- Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào
đó nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất định vềgiáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong
cách, lối sống.
Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại, trong đó có đạo đức
tôn giáo là cần thiết. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ
phận dân cư, và do đó sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
một hiện tượng xã hội khách quan.
Tín ngưỡng tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, do đó
sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã
hội khách quan.
Như vậy, từ những nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu
trên chúng ta có thể khẳng định rằng:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa không sử dụng tôn giáo như là công cụ thống trị về mặt tinh thần để
thống trị nhân dân; không dùng tôn giáo để củng cố địa vị thống trị của giai cấp công nhân.
- Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là sinh hoạt tinh thần của một bộ phận dân cư được nhà nước
tôn trọng.
- Đồng bào có đạo, không có đạo bình đẳng trước pháp luật.
Cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự thay đổi
của các điều kiện kinh tế - xã hội. Quần chúng nhân dân có đạo đã thực sự trở thành chủ thể của xã hội,
đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao. Trên cơ sở đó họ dần được giải thoát khỏi tình
trạng mê tín dị đoan, ngày càng có đời sống tinh thần lành mạnh. Đông đảo quần chúng nhân dân có
tôn giáo ngày càng có điều kiện tham gia đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, tinh thần yêu
nước xã hội chủ nghĩa được khơi dậy, tạo nên sức mạnh cùng toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội.
Cùng với vấn đề dân tộc thì tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và đang
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |