Giáo Phái Nusayris Thực tế – Lịch sử Tín ngưỡng


Những nơi giáo phái Nusayris lan truyền và nhân rộng



tải về 394.64 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu12.09.2017
Kích394.64 Kb.
#33155
1   2   3   4

Những nơi giáo phái Nusayris lan truyền và nhân rộng

Những người Nusayris sống ở khu vực dãy núi tại Latakia, Syria, và sau này họ lan truyền đến các thành phố lân cận với họ. Một số người Nusayris sống tại miền nam của Thổ Nhĩ Kỳ, các vùng phía Bắc của Li-Băng, Ba Tư, và Turkistan.

Và họ có những cái tên địa phương được biết ở những nơi họ cư trú, tại phía tây Anatolia họ được biết với cái tên (Attakhtajiyah, Al-Hata-bun), và ở phía đông của Anatolia thì họ được biết với cái tên (Al-Qazlibashiyah), và tên (Al-Ali Ila-hiyah) thì ở Ba Tư, Turkistan và Kurdistan.

Giáo phái Nusayris bây giờ lan rộng trên khắp đất nước Syria, các thị tộc Nusayris ở Syria phân thành bốn nhóm:

1- Al-Khiyatun: Nhóm này được lấy theo tên của một người tổ tiên của họ là Ali Al-Khiyat, nhóm này sống tại (Segrb) cùng với dòng họ Abamth, Almkhalash, Alagaforh và Lamamra.

2- Al-Hida-dun: Họ là dòng họ của thủ lĩnh Hasan bin Al-Makzun Al-Sinjari, cùng với họ là dòng họ Al-Muhalabah, con cháu của Ali, dòng họ Al-Yashutiyah, dòng họ Al-Atawiyah và dòng họ Al-Muthlabah.

3- Al-Muthawarah: Nhóm này được gọi theo một ngôi làng có tên Muthawar ở huyện Jabalah, cùng với họ là Al-Jawahirah, Assawaramah, Al-Milatiyah, Addara-siyah, Al-Basha-riyah, Al-Arajinah, và Al-Muhazdarah.

4- Al-Kalbiyah: Họ sống tại Qirdahh cùng với Annawasir, Al-Qarasilah, Al-Jaliqiyah, Arrashawinah, Asshalahimah, Arrasalinah, Al-Jawiyah, Baytu Muhammad và Addarawiyah.

Còn về số lượng người Nusayris thì có lời cho rằng nó lên đến con số 160 ngàn người, nhưng dường như đây là số liệu cũ, còn theo thống kê sau này thì số lượng của họ ước tính khoảng hơn một triệu được thông kê vào năm 1979 tây lịch.



Giáo phái Nusayris phân chia thành các nhóm phái khác nhau, điều này không đáng ngạc nhiên, sự đoàn kết thường là trên điều chân lý và được hướng dẫn còn giáo phải Nusayris không phải như thế. Quả thật, họ đã chia rẽ và phân biệt giữa giáo phái của họ.

Các nhóm phái quan trọng của giáo phái Nusayris:

1- Nhóm phái Ash-Shimaliyah hoặc Ash-Shamsiyah (Mặt trời): Họ sống tại các bờ biển của Latakia (thành phố cảng miền tây bắc Syria), họ chừa râu và không cho phép cạo, họ cũng tin giống như những nhóm phái Nusayris khác rằng Ali là Thượng Đế, rằng Ali là Thượng Đế duy nhất trên trời, họ chỉ khác những nhóm phái khác ở chỗ là họ cho rằng: Quả thật, Ali lấy mặt trời làm nơi cư ngụ và Muhammad là hiện thân của mặt trời.

Bởi lẽ đó, họ đã hướng đến mặt trời trong sự thờ phượng của họ, họ cho rằng Ali ở trong đó, tới đây chúng ta đã hiểu tại sao họ lại thờ mặt trời, cũng chính vì điều này họ được gọi là Ash-Shama-liyah và Ash-Shamsiyah.

Và họ cũng tin rằng các tinh tú, các vì sao là nơi của những người có đức tin và những người ngoan đạo thuộc con cháu của giáo phái Nusayris, cũng chính vì thế nên họ tôn vinh chúng; và họ đã gán cho Ali là thủ lĩnh mật ong.

2- Nhóm phái Al-Kala-ziyah hoặc Al-Qamariyah (Mặt trăng): Đây là nhóm lấy tên theo tên của ông Muhammad bin Al-Kala-zi, những người này sống trên núi và họ cạo sạch râu của họ, họ không chừa râu dù bất cứ trường hợp nào, họ tin rằng Ali là Thượng Đế, họ nói rằng sau khi Ali cởi lớp áo con người thì Ali đã bay lên mặt trăng, và mặt trăng chính là Salman, và Ali ngụ trên đó, Ali là phần tối của mặt trăng. Chính vì thế, họ rất tôn vinh mặt trăng và thờ phượng Ali qua mặt trăng. Do đó, họ được biết đến là nhóm phái thờ mặt trăng.

3- Nhóm phái Al-Hidariyah: Dường như tên này là đến từ biệt danh Hidarah có nghĩa là con sư tử, đó là biệt danh của Ali bởi sự gan dạ và dũng mãnh của người.

Nhóm phái này sống ở Latakia, là một đảng tôn giáo nổi lên từ một số các gia tộc hàng đầu ở tỉnh Latakia. Nhóm phái này tin rằng Muhammad là mặt trời còn Salman Al-Farisi là mặt trăng.



4- Nhóm phái Al-Ghaibiyah: Họ tin rằng Allah xuất hiện và ẩn mình, hoặc Ngài lộ diện và vô hình, thời gian hiện tại là thời gian của sự ẩn mình và vô hình. Họ cho rằng Allah, Đấng Tối Cao có mặt khắp mọi nơi nhưng không một ai nhìn thấy Ngài. Như vậy, Thượng Đế đối với họ chính là không khí.

Chính vì lẽ này, nhóm người này khi họ đọc Kinh sách Al-Majmu’a, đến cụm từ: (يَا عَلِي بِن أَبِي طَالِب أَنْتَ هُوَ) có nghĩa là (Ôi hỡi Ali bin Abu Talib, người chính là ngài) thì họ lại đọc bóp méo hai từ (أَنْتَ هُوَ) (người chính là ngài) thành (أَنْتَ الهَواءُ) có nghĩa là (ngài chính là không khí).



  • Sự thù ghét của giáo phái Nusayris đối với những người Muslim(87)

Giáo phái Nusayris là một giáo phái bí ẩn tà đạo và kinh tởm mọc lên trong xứ sở của người Muslim, mục đích rõ nét nhất của họ là nhằm bóp méo xuyên tạc giáo lý Islam, họ muốn hủy hoại và làm suy yếu tôn giáo Islam.

Chính vì mục đích đó nên chúng ta thấy họ luôn đứng về phía tất cả kẻ thù của người Muslim trong thời xưa và thời nay, tiêu biểu như họ đứng về phía Thập tự chinh(88), Tatar(89), Vương triều Safavid, Pháp và Zionists(90). Quả thật, giáo phái Nusayris, trong suốt quá trình của thập tự chinh tấn công thế giới Islam, đã ủng hộ và tiếp tay những người của thập tự chinh tàn sát người Muslim, và khi những người của thập tự chinh này chế ngự được một số quốc gia Islam thì giáo phái Nusayris đã xích lại gần họ và quan hệ hữu nghị với họ. Và khi người Muslim đánh đuổi được quân Thập tự chinh thì những người của giáo phái Nusayris đã bám lấy họ và bày mưu tính kế phá hại người Muslim.

Và khi người Tatar đột kích xứ Sham, những người Nusayris đã có sự tiếp tay trong sự việc đó, làm cho quân Tatar tăng thêm sức mạnh tiêu diệt người Muslim, quả thật những người Nusayris đã xúi giục Taimuor Lank, lãnh đạo của Tatar xâm lược Damascus.

Cũng như thế, những người Nusayris đã đứng về phía Vương triều Safavid chống lại với đế quốc Othman, họ đã ủng hộ và trợ giúp vương triều Safavid vì muốn quan hệ tôn giáo, tư tưởng và vật chất.

Và sau khi thế giới Ả Rập không thể thiếu trong thế kỷ 20 bởi thực dân thì những thực dân này đã tìm đến giáo phái Nusayris, và giáo phái Nusayris trở thành kỳ vọng lớn nhất trong các thành phần thuộc địa của họ, giáo phái Nusayris trở thành tay sai trung thành cho sứ mạng của thực dân Pháp.

Còn việc giáo phái Nusayris đứng về phía Zionists thì quá rõ ràng, họ đã nhượng bộ tối đa và phục tùng theo Zionists.

Và điều chứng minh cho sự việc đó là họ đã dâng Golan Heights (vùng cao nguyên giữa miền đông bắc Israel và miền tây nam Syria) cho những người Do thái năm 1967 tây lịch một cách vô điều kiện.

Nếu những người Muslim có quên một điều gì đó từ sự tàn ác của những người Nusayris thì cũng đừng bao giờ quên cuộc thảm sát kinh hoàng mà những người Nusayris đã thực hiện tại thành phố Hama (thành phổ cổ phía tây trung tâm Syria). Họ đã giết chết hàng ngàn người Muslim, họ tàn phá và giết chóc biến vùng đất Hama thành một biển máu, một kết quả tàn ác vô nhân đạo từ cuộc tàn sát thảm khốc của giáo phái Nusayris đối với người Muslim.



  • Giới luật Islam về giáo phái Nusayris

Sau một cuộc hành trình tìm hiểu về tín ngưỡng và giáo lý của giáo phái Nusayris đã cho chúng ta thấy rằng nhóm người này thật xa vời với tôn giáo Islam.

Giáo phái Nusayris cho rằng Ali là Thượng Đế, họ nói bằng sự suy luận huyền bí và kêu gọi đến với giáo lý tà đạo, họ thêm và bổ sung vào giáo lý đó những điều không chân lý, họ tin rằng có sự luân hồi và chuyển kiếp, họ phủ nhận sự phục sinh và sự phán xét thưởng phạt; họ hủy bỏ trụ cột đó của đức tin Iman, và họ đã cho phép làm những điều Haram như uống rượu và Zina.

Và tất cả giáo lý của họ đều đi ngược lại với Islam, nằm ngoài Islam, giáo lý của họ phủ nhận tôn giáo Islam và xỉ nhục, bôi bác các bổn phận của Islam(91).

Và từ đây đã làm rõ cho chúng ta rằng giáo phái Nusayris không có bất cứ một mối quan hệ gì với Islam cả, nó là một tôn giáo hoàn toàn xa vời với tôn giáo Islam.

Sheikh Islam Ibnu Taymiyah  đã đứng lên chống lại nhóm phái này bằng chiếc lưỡi của mình khi biết về sự thật của họ.

Và quả thật, khi được hỏi về những người này thì ông đã trả lời với một sự trả lời khá dài:

“Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng lên Allah, Đấng Chủ tể của vũ trụ và muôn loài, những người này, những người được gọi là giáo phái Nusayris cũng như những thành phần Qaramitah là những người Kafir hơn cả Do thái và Thiên Chúa giáo, không những thế, sự Kufr của họ còn hơn cả những người thờ đa thần, và sự gây hại của họ đối với các tín đồ của Muhammad còn lớn hơn sự gây hại của những người Kafir chống lại Islam như những kẻ Kafir Tatar và Frank(92) và những nhóm khác. Quả thật, những người này biểu hiện trước những người Muslim thiếu hiểu biết qua diện mạo của Shi’ah, của những người Ahli Albait, nhưng thực chất họ không phải là những người có đức tin nơi Allah và Thiên sứ của Ngài, họ không có đức tin nơi Kinh sách Ngài, nơi mệnh lệnh của Ngài, nơi sự nghiêm cấm của Ngài, họ không tin vào sự ban thưởng và trừng phạt của Ngài, họ không tin vào Thiên Đàng và Họa Ngục, và họ cũng không tin bất cứ một ai từ các vị Thiên sứ trước Muhammad”.

Họ không tin một nhóm phái Salaf nào cả, họ lấy lời phán của Allah và lời nói của Thiên sứ mà những học giả Muslim hiểu rõ để suy diễn thành những điều phỉ báng và bôi nhọ.

Sheikh Islam  nói: Theo những gì chúng tôi biết rằng các bãi biển của Sham quả thật đã bị cai trị bởi Thiên Chúa Giáo và họ luôn ở cùng với mọi kẻ thù của người Muslim ... Còn những đồ đựng thức ăn, thức uống (chén, bát, ly, tách, ..) và quần áo của họ thì hoàn toàn giống với những đồ đựng thức ăn đồ uống của người theo Majus (thờ lửa), và theo những gì được khẳng định từ các trường phái của các vị Imam rằng những đồ đựng thức ăn đồ uống của họ thì chúng ta không được dùng trừ phi đã rửa sạch, và những con vật mà họ giết thịt được coi là xác chết, bởi thế, những đồ đựng thức ăn đồ uống đã được sử dụng của họ không tránh khỏi việc họ đã dùng để nấu ăn từ những con vật giết thịt của họ cho nên nó phải là Najis.

Sheikh Islam  cũng nói thêm về họ: Không được phép chôn cất họ trong khu chôn cất của người Muslim, và không được dâng lễ nguyện Salah cho bất cứ ai trong số họ khi y chết, bởi quả thật Allah, Đấng Tối Cao đã cấm vị Nabi của Ngài dâng lễ nguyện Salah cho những người Munafiq (giả tạo đức tin) như Abdullah bin Ubai và những người tương tự, những người Munafiq chỉ giả vờ dâng lễ nguyện Salah, nhịn chay, Jihad cùng với người Muslim, họ giả vờ không buông lời trái nghịch với tôn giáo Islam nhưng thực chất họ bí mật làm ngược lại tất cả những điều đó. Allah, Đấng Tối Cao phán:



﴿ وَلَا تُصَلِّ عَلَىٰٓ أَحَدٖ مِّنۡهُم مَّاتَ أَبَدٗا وَلَا تَقُمۡ عَلَىٰ قَبۡرِهِۦٓۖ إِنَّهُمۡ كَفَرُواْ بِٱللَّهِ وَرَسُولِهِۦ وَمَاتُواْ وَهُمۡ فَٰسِقُونَ ٨٤ ﴾ [سورة التوبة: 84]

{Và chớ bao giờ dâng lễ nguyện Salah cho bất cứ người nào chết đi trong bọn chúng và chớ đứng gần ngôi mộ của hắn. Quả thật, chúng đã phủ nhận Allah và Sứ Giả của Ngài và chúng chết trong tình trạng phản nghịch.} (Chương 9 – Attawbah, câu 84).

Đó là đối với người Munafiq thì sẽ như thế nào đối với những kẻ vô đức tin, giả tạo đạo đức và công khai sự vô đức tin.

Còn việc tuyển dụng họ để làm quân binh cho người Muslim hay chắn giữ vùng biên giới người Muslim hay tuyển dụng họ bảo vệ người Muslim là một trong các đại trọng tội, việc này giống như dùng sói để giữ đàn cừu, bởi họ là những người gian trá nhất trong nhân loại đối với người Muslim, họ là những người luôn nỗ lực cố gắng hủy hoại đất nước của người Muslim, họ là những người luôn tìm cách ủng hộ kẻ thù của người Muslim. Do đó, những người cầm quyền những người Muslim phải trục xuất họ ra khỏi đoàn quân chiến đấu của người Muslim, không để họ tham gia chấn giữ biên cương mà phải tìm những người bám lấy tôn giáo Islam thay thế họ. Và quả thật, người lãnh đạo không dùng bất cứ ai là kẻ gian trá dù đó là người Muslim thì làm sao y có thể tin dùng những kẻ hoàn toàn gian trá với người Muslim?

Và không được trì hoãn trách nhiệm này nếu như nhà lãnh đạo có khả năng, mà bất cứ khi nào y có khả năng tìm người thay họ thì bắt buộc phải làm ngay.(93)

d / f




1() Tôi đã viết những trang này cấch đây hai mươi năm, rồi sau đó tôi soạn thành sách với nhan đề (Các bức thông điệp về các tín ngưỡng, các trường phái) vào năm 1426 hijri. Sau đó, tôi cho in ấn với ấn bản thứ hai vào năm 1430 hijri. Và sau những biến cố xảy ra ở Syria, hệ thống giáo lý của nhóm phái Nusayris bắt đâu trỗi dậy với những tội ác khác nhau, đã có nhiều câu hỏi và thắc mắc về nhóm phái này, thế là tôi biên soạn về nhóm phái này thành một cuốn sách riêng biệt thế này.

2() Hệ Shi’ah dòng mười hai Imam còn được gọi là Rafidah, Ima-miyah hoặc Ja’fariyah. Đây là dòng Shi’ah lớn nhất trong hệ Shi’ah, thông thường khi nói đến hệ Shi’ah chung chung thì người ta thường nghĩ ngay đến dòng mười hai Imam này bởi vì nó là dòng chủ đạo, các dòng khác đều đi theo nó. Dòng này được gọi là dòng mười hai Imam bởi vì họ cho rằng Nabi e đã khẳng định sau Người sẽ có mươi hai vị Imam kế thừa sứ mạng của Người.

3() Xem (Các cử động bí ẩn trong thế giới Islam, các tín ngưỡng của chúng, và luật Islam về chúng) của tiến sĩ Muhammad Ahmad Al-Khateeb trang 321, và (Giáo phái Nusayris) của tiến sĩ Saheer Al-Feel trang 16 – 20.

4() Xem (Các cử động bí ẩn trong thế giới Islam, các tín ngưỡng của chúng, và luật Islam về chúng) của tiến sĩ Muhammad Ahmad Al-Khateeb trang 321, và (Giáo phái Nusayris) của tiến sĩ Saheer Al-Feel trang 16 – 20.

5() Xem (Các cử động bí ẩn trong thế giới Islam, các tín ngưỡng của chúng, và luật Islam về chúng) của tiến sĩ Muhammad Ahmad Al-Khateeb trang 321, và (Giáo phái Nusayris) của tiến sĩ Saheer Al-Feel trang 16 – 20.

6() Xem “Giáo phái Nusayris” trang 17 và trang 48 – 58.

7() Xem “Giáo phái Nusayris” trang 18 – 19.

8() Xem “Giáo phái Nusayris” trang 17.

9() Xem “Lịch sử các trường phái Islam” của Abu Zahrah trang 638, và xem “Giáo phái Nusayris” trang 17.

10() Xem “Minhaj Assunnah” 4/87 và 1/113-114, và “Mas-alah Attaqrib bayna Ahli Assunnah Wash-Shi’ah” của tiến sĩ Nasir Al-Qafa-ri 1/350.

11() Mas-alah Attaqrib 1/350.

12() Mas-alah Attaqrib 1/350-351.

13() “Ash-Shi’ah Wattashayyu’a” của Sheikh Ihsan Ila-hi Zhahir tang 351 – 352, và xem “Ath-thawrah Al-Ira-niyah Fi Mi-zan Al-Islam” của Sheikh Mansur Nu’ma-ni trang 146 – 147.

14() Xem “Mas-alah Attaqrib” 1/254.

15() Xem “Mas-alah Attaqrib” 1/354.


16() “Alharakat Al-Batiniyah” tạm dịch “Các cử động huyền bí” trang 350.

17() “Alharakat Al-Batiniyah” trang 324.

18() Xem Bách Khoa Toàn Thư Hiệp Hội Thanh Niên Quốc Tế trang 511-512, và xem “Harakat Alghulu Wattarruq Fi Al-Islam” tạm dịch là “Các phong trào cực đoan trong Islam” của Ahmad Ash-Shazdali trang 89-91, và “Giáo phái Nusayris” của tiến sĩ Saheer Al-Fil trang 22-29.

19() “Al-Harakat Al-Batiniyah” tạm dịch “Các phong trào huyền bí” trang 341.

20() “Nghiên cứu về các nhóm phái” của tiến sĩ Sabir Ta’i-mah trang 42.

21() “Al-Mujiz Fi Al-Adyan Wal-Mazda-hab Al-Mu’asirah” tạm dịch “Tóm lược các tôn giáo và các trường phái đương đại”của tiến sĩ Nasir Al’Aql và tiến sĩ Nasir Al-Qafa-ri trang 138.

22() “Al-Harakat Al-Batiniyah” tạm dịch “Các phong trào huyền bí” trang 321.

23() “Nghiên cứu về các nhóm phái” của tiến sĩ Sabir Ta’i-mah trang 42.

24() “Al-Harakat Al-Batiniyah” tạm dịch “Các phong trào huyền bí” trang 347.

25() Giáo phái Nusayris của Saheer Al-Fil trang 76.

26() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 355.

27() “Nghiên cứu về các nhóm phái” của tiến sĩ Sabir Ta’i-mah trang 14.


28() Giáo phái Nusayris trang 77 – 79.

29() Xem “Giáo phái Nusayris” trang 77-79.

30() Lưu ý: Những gì được nói trong “Al-Bakurah Assulayma-niyah” có những lỗi văn phạm, ngôn từ cũng như cách diễn đạt, đó là tính theo những gì vốn có trong cuốn sách, do nhà xuất bản Darul-Sahwah – Cairo ấn bản lần đầu năm 1410 hijir tức 1990 tây lịch.

31() Xem Alba-kurah Assulayma-niyah trang 96

32() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 364.

33() “Giáo phái Nusayris” trang 110 – 111.

34() “Giáo phái Nusayris” trang 110 – 111.

35() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 365.

36() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 54.

37() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 365.

38() Xem “Giáo phái Nusayris” trang 119.

39() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 369.

40() Xem “Giáo phái Nusayris” trang 108.

41() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 370.

42() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 370.

43() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 370.

44() Xem “Giáo phái Nusayris” trang 118.

45() Xem “Giáo phái Nusayris” trang 118.

46() “Nghiên cứu về các nhóm phái” của Sabir Ta’i-mah trang 45 và “Naqlan An Subhil-A’Shi” của Al-Qalshandi 13/50.

47() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 370 - 371.

48() Albakurah Assulayma-niyah trang 108.

49() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 371.

50() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 371.

51() Albakurah Assulayma-niyah trang 97.

52() Albakurah Assulayma-niyah trang 109 - 110.

53() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 349.

54() Giáo phái Nusayris trang 87.

55() Giáo phái Nusayris trang 87 – 89.

56() Giáo phái Nusayris trang 87 – 89.

57() Giáo phái Nusayris trang 89.

58() Giáo phái Nusayris trang 89.

59() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 34 – 35.

60() Giáo phái Nusayris của tiến sĩ Saheer Al-Fil trang 91.

61() Giáo phái Nusayris của tiến sĩ Saheer Al-Fil trang 91.

62() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 392 - 393

63() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 392 - 393

64() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 375

65() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 98.

66()Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 98.

67() Xem “Các nghiên cứu về các nhóm phái” của tiến sĩ Sabir Ta’i-mi trang 46 – 49.


68() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 410

69() Xem “Các nghiên cứu về các nhóm phái” của tiến sĩ Sabir Ta’i-mi trang 49 – 51.

70() Xem lời của Ibu Taymiyah về Hadith Ghadir theo chương trình giảng dạy Sunnah quyển 7 trang 313, Imamah fi Dhaw Assunnah Inda Al-Jafariyah của tiến sĩ Ali Assa-lun, Phái Shi’ah qua các sách của những người phái Sunnah.

71() Xem “Manhaj Assunnah” trang 318 quyển 7, “Nghiên cứu các nhóm phái” trang 49 – 51, “Adwa Ala Dira-sah Assirah” của Saleh Assha-mi trang 109.

72() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 412 – 415.

73() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 415.

74() “Al-Harakat Al-Batiniyah” trang 349.


75() Albakurah Assulayma-niyah trang 48 – 49.

76() Albakurah Assulayma-niyah trang 49 – 52.

77() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 51 – 52.

78() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 18.

79() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 22.

80() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 28 - 30.



81() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 39.

82() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 49.

83() Xem Al-Harakat Albatiniyah trang 373 – 380.

84() Al-Harakat Al-Batiniyah trang 384, trích dẫn từ những lời nói và những nhóm phái của Sa’ad Al-Qami trang 100 – 101.

85() Al-Haraka Al-Batiniyah trang 369.

86() Al-Bakurah Assulayma-niyah trang 13 – 18.

87() Xem Al-Harakat Al-Batiniyah trang 326 – 335, và xem Giáo phái Nusayris trang 29 – 36, và xem Nhóm phái Nusayris – Lịch sử và tín ngưỡng của tiến sĩ Sulayman Al-Halabi trang 106 -109.

88() Cuộc chiến tàn sát của các tín đồ Công giáo ở châu Âu thời trung cổ.

89() Người Tac-ta (dân tộc có nguồn gốc ở miền đông Trung Á, từng thiếp lập một đế quốc trải đài đến Nga, Ukraine và Serbia, rồi bắt tay với Mông Cổ và đến thế kỷ 16 thì bị Nga và đế quốc Othman tiêu diệt).

90() Những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái.

91() Al-Harakat Al-Batiniyah trang 471.

92() Người thuộc những dân tộc ở dọc thung lũng Rhine trước khi tiến sang phía tây thể kỷ thứ tư. Các dân tộc này chiếm được nhiều vùng ở Tây Âu, thôn tính xứ Gaul và làm chủ một vùng rộng lớn ứng vứng với miền Tây nước Đức ngày nay.

93() Fatawa tổng hợp 35/145 – 160.


Каталог: data
data -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
data -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
data -> Qcvn 81: 2014/bgtvt
data -> Trung taâm tin hoïC Ñhsp ñEÀ thi hoïc phaàn access
data -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
data -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
data -> Nghiên cứu một số đặc điểm
data -> NHỮng đÓng góp mới của luậN Án tiến sĩ CẤP ĐẠi học huế Họ và tên ncs : Nguyễn Văn Tuấn
data -> Mẫu 01/hc-sn-dn (Ban hành kèm theo Thông tư số 83/2007/tt-btc ngày 16/7/2007 của Bộ Tài chính) TỜ khai hiện trạng sử DỤng nhà, ĐẤt thuộc sở HỮu nhà NƯỚc và ĐỀ xuất phưƠng án xử LÝ

tải về 394.64 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương