Dự thảo Đơn vị tư vấn: Viện nc quản lý Kinh tế Trung ương Tháng 6 năm 2011PHẦN THỨ NHẤT ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ NHÂN LỰC CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương Bảng trên cho thấy tốc độ tăng trưởng ngành nông lâm thủy sản trong giai đoạn 2006-2010 đạt 2,2%, thấp hơn gần 2 điểm phần trăm so với giai đoạn 2001-2005. Ngành công nghiêp và xây dựng cũng có dấu hiệu tăng chậm lại, tuy nhiên ngành công nghiệp khai thác mỏ có tốc độ tăng đột biến từ 0,9% (2001-2005) lên 13,5% (2006-2010). 2. Thu chi ngân sách và đầu tư phát triểnThu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tăng khá, từ 2.407,6 tỷ đồng năm 2005 lên 4.005 tỷ đồng năm 2010, bình quân tăng 10,7%/năm, trong đó thu nội địa tăng 15,2%/năm (mục tiêu tăng 10%/năm). Chi ngân sách cơ bản đáp ứng cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi các chương trình mục tiêu, đảm bảo an sinh xã hội và các nhu cầu thiết yếu khác. Môi trường đầu tư của tỉnh tiếp tục được cải thiện, hoạt động xúc tiến đầu tư được đổi mới cả về nội dung và hình thức, cải cách thủ tục hành chính đạt kết quả bước đầu. Trong 5 năm, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn đạt 73.500 tỷ đồng (mục tiêu trên 40.000 tỷ đồng), tăng bình quân 24,7%/năm; trong đó vốn nhà nước chiếm 21,6% (tăng bình quân 15,9%/năm), vốn đầu tư từ khu vực dân doanh chiếm 57,2% (tăng bình quân 30,4%/năm), vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,2% (tăng bình quân 22,5%/năm). Trong tổng vốn đầu tư xã hội, tỷ trọng đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 7,8%, tăng bình quân 15,9%/năm; khu vực công nghiệp, giao thông, xây dựng 53,9%, tăng bình quân 26,1%/năm; khu vực dịch vụ 38,3%, tăng bình quân 24,3%/năm. 3. Thực trạng phát triển của các ngành và lĩnh vựcNgành nông, lâm, thủy sản phát triển tương đối ổn định, kinh tế nông thôn có bước chuyển dịch tích cực. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp trong các năm qua, nhưng sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối ổn định, giá trị sản xuất tăng bình quân 2,1%/năm (mục tiêu tăng 4,5%); trong đó: trồng trọt và chăn nuôi tăng bình quân 1,3%/năm (mục tiêu 3,6%/năm), lâm nghiệp tăng bình quân 3,3%/năm (mục tiêu 4,3%/năm), thuỷ sản tăng bình quân 11,9%/năm (mục tiêu 11-12%/năm). Công nghiệp và xây dựng phát triển theo hướng hiện đại; quy mô, năng lực sản xuất, sản phẩm một số ngành được nâng lên. Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 13,2%/năm (mục tiêu 20%/năm); trong đó công nghiệp tăng bình quân 13,9%/năm, quy mô sản xuất công nghiệp năm 2010 gấp gần hai lần so với năm 2005. Cơ cấu ngành công nghiệp theo thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng công nghiệp nhà nước, tăng tỷ trọng công nghiệp ngoài nhà nước và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp nhà nước - ngoài nhà nước - khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2005 là 41,2% - 20,9% - 37,9%, năm 2010 là 25,1% - 26,3% - 48,6%). Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đạt bình quân 13,9%/năm. Các ngành công nghiệp công nghệ cao và có lợi thế cạnh tranh tăng trưởng cao (bình quân 15,2%/năm); trong đó công nghiệp cơ khí, điện tử tăng 2 lần, sản lượng xi măng tăng hơn 2 lần, thức ăn chăn nuôi tăng 2,7 lần so với năm 2005. Toàn tỉnh có 18 khu công nghiệp, 34 cụm công nghiệp, trong đó nhiều khu công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy cao. Nhiều dự án mới có quy mô lớn, trình độ công nghệ tiên tiến đi vào hoạt động (trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), làm tăng năng lực và quy mô của một số ngành sản xuất mũi nhọn. Biểu 2. Cơ cấu GDP và cơ cấu lao động trên địa bàn tỉnh (GDP theo giá thực tế)
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương Dịch vụ phát triển khá nhanh, đáp ứng tốt hơn cho sản xuất và đời sống nhân dân. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 14,8%/năm (mục tiêu 13%/năm). Một số lĩnh vực tăng nhanh cả về quy mô và chất lượng như: xuất khẩu, bưu chính viễn thông, vận tải, tài chính, bảo hiểm… Nhìn chung, tại Hải Dương, chuyển dịch cơ cấu về lao động diễn ra chậm hơn so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế do đặc điểm về nhu cầu lao động và năng suất lao động của các ngành khác nhau. Tổng số lao động trong ngành nông nghiệp khá lớn mặc dù phần đóng góp của khu vực nông nghiệp trong tổng GDP là nhỏ. Điều đó cho thấy năng suất lao động của khu vực nông nghiệp là thấp hơn tương đối so với các khu vực khác. Trong thời gian 2001-2010, lực lượng lao động trong khu vực nông nghiệp đã giảm, tuy nhiên đây vẫn là một ngành thu hút tới gần 60% lực lượng lao động vào năm 2010. Tỷ lệ lao động làm trong các ngành công nghiệp và xây dựng trong cùng thời kỳ đã tăng từ 10,5% năm 2001 lên 27,2% năm 2010. Tỷ trọng lao động dịch vụ cũng tăng lên trong khoảng thời gian từ 2001-2010 từ 9,3% lên 18,2%.
Каталог: ktxh -> quyhoachvaptktxh -> documents documents -> Ủy ban nhân dân tỉnh hải dưƠng o0o quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh hải dưƠng giai đOẠN 2011- 2020 ktxh -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập -tự do Hạnh phúc ktxh -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập -tự do Hạnh phúc ktxh -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập -tự do Hạnh phúc ktxh -> Phần thứ nhất ktxh -> Các Loài Chim ktxh -> Cơ quan biên tập: Sở Thông tin và Truyền thông Nguồn: Địa chí Bắc Giang tải về 0.7 Mb. Chia sẻ với bạn bè của bạn: |