CÂu hỏi câu 1



tải về 288.04 Kb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích288.04 Kb.
#19160
1   2   3

+ CSHT quyết định KTTT:

- CSHT nào thì KTTT ấy, tức là KTTT là sự phản ánh CSHT.

- CSHT thay đổi thì KTTT cũng thay đổi theo sự biến đổi của KTTT rõ rệt khi CSHT này được thay thế bằng CSHT khác.

+ Sụ tác động trở lại của KTTT đối với CSHT:

- KTTT có thể tác động qua lại đối với CSHT vì chức năng của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT đã sinh ra nó.

- Các bộ phận khác nhau của KTTT đều tác động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó Nhà nước giữ vai trò lớn và quan trọng đối với CSHT.

+ Sự tác động qua lại của KTTT đối với CSHT được thể hiện ở hai điểm như sau:

Thứ nhất, trong mỗi hình thái kinh tế xã hội KTTT có quá trình biến đổi nhất định, quá trình đó đang phù hợp với CSHT thì nó càng thúc đẩy CSHT.

Thứ hai, khi KTTT tác động ngược chiều với CSHT thì nó sẽ gây cản trở cho sự phát triển của CSHT.

Những đặc điểm của CSHT và KTTT trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay:

Về CSHT ở nước VN hiện nay trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH:

CSHT bao gồm các thành phần kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN.

Kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo.

Kinh tế hợp tác xã bao gồm hợp tác xã SX nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ... kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.

Kinh tế TB Nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến.

Kinh tế cá thể tiểu chủ.

Kinh tế TB tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể.

Về KTTT:

Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và làm kim chỉ nam cho hành động xây dựng hệ thống chính trị XHCN.

Xây dựng Nhà nước là của dân, do dân và vì dân.

Mọi người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.

Phát triển văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Thực hiện dân chủ XHCN phát huy khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân.



Câu17: Hãy chứng minh sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. ý nghĩa thực tiễn của nguyên lý này?

Bài làm:

Chứng minh:

Triết học Mác- Lênin khẳng định giữa xã hội và tự nhiên, tự nhiên và xã hội có quan hệ mật thiết với nhau ở nguồn gốc phát sinh. XH ra đời từ tự nhiên, XH là một dạng tự nhiên đặc biệt. So sánh giữa chúng, tuy có điểm khác nhau nhưng lại có hiều điểm tương tự như nhau về tổ chức, kết cấu về vận động và phát triển.

Đi sâu vào lĩnh vực đời sống xã hội, phân tích những bộ phận hợp thành, Mác đã tìm ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. Từ đó ông đã phát hiện ra nguồn gốc vận động phát triển của lịch sử, tìm ra qui luật của nó mà đi đến kết luận lịch sử xã hội loại người trải qua các giai đoạn nối tiếp nhau, tương ứng mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển và thay thế nhau trong lịch sử do tác động của các qui luật khách quan, đó là một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của XH.

Mác phân tích, mỗi hình thái kinh tế- có ba bộ phận cơ bản tạo thành: lực lượng SX, quan hệ SX và kiến trúc thượng tầng. Trên cơ sở phép biện chứng duy vật, C.Mác đã quy kiến trúc thượng tầng phụ thuộc vào QHSX, từ đó Mác đã tìm ra được nguồn gốc cơ bản tạo ra sự vận động của lịch sử là từ vận động của LLSX.

Trong tác phẩm “Những người bạn dân” do Lênin viết: Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những QHSX và đem quy QHSX vào trình độ của LLSX thì người ta mới có được một số cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.

Nguyên lý này thể hiện rõ lập trường duy vật biện chứng là XH luôn vận động theo quy luật khách quan vốn có của nó, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mặc dù sự vận động đó bao giờ cũng phải thông qua hoạt động của con người có ý thức. Nhưng vận động có vẫn là khách quan, vẫn là quá trình lịch sử tự nhiên.

Sự phát triển của hình thái kinh tế- xã hội còn là quá trình lịch sử tự nhiên, còn có ý nghía sự phát triển đó luôn luôn theo một hướng nhất định, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp lẫn vượt trải qua những nấc thang từ thấp đến cao, thể hiện sự thống nhất giữa tính liên tục và tính đứt đoạn. Đó là sự vận động đi theo đường thẳng(gọi là vận động dọc). Dĩ nhiên sự vận động đi lên của lịch sử còn có các hình thức khác, đó là(vận động ngang). Trong điều kiện nào đó với sự tác động của trình độ khoa học, kỹ năng hiện đại, trình độ văn minh tiên tiến về kinh tế- xã hội ở bên ngoài du nhập vào những nước còn ở trình độ phát triển thấp thì những nước này sẽ có điều kiện phát triển nhanh chóng vượt lên những nước trong khu vực, có cùng trình độ xuất phát. Ngoài ra còn một hình thức vận động quan trọng khác là vận động bỏ qua “cả về mặt lý luận và thực tế đều thừa nhận trong lịch sử nhảy cóc mà chỉ là sự rút ngắn và làm dục bớt cơn đau đẻ” của nó “bỏ qua” đương nhiên không phải là một quá trình bình thường so với tiến trình chung của lịch sử.

Không bình thường song vẫn là quá trình lịch sử tự nhiên vì nó có đầy đủ của điều kiện chủ quan và khách quan cho phép vẫn phù hợp với qui luật khách quan của lịch sử...Lênin viết: “Tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức hoặc về trình tự của sự phát triển đó”.

Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội chẳng những diễn ra theo con đường tuần tự mà con diễn ra theo sự “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế- xã hội nhất định.

Điều cần rút ra ở đây là phải tôn trọng qui luật khách quan và hành động theo đúng qui luật khách quan, không được chủ quan duy ý chí.



ý nghĩa:

Vận dụng những quan điểm duy vật biện chứng để xem xét xã hội, học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội của Mác ra đời đã bác bỏ toàn bộ những quan điểm duy tâm, phải khoa học về xã hội.

Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của Mác ra đời cho ta phương pháp luận khoa học trong việc xem xét đánh giá các chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử. Nó vạch ra những khuynh hướng phát triển, vạch ra sự phân kỳ lịch sử. Nó là cơ sở lý luận cho sự phân kỳ của một chế độ xã hội.

Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho việc định ra phương hướng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của Đảng cách mạng.

Học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội của Mác cho ta cơ sở lý luận để nhận thức đúng đắn và sâu sắc đường lối cách mạng của Đảng ta, trước hết là đường lối đổi mới quá độ đi lên CNXH.

Ngày nay Đảng ta chủ trương tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá là để phát triển mạnh mẽ LLSX. Trên cơ sở đó xác lập QHSX mới và xây dựng kiến trúc thượng tầng mới để xác lập hình thái kinh tế- xã hội mới.



Câu18: Đấu tranh giai cấp là gì? phân tích nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay.

Bài làm:

Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích căn bản đối lập nhau.

Vấn đề ở đây không phải là hai giai cấp khác nhau thì đấu tranh giai cấp với nhau mà là các giai đoạn khác nhau trong quan hệ lợi ích không điều hoà được đấu tranh với nhau. Trong xã hội có giai cấp đối kháng đấu tranh của cá nhân trong giai cấp này chống cá nhân trong giai cấp khác chưa trở thành đấu tranh giai cấp mà mới chỉ là mầm mống của đấu tranh giai cấp. Nó chỉ thật sự đấu tranh giai cấp khi cá nhân đó nhận thấy một cách tự giác hoạt động của mình đóng góp phần lật đổ giai cấp thống trị (có tổ chức, có ý thức) bảo vệ lợi ích giai cấp mình. Chẳng hạn, đấu tranh của người công nhân với chủ tư bản chỉ trở thành đấu tranh giai cấp khi nó nằm trong cuộc đấu tranh chung của toàn bộ giai cấp công nhân chống lại toàn bộ giai cấp tư sản nhằm lật đổ nền thống trị của giai cấp đó.

Cần phê phán những quan điểm cho đấu tranh giai cấp là kết quả của sự hiểu lầm sự không hiểu nhau giữa các giai cấp là kết quả của chính sách không khôn khéo của nhà cầm quyền trong xã hội, là có sự xúi giục của những phần tử ác ý...

Đấu tranh giai cấp là do sự đối lập nhau về địa vị kinh tế và mâu thuẫn về lợi ích cơ bản của các giai cấp khác nhau sinh ra.

Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, sự quốc tế hoá LLSX kéo theo quốc tế hoá QHSX các nước ngày càng có mối quan hệ phụ thuộc nhau. Quá trình trí thức hoá công nhân, công nhân hoá trí thức đang diễn ra như một tất yếu của chính nền SX xã hội sinh ra. Tuy nhiên, bản chất hoá của CNTB vẫn không thay đổi. Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra. Đây là thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Điều quan trọng hiện nay, là giai cấp công nhân phải tìm ra được những hình thức và phương thức đấu tranh mới phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội hiện đại từng bước đưa cuộc đấu tranh đi đến những thắng lợi mới và ngày nay càng phát triển.

Những dặc điểm chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay có những nội dung như sau:

Có quan điểm cho rằng, trong điều kiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì không nên đặt vấn đề đấu tranh giai cấp, nó sẽ dẫn đến phân tán lực lượng, chia sẽ lực lượng. Quan điểm này không đúng, vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế không loại bỏ đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là tất yếu khách quan hay mọi xã hội có giai cấp. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng xã hội Việt Nam hiện nay không còn khác biệt giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp, không còn đấu tranh giai cấp. Nhưng cũng sẽ là sai lầm nếu phân chia các giai cấp trong nước hiện nay thành hai lực lượng xã hội đối lập. Việc nhận thức đúng đắn tính chất nội dung cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay sẽ giúp chúng ta xử lý một cách khoa học mỗi quan hệ xã hội, giai cấp, đưa công cuộc đổi mới tiến lên.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định “Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội chống áp bức bất công, đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư bản và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch. ” Trong quá trình đấu tranh giai cấp hiện nay ở nước ta còn chú ý mấy điểm sau:

Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam ngày nay diễn ra trong tình hình diễn biến phức tạp, nhanh chóng có xu hướng khó lường của thế giới, nhất là sau khi sự khủng hoảng ở các nước XHCN xuất hiện và CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị tan rã.

- Sự phục hồi về một số mặt trong kinh tế của nhiều nước TBCN.

- Chủ nghĩa Đế quốc các thế lực thù đoạn chống phá CNXH với qui mô toàn diện tinh vi, đặc biệt là chiến tranh diễn biến hoà bình của chúng.

- ở trong nước đang tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường.

- Giai cấp công nhân Việt Nam hình thành từ thế kỷ XIX, ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, công nhân sớm xác định được vai trò lãnh đạo của mình và giành ưu thế tuyệt đối. Phân lớn công nhân xuất phát từ nông dân.

- Sự gắn bó giữa nông dân và công nhân được hình thành một cách tự nhiên trong lịch sử dân tộc. Trong cuộc đấu tranh với các thế lực chống chế độ mới nông dân luôn đứng về phía giai cấp công nhân.

- Trí thức Việt Nam đại bộ phận được đào tạo trong chế độ mới. Trên thực tế công nhân nông dân và trí thức nước ta là lực lượng cơ bản của cuộc cách mạng XHCN, cùng chung một khối liên minh do giai cấp công nhân lãnh đạo.

- Lực lượng chống đối cách mạng chỉ là những thế lực thù địch phản độgn ở trong và ở ngoài nước. Chúng hoạt động ngấm ngầm chống phá cách mạng, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ nổi dậy. ở đây đòi hỏi chúng ta phải luôn cảnh giác đối với kẻ thù cách mạng nước ta, của CNXH, nhưng chúng cũng không phải lực lượng tự do muốn làm gì cũng được. CNTB cũng không phải là một chế độ xã hội phát triển bằng bất cứ giá nào.

- Chủ động có nguyên tắc trong kế thừa và sử dụng CNTB như khâu trung gian để xây dựng XHCN, nhất là hướng nó vào con đường CNTB Nhà nước.

Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo điều kiện để các giai cấp tầng lớp xã hội có thể phát huy năng lực sản xuất kinh doanh, khai thác mọi tiềm năng đất nước. ở đây “đấu tranh” được biểu hiện dưới hình thức cạnh tranh, thi đua trong kinh tế, giải quyết các lợi ích kinh tế, tạo điều kiện kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hoá cho sự phát triển LLSX. Tăng cường hiệu lực của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế bằng pháp luật là hình thức đấu tranh đặc biệt quan trọng. Đấu tranh trên cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - tư tưởng. Đấu tranh với xu hướng tự phát TBCN, xu hướng xa rời mục tiêu của xã hội (dân giàu, nước mạnh, xã hôij công bằng dân chủ văn minh định hướng XHCN). Đấu tranh chống các thế lực đối lập với độc lập dân tộc và CNXH. Độc lập dân tộc không chỉ là vấn đề dân tộc mà còn là vấn đề giai cấp. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là điều kiện cơ bản và tiên quyết để xây dựng CNXH. Ngược lại xây dựng CNXH là cơ sở vật chất để đảm bảo độc lập dân tộc bền vững. Vì thế trận tuyến đấu tranh giai cấp ở nước ta được xác định một bên là quần chúng nhân lao động, các lực lượng đi theo con đường XHCN đoàn kết trong một mặt trận thắng nhất trong dân tộc do Đảng lãnh đạo với người lên là các tổ chức, các phần tử chống phá độc lập dân tộc và CNXH.

Như vậy, trong tình hình hiện nay ở nước ta, cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra gay go phức tạp, thực chất là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát TBCN và các thế lực thù địch chống lại độc lập dân tộc và CNXH, đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộ, chống áp bức bóc lột, bất công, chống nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái. ở đây đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc trong đấu tranh, đồng thời phải kiên định tinh thần cách mạng, nắm vững định hướng chiến lược mềm dẻo, linh hoạt trong chiến lược đấu tranh bảo đảm sự thống nhất giữa giai cấp và nhân loại, giai cấp và dân tộc trong đấu tranh. Điều đó có ý nghĩa quyết định là không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của quần chúng nhân dân.



Câu19: Phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của Nhà nước. Nêu khái quát các kiểu Nhà nước trong lịch sử. Rút ra ý nghĩa thực tiến?

Bài làm:

Về nguồn gốc của Nhà nước:

Nhà nước là biểu hiện và là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Nó là công cụ mà giai cấp thống trị sử dụng để thống trị và quản lý xã hội phù hợp với lợi ích của mình.

Vậy nguồn gốc của Nhà nước có như sau: Nhà nước ra đời là do những mâu thuẫn không thể điều hoà được. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có mâu thuẫn giai cấp cho nên chưa có Nhà nước. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ Nhà nước đầu tiên trong lịch sử xuất hiện, nó là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được giữa giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô (giai cấp chủ nô đã tạo lập ra một bộ máy bạo lực để trấn an cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ, bắt họ phải tuân theo và phục tùng những điều mà giai cấp chủ nô đặt ra. Bộ máy đó là Nhà nước).

Nguyên nhân sâu ra của sự ra đời của Nhà nước là do LLSX phát triển dẫn đến nhà nước ra đời trong xã hội có giai cấp nó cũng mất đi khi xã hội có giai cấp bị mất đi.



Bản chất Nhà nước:

Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với giai cấp khác. Nhà nước mang bản chất giai cấp nó là một tổ chức bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị và đàn áp các giai cấp bị trị.

Nắm giữ và lập ra Nhà nước là giai cấp trong tay nắm TLSX chủ yếu của xã hội (Nhà nước là của giai cấp thống trị giai cấp bị trị không có Nhà nước) Nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp.

Nhà nước là công cụ chuyên chính bạo lực của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị và đối với nhân dân lao động. Nó là một lực lượng, một tổ chức phi kinh tế.



Chức năng của kinh tế:

Nhà nước có hai chức năng cơ bản: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.



Chức năng đối nội: là buộc các giai cấp bị áp bức bóc lột phải phục tùng quyền lực của Nhà nước, phải đảm bảo sự thống trị của giai cấp bóc lột đối với toàn xã hội về mọi mặt. Nghĩa là dùng bảo lực để duy trì các giai cấp bị áp bức bóc lột trong vòng trật tự, bảo đảm địa vị thống trị của giai cấp bóc lột.

Chức năng đối ngoại: là bảo vệ quốc gia, lãnh thổ và lợi ích Nhà nước, lợi ích của giai cấp thống trị khơi lệ nước khác xâm lược hoặc bảo vệ lãnh thổ của mình bằng việc xâm lược nước khác.

Trong hai chức năng đó thì chức năng đối nội là cơ bản, quyết định vì nó thể hiện trực tiếp quan hệ cơ cấu giai cấp, chính nó qui định sự ra đời của Nhà nước. Hơn nữa, lợi ích của giai cấp thống trị là duy trì được địa vị thống trị và bóc lột được giai cấp trong nước. Còn chính sách đối ngoại phụ thuộc vào bản chất giai cấp và phục vụ chính trị đối nội. Nó là sự tiếp tục của chính sách đối nội.



Các kiểu Nhà nước trong lịch sử:

Có 3 kiểu Nhà nước bóc lột đã tồn tại trong lịch sử như sau:



Nhà nước chiếm hữu nô lệ:

Là Nhà nước của giai cấp chủ nô, bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô bóc lột và chống lại giai cấp những người nô lệ và quần chúng lao động khác.



Nhà nước phong kiến:

Là những đẳng cấp trên của xã hội phong kiến lập nên như đẳng cấp quý tộc, giới thống trị tăng lũ, giáo hội. Nhà nước này bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột và chống lại giai cấp nông nô, thợ thủ công và giai cấp tư sản đang hình thành.



Nhà nước giai cấp Tư sản:

Là Nhà nước do giai cấp tư sản lập nên nhằm bảo vệ duy trì lợi ích của giai cấp tư sản, chống lại bóc lột giai cấp vô sản và quần chúng lao động khác.

Ba kiểu Nhà nước trên tương ứng với ba hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử đó là: hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội TBCN đó là những Nhà nước của giai cấp thống trị bóc lột.

Kiểu Nhà nước đặc biệt đó là Nhà nước chuyên chính vô sản (Nhà nước XHCN) đây là một kiểu Nhà nước theo Lênin nói: “Không còn nguyên nghĩa Nhà nước mà chỉ là một nửa Nhà nước, đó là Nhà nước của dân do dân và vì dân. Nó bảo vệ lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân lao động, trấn áp những giai cấp những thế lực chống lại lợi ích của nhân dân lao động.



Các hình thức Nhà nước trong lịch sử:

Tuỳ từng hoàn cảnh, tương quan lực lượng giữa các giai cấp trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định mà giai cấp thống trị tổ chức nền chuyên chính của mình dưới một hình thức nhất định. Có một số hình thức Nhà nước đã được tồn tại trong lịch sử như sau:



- Hình thức quân chủ: Quân chủ chuyên chế là quyền lực tập trung trong tay vua và được cha di truyền con trong dòng họ của nhà vua (hình thức này có trong xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến).

Quân chủ lập hiến là quyền lực Nhà nước được phân chia giữa nhà vua và các tổ chức khác (có trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, TBCN).

- Hình thức cộng hoà là quyền lực Nhà nước tập trung vào các cơ quan được bàu ra trong một thời gian nhất định.

ý nghĩa thực tiễn:

Câu12: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù cái riêng và cái chung. ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này?

Bài làm:

Khái niệm:

Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.

Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mỗi quan hệ giống nhau được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.

Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính vốn có chỉ ở mọi sự vật, hiện trượng không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác. Nhờ cái đơn nhất mà con người có thể phân biệt được cái riêng này với cái riêng khác.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa cái chung và cái riêng thể hiện như sau:

Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại nhưng nó chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng chứ không tồn tại biệt lập bên ngoài cái riêng.

Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Điều đó có nghĩa là cái riêng tồn tại độc lập, nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa cái riêng, hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại bất kỳ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Cái riêng không chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung mà thông qua hàng nghìn sự chuyển hoá nó còn liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác.

Thứ ba, cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia lập hết vào cái chung vì bên cạnh cái chung bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái đơn nhất. Tức là những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ vốn có ở nó và không tồn tại ở bất kỳ một sự vật nào khác. Cái riêng phong phú hơn cái chung, còn cái chung(cái chung bản chất)sâu sắc hơn cái riêng.

Thứ tư, trong quá trình phát triển khách quan những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hoá thành cái chung và ngược lại. Sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung đó là sự ra đời của cái mới. Sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất đó là sự mất dần đi cái cũ.

ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này:

Cái chung và cái riêng gắn bó chặt chẽ không thể tách rời nên:

- Không thể tách rời cái chung ra khỏi cái riêng, không được tuyết đối hoá cái chung. Nếu tuyệt đối hoá cái chung sẽ mắc phải quan điểm sai lầm tả khuynh giáo điều. Muốn tìm ra cái chung phải nghiên cứu từng cái riêng, thông qua cái riêng phê phán quan điểm sai lầm của phái duy thực cho rằng: chỉ tồn tại cái chung không phụ thuộc vào cái riêng và sinh ra cái riêng. Cái riêng thì hoặc là không tồn tại, hoặc nếu có tồn tại thì cũng là do cái chung cái chung sinh ra và chỉ là tạm thời. Cái riêng sinh ra và chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định rồi mất đi, cái chung mới là cái tồn tại vinh viễn.

- Không tách rời được cái riêng ra khỏi cái chung, không được tuyệt đối hoá cái riêng. Nếu tuyệt đối hoá cái rieng sẽ mắc phải quan điểm sai lầm tả khuynh hướng xét lại, phê phán quan điểm sai lầm của phái duy danh cho rằng chỉ có cái riêng là tồn tại thực sự, còn cái chung chẳng qua chỉ là những tên gọi do lý trí đặt ra trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải biết phát hiện ra cái chung, vận để cái chung để tạo ra cái riêng vì gắn chung gắn liên với bản chất, qui luật vận động, phát triển của sự vật.


Câu13: Hồ Chí Minh viết: Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Hãy phân tích luận điểm trên?

Bài làm:

Khái niệm:

Lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là tổng hợp của tri thức về tự nhiên, xã hội được tích luỹ trong quá trình lịch sử của con người. Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực khách quan.

Thực tiễn là phạm trù chỉ toàn bộ hoạt động vật chất cảm tính có mục đích, có tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội.

Hoạt động lý luận là hoạt động một dạng hoạt động có mục đích của con người, nó thống nhất hữu cơ với hoạt động thực tiễn. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh khái quát những vấn đề của thực tiễn sinh động. Lý luận do thực tiễn quyết định, nhưng lý luận cũng có vai trò tích cực đối với thực tiễn khi lý luận đó phản ánh đúng hiện thực khách quan, thâm nhập được quần chúng nhân dân.

Thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng, lý luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông, không thể hướng dẫn hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Triết học Mác - Lênin đã khẳng định tính thống nhất gắn bó và tác động lẫn nhau giữa lý luận và thực tiễn.

Nói sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin vì:

- Nguyên lý này được thể hiện ngay ở trong từng nội dung của toàn bộ học thuyết triết học Mác - Lênin. Mác nói: Triết học không những chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.

Mục đích của triết học Mác - Lênin chính là vì thực tiễn, lý luận triết học Mác - Lênin ra đời để nhằm cải tạo thế giới.

Mác nói: “Giai cấp vô sản đã tìm ra vũ khí lý luận của mình đó là triết học và triết học đã tìm thấy vật chật của mình chính là giai cấp vô sản”.

Lênin nói: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”.

Câu14: Lênin viết: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý của sự nhận thức hiện thực khách quan.

Bài làm:


Khái niệm:

Trực quan sinh động là sự phản ánh trực tíêp khách thể bằng các giác quan và được diễn ra dưới ba hình thức cơ bản kế tiếp nhau như: cảm giác, tri giác, biểu tượng đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức được gắn liên với thực tiễn trực quan sinh động còn được gọi là nhận thức cảm tính.

Tư duy trừu tượng là giai đoạn cao cả của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở của những tài liệu do trực quan sinh động đem lại. Từ duy trừu tượng phản ánh hiện thực một cách gián tiếp khái quát, sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn sự vật với các hình thức, nhận thức như: khái niệm, phán đoán, suy luận. Tư duy trừu tượng còn được gọi là nhận thức lý tính.

Phân tích luận điểm cơ bản của Lênin:

Với luận điểm trên Lênin muốn nói đến quá trình nhận thức sự vật của con người hay nói cách khác đó là quá trình con người đạt được chân lý. Quá trình đó được Lênin diễn đạt qua hai giai đoạn như: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.



Giai đoạn một: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, trực quan sinh động và tư duy trừu tượng gắn bó thống nhất kế tiếp nhau, bổ sung lẫn nhau trong quá trình con người nhận thức thế giới, nhưng chúng lại khác nhau.

+ Trực quan sinh động:

Con người nhận thức được hình ảnh bên ngoài trực tiếp cụ thể về thế giới xung quanh.

Là sự nhận thức bên ngoài chưa đi vào bên trong, chưa nắm được bản chất và qui luật của hiện thực khách quan.

Do đó nhận thức chưa sâu sắc, chưa đầy đủ nhưng mặt tích cực của giai đoạn này là sát thực tế dựa vào kinh nghiệm là chủ yếu.

Nếu nhận thức con người chỉ dừng ở đây thì chưa đủ vì với những tri thức ấy con người chưa cải tạo được hiện thực. Lênin nói: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, tức là muốn nói nhận thức của con người phải được tiếp tục phát triển lên giai đoạn tư duy trừu tượng.

Tư duy trừu tượng là sự nhận thức đã đi vào bản chất phản ánh được quy luật của sự vật đó là chân lý. Tư duy trừu tượng khác với trực quan sinh động là nó không gắn với sự tác động trực tiếp của sự vật mà thường tách khỏi hiện thực để phản ánh khái quát sự vật trong tính tất yếu và toàn diện của nó, điều đó sẽ có nguy cơ phản ánh sai lệch sự vật do đó tư duy trừu tượng phải được kiểm tra lại bằng thực tiễn đó là thực tiễn của bước chuyển từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.

Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng khác nhau nhưng thống nhât với nhau ở chỗ trực quan sinh động cung cấp tài liệu cho tư duy trừu tượng không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Ngược lại không đưa nhận thức cảm tính phát triển lên nhận thức lý tính thì nhận thức không phản ánh được bản chất của sự vật.

Nhận thức của con người phải đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng nhưng nếu dừng lại ở đây thì chưa được vì đến giai đoạn tư duy trừu tượng ta thu được qui luật lý luận. Liệu những lý luận ấy có đúng không? Lý luận phải quay trở lại thực tiễn và phải được thực tiễn kiểm tra tính chân thực.



Giai đoạn hai: là giai đoạn từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn mới hoàn thành một chu trình của quá trình nhận thức. ở đây thực tiễn là điểm bắt đầu và là điểm kết thúc của chu trình đó. Nhưng sự kết thúc này lại là điểm bắt đầu của chu trình tiếp theo mới và cao hơn. Cứ như thế nhận thức của con người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn nhận thức của con người càng đi sâu, nắm bắt được các quy luật của thế giới khách quan phục vụ cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả.

ý nghĩa:

Với luận điểm trên Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của quá trình nhận thức của con người. Nhận thức của con người phải xuất phát từ thực tiễn và giải quyết những yêu cầu do thực tiễn đòi hỏi.

Hai giai đoạn nhận thức gắn bó chặt chẽ không tách rời.

- Nếu tuyệt đối hoá nhận thức cảm tính(trực quan sinh động)sẽ dẫn đến chủ nghĩa duy cảm.

- Nếu tuyệt đối hoá nhận thức lý tính(tư duy trừu tượng)sẽ dẫn đến chủ nghĩa duy lý.

Phải từ thực tế, từ kinh nghiệm mà tổng kết thành lý luận do đó mới định ra đường lối, chính sách đúng phù hợp với thực tiễn. Ngược lại, cũng phải biết vận dụng những qui luật lý luận vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tránh giáo điều, lập khuôn máy móc, tránh thoát ly thực tế.






Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id50526 114188
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Trường Đại Học Mỏ Địa Chất Khoa Dầu Khí Lời mở đầu
UploadDocument server07 id50526 114188 -> MỤc lục mở ĐẦU 10 Xuất xứ của dự án 10
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Thiết kế MÔn học nhà MÁY ĐIỆn lời nóI ĐẦU
UploadDocument server07 id50526 114188 -> ĐỀ TÀi ngân hàng trung ưƠng trưỜng trung cấp kt-cn đÔng nam
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Seminar staphylococcus aureus và những đIỀu cần biếT
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Bài thảo luận Đánh giá chất lượng sản phẩm dầu thực vật Môn Phân Tích Thực Phẩm Nhóm 2 : Hoàng – Hùng Hiếu Hồng
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Luận văn tốt nghiệp gvhd: pgs. Ts nguyền Ngọc Huyền MỤc lục danh mục các chữ viết tắT
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Aïi Hoïc Quoác Gia Tp
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Mục lục Tổng quan về thịt
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Gvhd: Nguyễn Minh Hùng Đề tài: Tìm Hiểu & Nghiên Cứu cpu

tải về 288.04 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương