5.3.2 KHỬ ALĐEHYT VÀ XÊTÔN:
5.3.2.1. Khử thành alcol:
Alđêhyt và xêtôn nói chung dễ bị khử thành alcol bậc một và bậc hai. Các chất khử có thể là: natri trong rượu, hyđrô trên niken Ranây, hyđrua litinhôm, hyđrua natribo…
Khử bằng LiAlH4 và NaBH4:
Về thực chất các phản ứng này là phản ứng cộng nucleophin vào nhóm cacbônyl:
Các hyđrua kim loại như LiAlH4 thường không khử liên kết bội cacbon – cacbon vì thế chúng có thể khử chọn lọc nhóm C = O của hợp chất cacbônyl chưa no.
Thí dụ:
Tuy vậy ở điều kiện nhiệt độ phòng phản ứng khử trên tạo ra alcol no C6H5CH2CH2CH2OH.
Dùng NaBH4 làm chất khử có ưu điểm là tính chọn lựa cao và có thể thực hiện phản ứng trong môi trường nước. NaBH4 không khử các nhóm C = C, COOH, COOR…9về tính khử chọn lựa, xem bảng XV-3)
b. Khử bằng izôproopylat nhôm:
Một số alcolat kim loại, đặc biệt là izôprôpylat nhôm có khã năng khử alđêhyt và xêtôn thành alcol tương ứng theo một quá trình thuận nghịch.
Qúa trình thuận, dùng để khử hợp chất cacbôny, được gọi là phản ứng Mecvai-Pondoo-Veclây, còn quá trình nghịch, dùng để ôxy hoá alcol, được gọi là phản ứng Openaoơ.
Bản chất của các phản ứng trên là quá trình chuyển dịch ion hyđrua từ alcolat nhôm sang nhôm cacbônyl qua một trạng thái chuyển tiếp vòng:
Dẫn chứng về sự chuyển dịch ion hyđrua là khi dùng izôprôpylat nhôm có chứa - đơteri RR’CDOH.
Khi khử bằng izôprôpylat nhôm người ta chưng cất cho axêtôn thoát ra khỏi môi trường phản ứng và cân bằng về bên phải. Trái lại khi muốn ôxy hoá alcol người ta dùng dư axêtôn và dùng t-butylat nhôm làm xúc tác, vì chất này không còn - hyđrô để có thể khử axêtôn mà chỉ có thể chuyển alcol cần oxy hoá thành alcolat tương ứng.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |