáo của hãng trước đây là câu: “Chắc chắn phải tới nơi trong một đêm (overnight)” thì mới đây, từ “worldwide” đã xuất hiện trên quảng cáo của Federal Express thay vào chỗ đó.
Sự kiện này đặt ra câu hỏi quan trọng: Federal Express đã từng làm chủ từ “worldwide” chưa? Có thể nói là không bao giờ. Một ai đó đã làm chủ từ này mất rồi, đó là DHL Worldwide Express. Khái niệm của họ là “Nhanh hơn nữa trên thế giới”. Để thành công, Federal Express phải tìm cách thu hẹp trọng tâm để chống lại DHL. Công ty đã không thể làm được bằng cách cố gắng làm chủ một từ vốn thuộc về DHL trong tâm trí khách hàng.
Lại một ví dụ khác về sự cống gắng nhắm đến việc làm chủ từ ngữ đã thuộc về người khác. Hãng pin Energizer đã cố gắng lấy khái niệm “long-lasting” (bền lâu) của pin Duracell. Mặc cho những cố gắng của hãng Eveready, Duracell vẫn sẽ nắm chắc từ “long-lasting”. Hãng Duracell đã đi trước vào tâm trí khách hàng bằng từ “long-lasting”. Ngay cả phần tên “Dura” cũng đã nói lên được sự lâu bền.
Cái được gọi là “công cuộc nghiên cứu” trở thành cái bẫy dẫn đến sự sai lầm của các nhà tiếp thị.
Một đạo quân những nhà nghiên cứu được tuyển dụng, các nhóm nghiên cứu về trọng tâm được chỉ đạo, các bản thăm dò ý kiến khách hàng (bản câu hỏi in sẵn) được lập ra, và một bản báo cáo nặng 2 kilogam gồm một bản kê khai các ước muốn về sản phẩm và dịch vụ được gán cho là của người tiêu dùng.
Nếu đó thật sự là những gì khách hàng muốn thì mình phải đưa cho họ.
Vấn đề lớn nhất mà người tiêu dùng thường gặp phải khi sử dụng pin là gì? Nó không còn dùng được vào những lúc cần thiết nhất. Vậy người ta đòi hỏi điều gì ở loại pin số một? Lẽ dĩ nhiên là sự lâu bền, đó là cái mà mình phải quảng cáo. Đúng không? Đáng tiếc, không đúng như vậy.
Sự kiện mà các nhà nghiên cứu chẳng bao giờ cho bạn biết là đã có một công ty khác làm chủ ý tưởng đó rồi. Các nhà nghiên cứu này chỉ muốn khuyến khích khách hàng của họ (tức là bạn) gia tăng số lượng các chương trình tiếp thị. Lý thuyết cho rằng nếu bạn chi đủ tiền, bạn sẽ làm chủ ý tưởng. Đúng không? Sai.
Cách đây ít năm, hãng Burger King đã tuột dốc và chẳng bao giờ hồi phục lại được nữa. Một bản nghiên cứu về thị trường cho biết rằng: góp phần nhiều nhất vào kỹ nghệ thức ăn nhanh (fast food) là từ “fast” (nhanh). Không có gì đáng ngạc nhiên cả. Vì vậy, Burger King đã làm điều mà hầu hết các nhà tiếp thị có tiếng tăm đã làm, họ tìm tới văn phòng quảng cáo và nói: “Nếu thế giới muốn nhanh, quảng cáo của chúng tôi phải nói với họ rằng chúng tôi nhanh”.
Cái mà các nhà nghiên cứu đã bỏ qua là McDonald’s đã được nhận thức là hãng bán hamburger (bánh kẹp thịt) nhanh nhất nước Mỹ. Từ “fast” đã thuộc về McDonald’s. Không nản lòng về việc này, Burger King đã phát động chiến dịch của họ với khẩu hiệu “Thức ăn ngon nhất trong thời gian ngắn” (Best food for fast times). Chương trình nhanh chóng trở thành một thảm họa. Văn phòng quảng cáo, ban giám đốc bị sa thải, công ty phải bán đi và sự xuống dốc vẫn tồn tại.


tải về 349.69 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương