DỰ Án nguồn lợi ven biển vì SỰ phát triển bền vững báo cáO ĐÁnh giá XÃ HỘI



trang14/23
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích2 Mb.
#16829
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   23

VI. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

6.1. Kết luận


Các hộ đánh bắt ven bờ thường là các hộ nghèo, đa số là không có đất hoặc có ít đất sản xuất. Sinh kế chủ yếu của họ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên ven biển và mang lại thu nhập chủ yếu cho các hộ. Việc làm chính của hầu hết các thành viên có khả năng lao động đều dựa vào khai thác tài nguyên ven bờ, trong điều kiện nguồn lợi ngày càng cạn kiệt.

Những rủi ro của các hoạt động sinh kế hiện thời, biểu hiện tính dễ tổn thương của cộng đồng dân cư ven biển. Các rủi ro này bao gồm phải làm việc vất vả để đỡ bị suy giảm thu nhập, thiên tai ngày một nhiều làm giảm sút thời gian đi biển và an toàn tính mạng, sản lượng đánh bắt và thu nhập thực tế ngày một giảm, dịch bệnh trong NTTS gây thiệt hại nặng nề nhiều năm không khôi phục được, thiếu vốn trầm trọng, vòng xoáy nợ nần làm cho nhiều hộ không có khả năng chuyển đổi sinh kế hay trang bị ngư cụ mới để đánh bắt hiệu quả hơn, sự ổn định thu nhập kém, viễn cảnh kinh tế u ám, tỷ lệ hộ nghèo cao…

Những rủi ro của các hoạt động kinh tế biển hiện nay tại các địa bàn khảo sát chủ yếu xuất phát từ các nguồn lực sinh kế (vốn vật chất, vốn tài nguyên, vốn con người, vốn xã hội, vốn tài chính) thiếu thốn, yếu kém, suy giảm, việc tổ chức quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản chưa tốt, cũng như những tác động bất lợi của các yếu tố bên ngoài như thiên tai, thời tiết xấu, môi trường ô nhiễm, dịch bệnh, biến động giá cả thị trường như giá xăng dầu, thức ăn chăn nuôi, thuốc phòng trừ dịch bệnh tăng cao...

Những yếu kém về nguồn lực đem lại các rủi ro đó bao gồm:



  • Tàu thuyền cũ, công suất thấp, số lượng lớn, chủ yếu khai thác ven bờ, trong khi nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt, thu nhập hàng năm ngày càng suy giảm. Thiên tai, giá xăng dầu cao, nguồn lợi thủy sản cạn kiệt là những nguyên nhân chính làm cho thu nhập suy giảm. Điều đó cho thấy CRSD cần hỗ trợ các giải pháp vươn khơi, giảm thiểu đánh bắt ven bờ, chuyển đổi nghề có chọn lọc theo hướng hiệu quả và thân thiện với môi trường, cũng như các giải pháp sinh kế thay thế không dựa vào biển.

  • Xu huớng gia tăng dịch bệnh NTTS, ô nhiễm môi trường nước, khả năng tái tạo đầu tư NTTS thấp, thu nhập từ nghề này suy giảm. Điều đó cho thấy CRSD cần hỗ trợ các giải pháp tổng hợp nhằm giảm thiểu dịch bệnh, ô nhiễm môi trường nước hướng đến NTTS bền vững.

  • Cơ sở hạ tầng yếu kém, không phù hợp với NTTS làm gia tăng rủi ro cho NTTS.

  • Thiếu vốn trầm trọng, nợ nần chồng chất khó có khả năng chi trả, khả năng đầu tư mở rộng sản xuất hay chuyển đổi nghề gặp khó khăn. Tình trạng thiếu vốn trầm trọng và phổ biến –một nguồn lực quan trọng hàng đầu, cho thấy dự án CRSD cần phối hợp với các hoạt động ngân hàng mới có thể chuyển đổi sinh kế một cách bền vững.

  • Thiếu đất sản xuất là một khó khăn cho việc chuyển đổi nghề. Điều đó cho thấy cần tận dụng tối đa nguồn lực đất đai ở mọi vùng dự án như một tài nguyên khan hiếm thay thế cho nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt.

  • Lao động chưa qua đào tạo, trình độ học vấn thấp, thiếu kiến thức, chủ yếu sản xuất theo kinh nghiệm làm tăng khả năng rủi ro trong sản xuất, cũng như khó chuyển đổi nghề. Điều đó cho thấy đào tạo nghề, phổ cập giáo dục cần là một trong những hợp phần cơ bản của CRSD nhằm chuyển đổi sinh kế cho ngư dân vùng ven biển một cách bền vững.

  • Thiếu sự phối hợp, liên kết trong tổ chức sản xuất, các mô hình quản lý dựa vào cộng đồng, mô hình tổ đội sản xuất trên biển… chưa được triển khai trong thực tế làm tăng rủi ro trong khai thác, NTTS và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Thực hành đồng quản lý tài nguyên ven biển cần là một bộ phận hợp thành gắn liền với hợp phần sinh kế thay thế bền vững của CRSD.

  • Những rủi ro dẫn tới tình trạng việc làm không ổn định trở nên phổ biến. Điều đó cho thấy CRSD cần hỗ trợ các hoạt động tạo lập việc làm bền vững, không chỉ là các hoạt động sinh kế thay thế trước mắt, mà bao gồm cả các hoạt động tăng cường giáo dục thanh niên, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, giảm nghèo bền vững, liên kết các nhóm nghề trong những mô hình…Các hoạt động hỗ trợ của CRSD cần chú ý đặc biệt tới các nhóm yếu thế như nghèo, cận nghèo, lao động nữ, DTTS.

  • Các rủi ro về di cư, đào tạo không phù hợp nhu cầu thị trường,làm mất chi phí cơ hội … Vì thế, khi xác định di cư như một chiến lược tạo việc làm và giảm áp lực khai thác ven bờ, CRSD nên hỗ trợ những người di cư ven biển tìm kiếm việc làm bền vững, khắc phục và hạn chế những rủi ro mà họ có thể phải đối mặt. CRSD có thể và cần thiết hỗ trợ các hoạt động hướng nghiệp, đào tạo nghề sát nhu cầu thị trường, lựa chọn các cơ sở đào tạo có uy tín, cung cấp thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm cho giới trẻ.

CRSD cần hỗ trợ những giải pháp hạn chế rủi ro, tạo lập sinh kế thay thế bền vững, dựa trên việc khai thác tối ưu các nguồn lực hộ gia đình và cộng đồng, tận dụng mọi cơ hội thị trường và thể chế.

Những cơ hội phát triển các nguồn thu nhập và sinh kế thay thế:

Những cơ hội phát triển các nguồn thu nhập và sinh kế thay thế ở các khu vực dự án có thể khá rộng rãi như sự phát triển thị trường lao động tại các vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam, các khu công nghiệp, đô thị tại những tỉnh dự án, nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội của chính phủ và địa phương, có khả năng lồng ghép trên các địa bàn dự án, nhiều chính sách hỗ trợ việc làm, giảm nghèo, đào tạo nghề đã được ban hành… Một đặc điểm của thị trường lao động Việt nam là vẫn còn phổ biến tình trạng chia cắt, phân mảng lao động giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa các ngành nghề, thành phần kinh tế. Vì vậy, nếu CRSD tổ chức tốt hoạt động cung cấp thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm, kết nối giữa thanh niên và phụ nữ ngư dân có nhu cầu việc làm với các doanh nghiệp cần tuyển dụng thì có thể tạo ra nhiều việc làm thay thế cho ngư dân vùng ven biển. CRSD có thể tổ chức trung tâm GTVL để kết nối cung cầu lao động trong vùng dự án, tạo việc làm bền vững, tốt hơn những mô hình GTVL hiện có.

Mặt khác, các khu vực dự án còn những nguồn lực chưa khai thác hết như 200 ha đất nuôi trồng thủy sản không hiệu quả thuộc xã Ninh Lộc-Khánh Hòa quản lý, khoảng 47 ha đất –khu đèo Bãi Trướng, Ninh Vân-Khánh Hòa có thể trồng tỏi Lý sơn giá trị cao hay trên 500 ha đất của xã Vĩnh Hải-Sóc Trăng của 2 nông trường đã giải thể, sử dụng không hiệu quả, vịnh Thanh Bình và dải đất ven biển của xã Hải Ninh-Thanh Hóa có thể nuôi ngao hiệu quả nhưng chưa được sử dụng… Đó là những cơ hội cho việc đa dạng hóa nguồn thu nhập và tạo lập sinh kế thay thế đánh bắt bền vững.

Các mô hình liên kết giữa chủ tàu và nhóm thợ đi bạn, những mô hình HTX nuôi nghêu ở Bến Tre, Sóc Trăng, mạng lưới xã hội của người di cư, các tham vấn cộng đồng trong cuộc khảo sát này về việc thành lập các nhóm phụ nữ chăn nuôi ở Ninh Vân, Ngư Lộc, Hải Ninh, thành lập mô hình tổ nhóm đồng quản lý rừng ngập mặn ở Vĩnh Hải… cho thấy khả năng tham gia của cộng đồng vào các hoạt động của CRSD.



Những định hướng chủ yếu về sinh kế bền vững vùng ven biển:

* Phát huy mọi nguồn lực sinh kế của hộ gia đình và cộng đồng (vốn con người, vốn tài nguyên, vốn vật chất, vốn tài chính, vốn xã hội), tận dụng mọi cơ hội thị trường và thể chế, cũng như điều kiện thuận lợi ở từng địa phương nhằm phát triển những nguồn sinh kế bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.

* Đa dạng hóa nguồn thu nhập là một chiến lược sinh kế của các hộ gia đình và cộng đồng ven biển nhằm huy động tối đa các nguồn lực tiềm năng của các hộ và cộng đồng cho sự tăng thu nhập để làm giảm áp lực lên khai thác ven bờ. Đa dạng hóa nguồn thu nhập nên dựa trên cách tiếp cận nhu cầu thị trường và cần đi liền với cải thiện môi trường kinh tế vùng ven biển, tạo ra tính liên thông thị trường giữa vùng ven biển với các vùng khác, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm, cũng như đào tạo nghề, nâng cao nguồn lực con người.

* Nếu nút thắt về phát triển của cả nước là CSHT và chất lượng nguồn nhân lực, thì đây cũng là nút thắt đối với phát triển vùng ven biển. Trong khuôn khổ dự án CRSD, cần chú trọng việc đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như một giải pháp căn cơ, lâu dài để phát triển vùng ven biển, cũng như phát triển sinh kế bền vững.

* Áp lực dân số cao, tình trạng kinh tế chậm phát triển ở vùng ven biển đang tạo nên áp lực giải quyết việc làm mạnh, cũng như dòng di cư tự do lớn đến các vùng kinh tế trọng điểm,Tây Nguyên. Đây là vấn đề xã hội hàng đầu ở vùng ven biển. Vì thế, một trong các giải pháp cơ bản của dự án CRSD là thiết lập tổ chức GTVL mạnh, cung cấp thông tin thị trường lao động, hướng nghiệp, cung cấp chuyên gia, nâng cao năng lực cán bộ lao động - việc làm tại các địa phương nhằm tạo ra những nguồn sinh kế thay thế trong điều kiện kinh tế địa phuơng-đặc biệt là lĩnh vực phi nông nghiệp chưa phát triển. Việc kết hợp với các hoạt động đào tạo nghề, hỗ trợ phổ cập giáo dục có thể đem lại hiệu quả tốt về lâu dài.

*Lồng ghép các hoạt động dự án CRSD với các chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH trên các địa bàn vùng ven biển, nhằm tích hợp những nguồn lực khan hiếm để phát triển vùng ven biển và tạo lập những nguồn sinh kế bền vững.

* Nghèo khổ là một trong những nguyên nhân dẫn tới khai thác cạn kiệt vùng tài nguyên ven bờ. Vì thế dự án CRSD nên chú trọng các hoạt động giảm nghèo, tạo sinh kế bền vững cho các nhóm yếu thế như nhóm nghèo, cận nghèo, phụ nữ đơn thân, DTTS.

* Vùng ven biển và các hoạt động sinh kế của cộng đồng ven biển thường xuyên chịu đựng những rủi ro lớn. Điều đó làm cho một bộ phận lớn trong cộng đồng dễ rơi vào vòng xoáy của sự nghèo khổ, tạo nên áp lực lớn đối với khai tác ven bờ. Vì thế, các biện pháp phòng chống rủi ro như bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tàu thuyền, bảo hiểm con người, bảo hiểm y tế… có thể giúp hạn chế tác động bất lợi của những rủi ro. Dự án CRSD có thể hỗ trợ, thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động bảo hiểm như vậy, cũng như tham gia vào chương trình thí điểm của chính phủ về bảo hiểm nông nghiệp.

* Chiến lược phát triển sinh kế thay thế là một bộ phận quan trọng trong mục tiêu giảm năng lực đánh bắt ven bờ. Chiến lược này cần gắn với mô hình đồng quản lý tài nguyên, cũng như nâng cao năng lực quản trị địa phương và tăng cường liên kết liên ngành và liên vùng để thực hiện mục tiêu giảm đánh bắt ven bờ.

* Từ những định hướng trên có thể phân ra 3 nhóm các đề xuất sinh kế cho dự án CRSD là nhóm các mô hình sinh kế chuyển đổi nghề khai thác trên biển, nhóm các mô hình sinh kế dựa vào đất và các mô hình sinh kế không dựa vào đất. Những đề xuất mô hình cụ thể tại từng địa phương có thể là sự kết hợp các định hướng nêu trên.


6.2 Khuyến nghị


  • CRSD là một dự án hỗ trợ các chính quyền địa phương giảm thiểu đánh bắt ven bờ, nhưng CRSD chỉ có thể hiệu quả nếu môi trường kinh tế địa phương được cải thiện, thu hút đầu tư, phát triển khu vực kinh tế tư nhân, tạo nhiều việc làm phi đánh bắt, đa dạng hóa nguồn thu nhập cho các cộng đồng ven biển. Vì thế CRSD cần phối hợp, hỗ trợ các chính quyền địa phương cải thiện môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, nâng cấp CSHT và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

  • Chiến lược sinh kế thay thế đánh bắt ven bờ cần gắn với mô hình đồng quản lý tài nguyên, cũng như nâng cao năng lực quản trị địa phương và tăng cường liên kết liên ngành và liên vùng để thực hiện mục tiêu giảm đánh bắt ven bờ. Các hợp phần của CRSD cần tổ chức sao cho thực hiện đựơc sự gắn kết đó.

  • Các hoạt động CRSD phải đồng bộ. Chẳng hạn, các hoạt động hỗ trợ sinh kế của CRSD cần có cơ chế có liên quan, các hoạt động tập huấn nâng cao kỹ năng chuyên môn, hỗ trợ tài chính, cho thuê đất... Vai trò của các cơ quan chức năng địa phưong rất quan trọng, phối hợp hỗ trợ cho việc thực hiện đồng bộ các hoạt động CRSD. Việc phối hợp ngang giữa các cơ quan có liên quan có thể là một khó khăn trong quá trình hoạt động của CRSD và cần được giám sát, điều chỉnh kịp thời.

  • Lồng ghép CRSD với các Chương trình, dự án phát triển KTXH trên địa bàn dự án nhằm tận dụng các nguồn lực khan hiếm, đặc biệt là các chương trình phát triển khu kinh tế, khu du lịch, CSHT ven biển, CSHT nghề cá, xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm, giảm nghèo, đào tạo nghề nông thôn, phổ cập giáo dục, hỗ trợ HS, SV nghèo... Cần lưu ý là nhiều chương trình của chính phủ chưa thực hiện hiệu quả vì đầu tư nhỏ giọt, dàn đều, không chú trọng hiệu quả. Vì thế việc lồng ghép của CRSD cần tạo ra ngưỡng hỗ trợ đủ mạnh để đạt hiệu quả cuối cùng và bền vững. Cơ chế cho lồng ghép cần được tính tới ngay từ đầu quá trình thực hiện CRSD.

  • Một định hướng chính của CRSD là tận dụng mọi nguồn lực sinh kế của hộ gia đình và cộng đồng. Các cơ quan chức năng địa phương cần tận dụng mọi nguồn lực đất đai, mặt nước chưa sử dụng hiệu quả, tín dụng... để cung cấp cho cộng đồng ven biển tiến hành các hoạt động sinh kế thay thế đánh bắt ven bờ.

  • Những hỗ trợ nguồn lực như đất đai, vốn... cần chú trọng các giải pháp đảm bảo đúng đối tượng được thụ hưởng của dự án là người chuyển đổi sinh kế thay thế đánh bắt ven bờ, cũng như đa dạng hóa nguồn thu nhập cho hộ ngư dân khai thác ven bờ. Những nhóm yếu thế như người nghèo, cận nghèo, phụ nữ đơn thân nuôi con, DTTS cần là đối tượng ưu tiên đặc biệt tham gia hoạt động của CRSD.

  • Các cơ quan chức năng địa phương có thể có xu hướng lựa chọn các dự án liên quan đến CSHT hay các dự án lớn- rất quan trọng về kinh tế, kỹ thuật và dễ quản lý. Tuy nhiên, CRSD cần chú trọng đầu tư đúng mức cho các hoạt động liên quan tới đào tạo nghề, phổ cập giáo dục, hướng nghiệp, giới thiệu việc làm, đặc biệt là con em hộ nghèo, cận nghèo, DTTS... nhằm tạo ra xu hướng mới về định hướng giá trị về học hành, nghề nghiệp, việc làm, về sinh kế...cho thế hệ trẻ vùng ven biển. Chỉ có sự thay đổi của thế hệ trẻ vùng biển về các nguồn sinh kế phi đánh bắt, mới có thể tạo được sự bền vững cho nguồn lợi thủy sản ven bờ. CRSD có thể tạo nên sự đột phá theo định hướng này.

  • Hoạt động truyền thông thay đổi hành vi của cộng đồng, của những cơ quan chức năng các cấp trong bảo vệ môi trường biển, bảo vệ nguồn lợi thủy sản ven biển cần coi là một bộ phận hợp thành của CRSD.

  • Tham vấn với các cộng đồng đánh bắt khi thực hiện mô hình đồng quản lý đánh bắt như sau:


Các nguyên tắc cụ thể cho việc thiết lập mô hình đồng quản lý đánh bắt (dựa trên sự tham vấn với các hộ bị ảnh hưởng tiềm năng).
Dự án sẽ xúc tiến việc thiết lập mô hình đồng quản lý đánh bắt trên cơ sở thử nghiệm và sẽ từng bước mở rộng trong quá trình thực hiện dự án. Trong khi mở rộng mô hình này các nguyên tắc sau đây sẽ được tuân theo:

  • Thiết lập mô hình đồng quản lý đánh bắt sẽ dựa vào nhu cầu của cả chính quyền và ngư dân địa phương.

  • Các mô hình đồng quản lý đầu tiên ở một tỉnh sẽ được xác định trên cơ sở khảo sát đa dạng loài liên quan đến nhu cầu đánh bắt.

  • Các mô hình đồng quản lý đánh bắt được thiết lập cách xa nhau về mặt địa lý – ít nhất ở một khoảng cách đủ để tránh sự chồng lấn về ranh giới giữa các mô hình đồng quản lý đánh bắt sẽ được thiết lập.

  • Các kiểu hạn chế (đến đánh bắt) trong một mô hình đồng quản lý sẽ được lựa chọn – xuất phát từ sự phong phú nguồn tài nguyên và nhu cầu về các nguồn tài nguyên của các thành viên trong mô hình. Điều này nhằm đảm bảo các hoạt động đánh bắt bị hạn chế sẽ được thử nghiệm trước trong một khoảng thời gian xác định, trên cơ sở đồng thuận của tất cả người sử dụng nguồn tài nguyên trong mô hình, để cho phép điều chỉnh.

  • Mỗi và mọi can thiệp (chẳng hạn thay đổi công suất tàu, mô hình/phương pháp đánh bắt, đăng ký giấy phép hoạt động…) sẽ được nghiên cứu và đề xuất bởi các ban ngành thủy sản liên quan ở cấp tỉnh và trung ương. Một sự hợp tác chặt chẽ giữa các cấp từ trung ương đến xã sẽ được duy trì để đảm bảo tất cả các hoạt động/can thiệp trong khuôn khổ dự án được thực hiện phù hợp với các quy định/thực hành về đánh bắt của quốc gia và quốc tế.

  • Mỗi tỉnh dự án sẽ triển khai các kế hoạch can thiệp riêng của họ (theo hướng dẫn của cục và các chi cục thủy sản) để đảm bảo kế hoạch của họ phù hợp tốt với điều kiện kinh tế-xã hội và văn hóa của họ trong một giai đoạn đã được thống nhất. Khi các can thiệt đòi hỏi các cam kết quốc gia hay vùng, Ban QLDA (cấp trung ương) sẽ thực hiện vai trò điều phối để đảm bảo rằng không có những xung đột xảy ra do thiếu sự điều phối về các vùng nước giữa các tỉnh và giữa các khu vực.


Các nguyên tắc chung về tham vấn với các thành viên của các mô hình đồng quản lý được đề xuất:
Để đảm bảo các tác động bất lợi tiềm ẩn đến các thành viên của một mô hình được đề xuất, đặc biệt là các hộ dễ bị tổn thương, được giảm thiểu/hạn chế, cách tiếp cận sau đây sẽ được áp dụng:

  • Tất cả các thành viên của mô hình được đề xuất có thể tham gia một cách tích cực vào việc phân tích a) nhu cầu về một mô hình đồng quản lý, và b) tác động tiềm ẩn của mô hình đồng quản lý đó đến các hoạt động đánh bắt, các hoạt động tạo thu nhập và các sinh kế của họ.

  • Họ đóng vai trò tích cực trong việc bố trí và sắp xếp về quy chế/tổ chức cho mô hình đồng quản lý được đề xuất.

  • Họ có thể tham gia vào quá trình thiết kế, thực hiện và giám sát việc thực hiện các biện pháp giảm thiểu để quản lý có hiệu quả các tác động bất lợi tiềm ẩn đến thu nhập của mình, và/hoặc nhũng xung đột có thể xảy ra trong khi thực hiện mô hình đồng quản lý. Các chính quyền địa phương cũng như ngành thủy sản, các hiệp hội nghề cá cần đóng vai trò tích cực trong việc thiết kế các quy tắc/sắp xếp tổ chức cho mô hình đồng quản lý được đề xuất.

  • Các quy tắc/bố trí tổ chức được thiết kế và thống nhất với các thành viên tham gia mô hình đồng quản lý đã đề xuất (với sự tạo điều kiện thuận lợi của chính quyền các địa phương và các cơ quan liên quan) cần được tuân thủ trên cơ sở thử nghiệm và cho phép điều chỉnh các quy tắc.

Các hoạt động sau đây cần được thực hiện ở giai đoạn đầu của lập kế hoạch mô hình đồng quản lý:

  • Phân tích các bên liên quan: đươc thực hiện để hiểu điều kiện kinh tế-xã hội của tất cả các thành viên trong mô hình đồng quản lý được đề xuất. Ở mức tối thiểu, các yếu tố sau đây cần được biết: mức độ phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên ven bờ của một bộ phận các thành viên của mô hình đồng quản lý được đề xuất, tình trạng giàu nghèo, văn hóa và truyền thống, kể cả vai trò tiềm năng của các chính quyền địa phương và ngành thủy sản trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập mô hình đồng quản lý.

  • Tiêu chuẩn các hộ có khả năng bị ảnh hưởng nặng: được triển khai trên cơ sở phân tích các bên liên quan và hỗ trợ bổ sung mà dự án sẽ cung cấp (như các biện pháp giảm thiểu) để đảm bảo các hộ bị ảnh hưởng tiềm năng sẽ không bị ảnh hưởng bất lợi bởi mô hình được đề xuất.

  • Cơ chế giải quyết khiếu nại: Các cơ chế giải quyết xung đột cần được thiết lập ở 2 cấp. Ở cấp thứ nhất, các xung đột tiềm ẩn cần được xác định thông qua cách tiếp cận như tham vấn cộng đồng, để tìm các biện pháp bảo vệ. Ở cấp thứ 2, khi các xung đột xảy ra thì các bên liên quan có trách nhiệm giải quyết xung đột cần tham gia giải quyết các xung đột để thỏa mãn các thành viên bị ảnh hưởng trong mô hình.



Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương