41
Biểu đồ 3.1: Đánh giá chung khó khăn tâm lý của học sinh trong ĐHNN
Qua biểu đồ trên cho thấy, nhìn chung học sinh THPT huyện Trực
Ninh, tỉnh Nam Định có khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp ở
mức độ 3: Tương đối khó khăn với ĐTB là 2.83. Xét cụ thể ở KKTL biểu
hiện trên ba mặt: Nhận thức, thái độ, hành vi thấy rằng không có sự khác biệt
về mức độ, mức điểm trung bình đều thuộc mức độ 3: tương đối khó khăn.
Với khó khăn ở mặt thái độ có ĐTB thấp nhất là 2.78, sau đó đến KKTL biểu
hiện về nhận thức là 2.82 và biểu hiện KKTL cao nhất ở mặt hành vi với ĐTB
=2.88. Như vậy, học sinh gặp khó khăn ở cả nhận thức, thái độ, hành vi, trong
đó khó khăn ở khía cạnh hành vi thể hiện rõ nhất.
- Sự khác biệt về khó khăn tâm lý ở các nhóm học sinh khác nhau gặp
phải trong định hướng nghề nghiệp
Bảng 3.1: Sự khác biệt về KKTL trong định hướng nghề nghiệp
của học sinh
Hệ số khác biệt (P)
Giới tính
Khối lớp
Nam
Nữ
Lớp10 Lớp 11 Lớp 12
Khó khăn tâm lý về nhận thức
0.000
0.000
Khó khăn tâm lý về thái độ
0.031
0.008
Khó khăn tâm lý về hành vi
0.949
0.000
Khó khăn tâm lý
chung
0.445
0.000
2.82
2.78
2.88
2.83
2.72
2.74
2.76
2.78
2.8
2.82
2.84
2.86
2.88
2.9
Nhận thức
Thái độ
Hành vi
ĐTB KKTL
42
Nhìn vào kết quả của bảng trên ta thấy xét theo tiêu chí giới tính đã có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nhận thức và thái độ giữa học sinh nam và
học sinh nữ trong định hướng nghề nghiệp, với hệ số P<0.05. Còn về hành vi
giữa học sinh nam và học sinh nữ trong ĐHNN thì không có sự khác biệt. Xét
khó khăn tâm lý chung giữa học sinh nam và học sinh nữ trong ĐHNN thì
cũng không nhận thấy sự khác biệt với hệ số P>0.05
Xét theo tiêu chí khối lớp nhận thấy. Ở tất cả các khối lớp (lớp 10, lớp
11, lớp 12) đều có sự khác biệt về các mặt nhận thức, thái độ và hành vi, với
hệ số P <0.05. Ngoài ra, khi xét khó khăn tâm lý chung cũng nhận thấy sự
khác biệt với hệ số P<0.05. Điều đó được lý giải như sau: Đối với học sinh
khối 10, các em mới bước vào mái trường THPT, các em mới chỉ nghĩ là việc
học thế nào cho tốt chứ chưa nghĩ đến việc định hướng nghề nghiệp cho bản
thân. Vì thế, các em chưa nhận thức được rõ khó khăn về vấn đề này so với
khối 11 và 12. HS lớp 11 đã phải ý thức về việc lựa chọn nghề nghiệp tương
lai. Các em thể hiện rõ sự quan tâm của cá nhân với việc chọn trường, chọn
ngành sau khi tốt nghiệp phổ thông. Các em đưa ra những dự định cho mình,
nếu mình theo khối A thì nên chọn thi ngành gì? trường gì? Chính vì vậy, HS
khối 11 có nhiều áp lực hơn, điều đó đã gây ra nhiều khó khăn cho các em
trong việc định hướng nghề nghiệp. Còn ở khối 12, các em đã có sự định
hướng nghề nghiệp tốt cho mình từ khối 11 thì vấn đề khó khăn sẽ giảm đi
cũng là điều dễ hiểu.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: