CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam tiêu chuẩn ngành quy phạm quan trắc hải văn ven bờ



tải về 0.52 Mb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích0.52 Mb.
#27482
1   2   3   4   5   6

2.2 Quan trắc tầm nhìn xa ban đêm

Quan trắc tầm nhìn xa ban đêm về phía biển đều dựa vào bảng phân cấp tầm nhìn xa (xem Bảng 2).



2.2.1 Có thể dựa vào những tiêu điểm ban ngày, chúng chỉ được nhận ra dưới ánh sáng trăng sao, chứ không được trực tiếp nhìn nguồn sáng hay ánh sáng đèn chiếu tới. Trường hợp thiếu những tiêu điểm, áp dụng như đối với trường hợp ban ngày.

2.2.2 Trường hợp thiếu tiêu điểm sáng mà trời tối quá thì xác định tầm nhìn xa trước lúc mặt trời lặn một, hai giờ. Nếu từ lúc đó đến 01 giờ đêm không có hiện tượng nào làm giảm tầm nhìn xa thì vẫn có thể lấy tầm nhìn xa ban đêm là tầm nhìn xa đã xác định lúc chiều tối.

2.2.3 Không làm quan trắc tầm nhìn xa ban đêm ngay khi vừa ra khỏi nơi sáng, quan trắc viên phải đứng nhìn trong tối một lúc cho quen mắt (không dưới 10 phút) rồi hãy bắt đầu quan trắc.

2.2.4 Chỉ xác định tầm nhìn xa tới các đèn trông thấy được ban đêm ở biển (kể cả đèn pha, phao đèn, đèn cảng) nếu đã biết khoảng cách từ các đèn đó và cường độ sáng của đèn không thay đổi.

2.3 Ghi và chỉnh lý sơ bộ số liệu quan trắc

2.3.1 Ghi kết quả quan trắc tầm nhìn xa phía biển

Sau kỳ quan trắc, số liệu quan trắc tầm nhìn xa phía biển phải được ghi vào sổ SHV-1. Cách ghi kết quả quan trắc vào sổ SHV-1 phải tuân thủ theo quy định ở Điều 1.10.1 và Mục 9.2, Quy phạm này.



2.3.2 Chỉnh lý sơ bộ số liệu quan trắc tầm nhìn xa phía biển

a) Chỉnh lý sơ bộ số liệu quan trắc phải tuân thủ theo quy định tại Khoản a, Điều 1.10.2, Quy phạm này.

b) Kiểm tra việc quy đổi từ tầm nhìn xa về cấp tương ứng.

c) Kiểm tra cách ghi ký hiệu hiện tượng giới hạn tầm nhìn xa.

d) Kiểm tra tính hợp lý giữa hiện tượng giới hạn tầm nhìn xa và cấp tầm nhìn xa.

3. QUAN TRẮC MỰC NƯỚC BIỂN

3.1. Thuật ngữ và giải thích

Trong Quy phạm này các thuật ngữ dưới đây được hiểu như sau:



3.1.1 Mặt mực chuẩn của nước biển

Mặt mực chuẩn của nước biển là mặt nước đại dương thế giới và các biển phụ thuộc ở thế cân bằng dưới tác dụng của tất cả các lực tác dụng lên nó.

Mặt mực nước chuẩn này ở thế thẳng góc với lực tổng hợp của tất cả các lực tác động vào khối nước. Lực chính yếu tác dụng vào các phần tử nước ở đại dương là trọng lực. Vì vậy, nếu quy ước rằng đại dương ở trạng thái yên tĩnh thì mặt nước đó sẽ luôn luôn thẳng góc với hướng của trọng lực hay dây dọi.

3.1.2 Mực nước biển quan trắc

a) Mực nước biển quan trắc là tổng của 3 thành phần:

- Mực nước biển trung bình (MSL);

- Thuỷ triều (T);

- Dao động dư (MR).

Mực nước biển quan trắc = MSL + T + MR.

b) Mực nước biển trung bình là giá trị trung bình của tất cả các quan trắc mực nước trong một chu kỳ ít nhất là một năm. Mực nước biển trung bình nhiều năm có ý nghĩa rất lớn vì nó được lấy làm mốc để đo độ cao trên đất liền.

c) Thủy triều là dao động tuần hoàn gây ra do lực tạo triều. Lực tạo triều xuất hiện do tác động của các lực vũ trụ - các lực hấp dẫn giữa Trái đất, Mặt trăng và Mặt trời. Những nét cơ bản của hiện tượng thuỷ triều được quyết định chủ yếu bởi vị trí tương hỗ của Mặt trăng và Trái đất. Thành phần thuỷ triều là tính toán được.

d) Dao động dư là thành phần phi triều gây ra do những nhiễu động của thời tiết và nó được xác định sau khi tách thủy triều ra khỏi dao động mực nước tổng cộng. Dao động dư không có quy luật cũng giống như biến động của thời tiết. Nước dâng do bão, do áp thấp là thành phần dao động dư điển hình.

3.1.3 Một số thuật ngữ và định nghĩa cơ bản về thuỷ triều

a) Độ cao thuỷ triều là độ cao mực nước triều tính từ mực "0" độ sâu.

b) Nước lớn là mực nước cực đại trong một chu kỳ dao động thủy triều.

c) Nước ròng là mực nước cực tiểu trong một chu kỳ dao động thủy triều.

d) Chu kỳ triều là khoảng thời gian giữa hai lần nước lớn, hoặc hai lần nước ròng liên tiếp nhau.

đ) Biên độ thuỷ triều là độ cao của nước lớn hay nước ròng tính từ mực nước triều trung bình.

e) Độ lớn triều là hiệu độ cao của nước lớn và nước ròng kế tiếp.

g) Vùng nhật triều đều là vùng có thuỷ triều với chu kỳ trung bình bằng một ngày mặt trăng (khoảng 24 giờ 50 phút), hàng ngày có một lần nước lớn, có một lần nước ròng.

h) Vùng bán nhật triều đều là vùng có thuỷ triều với chu kỳ trung bình bằng nửa ngày mặt trăng (12 giờ 25 phút), hàng ngày có hai lần nước lớn (nước lớn cao, nước lớn thấp) và hai lần nước ròng (nước ròng cao, nước ròng thấp).

i) Vùng nhật triều không đều là vùng có thuỷ triều với chu kỳ thay đổi từ nửa ngày sang cả ngày, nhưng chu kỳ cả ngày chiếm ưu thế.

k) Vùng bán nhật triều không đều là vùng có thuỷ triều với chu kỳ thay đổi từ nửa ngày sang cả ngày, nhưng chu kỳ nửa ngày chiếm ưu thế.

l) Nước lớn cao (NLC) là nước lớn lớn hơn trong hai nước lớn xảy ra trong một ngày đối với bán nhật triều.

m) Nước lớn thấp (NLT) là nước lớn nhỏ hơn trong hai nước lớn xảy ra trong một ngày đối với bán nhật triều.

n) Nước ròng cao (NRC) là nước ròng lớn hơn trong hai nước ròng xảy ra trong một ngày đối với bán nhật triều.

o) Nước ròng thấp (NRT) là nước ròng nhỏ hơn trong hai nước ròng xảy ra trong một ngày đối với bán nhật triều.

p) Triều dâng (TD) là khoảng thời gian từ nước ròng đến nước lớn liền kề.

q) Triều rút (TR) là khoảng thời gian từ nước lớn đến nước ròng liền kề.

r) Kỳ nước cường: trong một tháng vào thời kỳ sóc vọng tức là khi Mặt trời, Mặt trăng và Trái đất ở vào vị trí thẳng hàng với nhau, triều lên xuống rất mạnh, có biên độ triều lớn nhất trong tháng, triều lên rất cao, đồng thời cũng xuống rất thấp.

s) Kỳ nước kém: vào thời kỳ triều trực thế, tức là khi Mặt trời, Mặt trăng và Trái đất ở vào vị trí vuông góc với nhau, dao động của triều lên xuống rất yếu quanh vị trí mực nước trung bình, mực nước không lên cao và không xuống kiệt, biên độ triều rất nhỏ.

3.1.4 Mực nước cực trị tần suất hiếm

Mực nước cực trị tần suất hiếm là mực nước cao nhất cực đại và thấp nhất cực tiểu có thể xảy ra một lần trong chu kỳ 5, 10, 25, 50 hay 100 năm. Các giá trị cực trị này có tầm quan trọng rất lớn trong thiết kế các công trình ven biển, chúng được phân tích, tính toán từ các số liệu thực đo.



3.1.5 Mực nước biển dâng

Khi có gió mùa mạnh, áp thấp nhiệt đới hoặc bão, mực nước biển có thể bị dâng lên cao hơn mực nước trong điều kiện thời tiết bình thường và có thể tràn qua đê biển gây ra ngập lụt.

Mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu: do biến đổi khí hậu Trái đất dần nóng lên làm cho các núi băng ở hai đầu Bắc cực và Nam cực tan ra, dẫn đến hậu quả là mực nước biển có xu thế tăng lên với tốc độ trung bình vài mi li mét một năm.

3.1.6 Các loại số "0"

a) Số "0" trạm là mặt phẳng nằm ngang (quy ước) ứng với mực nào đó lấy làm gốc để đo mực nước và thường được chọn thấp hơn cả mực nước biển thấp nhất có thể xảy ra tại trạm. Độ cao vị trí số "0" trạm được quy định gián tiếp bằng trị số chênh lệch độ cao của mốc trên số "0" trạm. Ví dụ: tại trạm Hòn Dấu, mốc chính là +3,35 m trên số "0" trạm. Như vậy số "0" trạm Hòn Dấu ở thấp dưới mốc chính là 3,35 m.

b) Số "0" độ sâu (hoặc số "0" hải đồ) là mặt phẳng chuẩn quy ước được chọn làm gốc để đo độ sâu của biển, mặt này là một mặt phẳng nằm ngang, được quy định cho từng vùng biển sử dụng số "0" này và thường được chọn là mực nước thấp nhất có thể có theo điều kiện thiên văn (nước ròng thấp nhất) tại vùng này.

c) Số "0" lục địa là mặt phẳng nằm ngang quy ước trùng với mực nước biển trung bình nhiều năm quan trắc tại một trạm cố định, được lấy làm gốc để đo độ cao của đất liền.

d) Số "0" quy ước, số "0" tuyệt đối: Số "0" lục địa, số "0" độ sâu dùng cho một khu vực, một vùng nào đó gọi là số "0" địa phương hay số "0" quy ước. Số "0" lục địa, số "0" độ sâu dùng cho toàn bộ lãnh thổ, lãnh hải của một quốc gia gọi là số "0" Nhà nước hay số "0" tuyệt đối. Ở Việt Nam số "0" lục địa Nhà nước là mặt mực chuẩn trùng với mực nước trung bình nhiều năm tại trạm Hòn Dấu. Số "0" độ sâu Nhà nước là mặt mực chuẩn trùng với mực nước triều thấp nhất lịch sử tại trạm Hòn Dấu. Hệ thống các mốc độ cao trên đất liền có độ cao quy chiếu về số "0" lục địa Nhà nước gọi là hệ độ cao Nhà nước. Hệ thống các độ sâu đáy biển quy chiếu về số "0" độ sâu Nhà nước gọi là hệ hải đồ Nhà nước. Độ cao của tất cả điểm trên đất liền (ghi trên bản đồ địa hình) được tính từ số "0" lục địa trở lên. Độ sâu của tất cả các điểm trên đáy biển (ghi trên bản đồ hàng hải) được tính từ số "0" độ sâu trở xuống. Vì vậy muốn biết độ sâu thực của biển tại một vị trí nào đó vào thời điểm nào đó thì phải cộng thêm độ cao thủy triều tại thời điểm đó vào độ sâu ghi trên bản đồ hàng hải.

đ) Số "0" thủy chí (hoặc thước đo nước cầm tay) là vạch "0" từ đó để khắc các khoảng chia centimet, deximet, mét trên cột đo nước đó.



3.2 Phương pháp, thiết bị đo mực nước biển

3.2.1 Phương pháp đo mực nước biển:

a) Đo trực tiếp dao động của mặt biển;

b) Đo sự thay đổi áp lực của cột nước;

c) Đo thời gian chênh lệch giữa sóng âm truyền tới mặt nước và sóng âm phản xạ từ mặt nước;

d) Đo thời gian chênh lệch giữa sóng rađa truyền tới mặt nước và sóng rada phản xạ từ mặt nước;

đ) Viễn thám - đo từ vệ tinh.



3.2.2 Thiết bị đo mực nước biển

Tuỳ theo các phương pháp đo mực nước khác nhau người ta chế tạo ra những thiết bị đo khác nhau:

a) Thước đo nước (hay thủy chí), dụng cụ đơn giản nhất;

b) Máy đo mực nước kiểu phao, thiết bị phổ biến nhất;

c) Máy đo mực nước kiểu áp lực;

d) Máy đo mực nước kiểu hồi âm;

đ) Máy đo mực nước kiểu ra đa;

e) Thiết bị đo mực nước từ vệ tinh.



3.3 Địa điểm quan trắc mực nước biển

3.3.1 Địa điểm quan trắc mực nước biển phải thỏa mãn các yêu cầu sau:

a) Lưu thông tự do với biển khơi;

b) Khá sâu để có thể đo được mực nước ròng thấp nhất có thể xảy ra tại nơi quan trắc;

c) Được bảo vệ, không để cho thuyền cập bến làm hư hỏng công trình và ảnh hưởng đến độ chính xác của quan trắc;

d) Được che chắn sóng;

đ) Đi lại quan trắc và kiểm tra độ cao của mốc kiểm tra, số "0" thuỷ chí, đầu cọc tương đối dễ dàng thuận lợi;

e) Nền phải ổn định không gây sụt lún đối với các công trình đo mực nước.

Các vị trí đặt tuyến đo mực nước ở cảng, vùng có kè bảo vệ, đập chắn sóng, giếng đặt máy đo mực nước đặt ở trên bờ nối thông với biển bằng ống dẫn hoặc kênh lạch phù hợp với các điều kiện trên.



3.3.2 Nếu bờ biển ở khu vực quan trắc hoàn toàn thoáng không có khả năng xây dựng các công trình bảo vệ cho tuyến đo thì cho phép đặt ở cửa sông gần đó, chọn nơi mà tính chất và biên độ dao động mực nước không khác nhiều so với vùng biển gần đấy. Cần quan trắc song song ở vùng biển và vùng cửa sông một thời gian để so sánh.

3.4. Công trình quan trắc mực nước biển

3.4.1 Việc thiết kế, xây dựng công trình quan trắc mực nước biển phải bảo đảm các yêu cầu sau:

a) Đạt được yêu cầu về độ chính xác quan trắc trong mọi tình huống;

b) Vững chắc;

c) An toàn và thuận lợi khi quan trắc, bảo quản, bảo dưỡng.

d) Quan trắc được mực nước cao nhất và mực nước thấp nhất có thể xảy ra tại trạm.

đ) Tồn tại lâu dài, ít có khả năng phải di chuyển do quy hoạch, xây dựng, do tai biến, do thay đổi điều kiện đo đạc làm cho số liệu quan trắc được không mang tính đại diện.



3.4.2 Các mốc độ cao của trạm đo mực nước biển

Mỗi trạm đo mực nước biển phải xây dựng một mốc chính và ít nhất một mốc kiểm tra (hay còn gọi là mốc phụ). Cấu tạo mốc chính, mốc kiểm tra xem Phụ lục B, Quy phạm này.

Mốc chính có ký hiệu là Mc, được xây ở nơi có địa hình vững chắc, ổn định lâu dài, độ cao không bị thay đổi. Mốc chính có tác dụng cố định số "0" trạm, và để kiểm tra độ cao của mốc kiểm tra. Độ cao mốc chính được dẫn từ mốc độ cao Nhà nước (nếu điều kiện cho phép), ở nơi chưa có điều kiện dẫn từ mốc độ cao Nhà nước thì xác định độ cao giả định trên số "0" trạm (tức là độ cao của mốc tính từ số "0" trạm).

Mốc kiểm tra có ký hiệu là Mkt, nếu trạm có từ hai mốc kiểm tra trở lên thì thêm số thứ tự bên cạnh (ví dụ: Mkt1, Mkt2, ...). Mốc kiểm tra phải đặt ngoài khu vực nước ngập, gần tuyến đo mực nước nhằm bảo đảm việc đo đạc số hiệu chính, kiểm tra số "0" thủy chí, các số "0" trạm được thuận tiện, dễ dàng. Độ cao của mốc kiểm tra được dẫn từ độ cao của mốc chính.



3.4.3 Tuyến thuỷ chí, cọc

a) Việc thiết kế, xây dựng tuyến thuỷ chí, cọc phải tuân thủ quy định tại Điều 3.4.1, Quy phạm này. Cách thiết kế, xây dựng tuyến thuỷ chí, cọc được trình bày chi tiết tại Phụ lục C, Quy phạm này.

b) Ghi số hiệu cọc (thuỷ chí)

- Cọc được ghi ký hiệu là C, thuỷ chí được ghi ký hiệu là P.

- Dùng số nguyên để ghi số hiệu cọc (thuỷ chí) từ trên xuống dưới theo thứ tự tăng dần, số hiệu được ghi bên phải ký hiệu, cọc (thuỷ chí) liền kề có số hiệu chênh nhau một đơn vị (ví dụ: C1, C2, C3, ...; P1, P2, P3, ...).

- Cọc (thuỷ chí) được xây dựng thêm thì ghi thêm ký hiệu là các chữ cái: a, b, c,... vào phía sau số hiệu của cọc (thuỷ chí) đã có ở vị trí cao hơn (ví dụ: xây dựng thêm một cọc giữa C2 và C3 thì ký hiệu của cọc xây dựng thêm này là C2a).

- Cọc (thuỷ chí) được làm lại thì ký hiệu được ghi như cũ nhưng thêm số thứ tự lần xây dựng lại, ngăn cách bằng dấu gạch ngang vào bên phải (ví dụ: cọc C3 được làm lại lần thứ nhất thì ký hiệu được ghi là C3-1, được làm lại lần thứ hai thì ký hiệu được ghi là C3-2).

3.4.4 Giếng đặt máy đo mực nước

a) Các kiểu giếng đặt máy đo mực nước

- Giếng kiểu bờ có ống dẫn nước nằm ngang (xem Hình 1);

- Giếng kiểu bờ có ống dẫn nước xi phông (xem Hình 2);

- Giếng kiểu lấy nước trực tiếp (xem Hình 3).

b) Cấu tạo giếng đặt máy đo mực nước

Giếng đặt máy đo mực nước có tác dụng giữ nước biển ở trạng thái yên tĩnh và bảo vệ hệ thống phao của máy đo mực nước.

Giếng đặt máy đo mực nước là một ống trụ làm bằng bê tông cốt thép hoặc bằng ống thép, hoặc bằng ống nhựa cao cấp, có đường kính 600-800 mm. Nếu làm bằng bê tông cốt thép, thành giếng dày 100 mm, nếu bằng ống thép thành dày 5 mm. Chiều sâu của giếng phải đủ lớn để đo được mực nước thấp nhất và mực nước cao nhất có thể xảy ra tại trạm. Chiều sâu của giếng phụ thuộc vào độ lớn thủy triều và độ cao của vị trí đặt giếng. Ống giếng được chôn vào lòng đất hoặc cắm trực tiếp vào nước biển theo phương thẳng đứng sao cho phao không bị va chạm vào thành giếng, đáy giếng phải thấp hơn 1 m so với mực nước thấp nhất có thể xảy ra.

Miệng giếng phải cao hơn mực nước thiết kế 1-1,5 m và cao hơn sàn nhà đặt máy đo mực nước 80 cm.

Thành trong của giếng phải cách mép phao 10-15 cm. Trong giếng có thiết kế lắp đặt thang lên xuống để nạo vét bùn cát, tu sửa. Thang có thể làm bằng thép không gỉ, gắn chặt vào thành giếng hoặc làm bằng những bậc bê tông gắn vào thành giếng và có tay vịn bằng thép không gỉ.

c) Cấu tạo ống dẫn nước vào giếng

Ống dẫn nước vào giếng có tác dụng làm cho nước biển ở ngoài giếng lưu thông được và cân bằng với nước trong giếng theo nguyên lý bình thông nhau.

Các kiểu ống dẫn nước vào giếng:

- Ống dẫn nằm ngang (xem Hình 1): là ống kim loại hoặc chất dẻo, có độ bền cao, đường kính 10 - 25 cm, được đặt theo phương nằm ngang ở độ sâu thấp hơn cả mực nước thấp nhất lịch sử. Chiều dài ống tùy thuộc vào khoảng cách giữa giếng và mực nước thấp nhất lịch sử. Một đầu ống lắp vào giếng sao cho cao hơn đáy giếng 30-40 cm, đầu kia của ống có hình thước thợ, đặt quay miệng hướng xuống đáy biển. Miệng ống thước thợ có nắp đậy, trên mặt nắp có khoan các lỗ để nước ra vào và có lưới kim loại ngăn rác. Trường hợp khoảng cách giữa giếng và mực nước thấp nhất nhỏ hơn 15 - 20 m và điều kiện cho phép có thể đặt một ống dẫn mà không cần phải có bể lắng đọng bùn cát. Trường hợp khoảng cách dài hơn và ở khu vực hay có sa bồi thì giữa đoạn ống cần xây bể lắng đọng bùn cát bằng bê tông, hình trụ, đường kính trong 60-70 cm, cao 60-70 cm và có nắp đậy. Bể lắng phải xây kiên cố để tránh sóng làm hư hỏng;

- Ống dẫn kiểu xi phông (xem Hình 2): ống xi phông là dạng bình thông nhau, nhưng khác với ống dẫn nằm ngang là nó có dạng gần giống hình chữ U ngược có 2 nhánh. Nhánh bên ngoài đặt dốc theo đường bờ và đầu ống đặt ở ngoài biển, một nhánh ống cắm vào trong giếng. Cả hai đầu ống đều phải thấp hơn mực nước thấp nhất lịch sử 30-50 cm. Ở đỉnh xi phông, chỗ uốn cong giữa hai nhánh có gắn một hệ thống điều tiết có tác dụng khởi động xi phông và triệt tiêu bọt khí ở bên trong ống xi phông. Hệ thống điều tiết gồm: một bình thủy tinh kín tuyệt đối và chứa gần đầy nước. Bình được đặt úp ngược. Có hai ống thoát khí và cấp nước bằng chất dẻo nối thông bình thủy tinh với xi phông tại đỉnh. Một vòi bơm chân không được nối thông với bình thủy tinh để bơm hút không khí trong bình. Toàn bộ hệ thống điều tiết và ống xi phông phải kín hoàn toàn;


Chú thích:

1 - Nhà đặt máy

2 - Bậc lên xuống

3 - Giếng

4 - Ống dẫn nước


Hình 1: Giếng đặt máy đo mực nước dùng ống dẫn nước nằm ngang



Hình 2: Giếng đặt máy đo mực dùng ống dẫn nước kiểu xi phông

- Dẫn nước trực tiếp (xem Hình 3): nước ở ngoài biển được dẫn trực tiếp vào giếng qua đáy giếng, loại dẫn nước này được áp dụng cho những nơi có đường bờ rất dốc và sâu. Giếng được đặt trực tiếp trong nước, đáy giếng thấp hơn mực nước thấp nhất, nhưng không tới đáy biển. Đáy giếng có thể là hình phễu có lỗ thông ở giữa, hoặc là hình phẳng có khoan lỗ.





Hình 3: Giếng đặt máy đo mực nước kiểu dẫn nước trực tiếp

d) Cách tính tiết diện của lỗ thông nước

Để bảo đảm mực nước trong giếng và ngoài giếng lưu thông tốt, lên xuống như nhau, chênh lệch mực nước trong và ngoài giếng không quá 1cm, phải xác định tiết diện và số lượng các lỗ ở miệng ống dẫn nước một cách thích hợp. Đường kính của các lỗ phụ thuộc vào kích thước của giếng. Tiết diện ngang của mỗi lỗ được tính gần đúng như sau:

Trong đó:

S - diện tích của một lỗ (cm2);

A - diện tích của miệng giếng (cm2);

B - hệ số, đối với thủy triều là 800-1000;

n - số lượng lỗ cần khoan, chọn tùy ý.

Ví dụ: Số lỗ cần khoan là n = 3;

Miệng giếng có đường kính 80 cm, diện tích miệng giếng sẽ là

A = 5,024 cm2; Hệ số B = 1000;

Diện tích của một lỗ khoan sẽ là: 2.

Với cách tính như trên sẽ bảo đảm nước lưu thông bình thường và lọc được sóng không cho lọt vào trong giếng.

đ) Các sai số đo mực nước do giếng và cách khắc phục

Nguyên nhân gây ra sai số đo mực nước do giếng:

- Bùn cát lấp miệng ngoài của ống dẫn nước;

- Bùn cát lắng đọng nhiều trong đáy giếng;

- Con hà bám phủ các lỗ thông nước;

- Mật độ nước ở trong giếng và ngoài giếng không giống nhau do sự phân tầng lớp nước. Mật độ lớp nước mặt thấp hơn mật độ lớp nước dưới. Hiện tượng này thường gặp ở các cửa sông nhất là mùa mưa lũ;

- Khi có dòng chảy mạnh làm giảm áp lực xung quanh miệng ống dẫn nước và làm cho mực nước trong giếng bị tụt;

- Thành giếng bị nứt, hở gây rò rỉ và thẩm thấu nước từ các mạch ngầm;

- Giếng bị nghiêng lún, sụt.

Biện pháp khắc phục các sai số:

- Không xây dựng giếng đặt máy đo mực nước ở những nơi hay có bồi tụ, xói lở, gần cửa sông hay những nơi có dòng chảy xiết;

- Định kỳ ít nhất 3 tháng 1 lần kiểm tra miệng ngoài của ống dẫn nước, nếu có hà và rác bám vào thì phải tẩy rửa. Kiểm tra đáy giếng, nếu có bùn cát bồi lắng thì phải nạo vét.

e) Kiểm tra độ chính xác và mức độ lưu thông của giếng

Giếng có độ lưu thông tốt và độ chính xác cao khi mực nước trong giếng và ngoài giếng chênh nhau không quá 1cm. Để xác định mức chênh lệch này ta tiến hành quan trắc song song mực nước trong giếng và ngoài giếng. Chọn thời điểm quan trắc vào những ngày thời tiết tốt, không có gió, không có sóng, mặt nước tương đối phẳng lặng. Mực nước bên ngoài quan trắc bằng thủy chí (cọc), bên trong bằng máy đo mực nước. Khoảng thời gian quan trắc là trọn một chu kỳ triều và quan trắc từng giờ một. Chênh lệch mực nước có giá trị dương nếu số đọc trên thủy chí lớn hơn số đọc trên máy và có dấu âm trong trường hợp ngược lại. Tính mức chênh lệch trung bình bằng cách cộng tất cả các giá trị chênh lệch và chia cho số lần quan trắc. Nếu mức chênh lệch trung bình có giá trị không quá 1 cm là giếng đặt máy đo mực nước rất tốt. Nếu mức chênh lệch trung bình quá 5 cm là giếng không bảo đảm yêu cầu kỹ thuật, cần tìm ra các nguyên nhân gây ra sai số và có biện pháp khắc phục.

3.5 Nội dung và giờ quan trắc mực nước biển

3.5.1 Quan trắc mực nước biển bằng thủy chí hoặc tuyến cọc

a) Quan trắc mực nước bằng thủy chí

- Hàng ngày quan trắc mực nước 4 lần bằng thủy chí vào 01, 07, 13, 19 giờ.

- Đọc với độ chính xác tới 1 cm, tức là khi các khoảng chia thuỷ chí 2 cm thì độ chính xác tới nửa khoảng chia.

- Muốn đọc mực nước ở thủy chí, quan trắc viên phải nhìn thẳng vào thủy chí đọc vạch chia ở sát mặt nước. Khi không có sóng (xem Hình 4a, 4b), mực nước nằm tại vạch khắc nào, lấy trị số của vạch khắc đó làm số đọc.



Hình 4: Số đọc mực nước ở thuỷ chí Hình 5: Đọc mực nước khi có sóng

Nếu mực nước ở giữa hai vạch của thủy chí thì quy tròn đến 1 cm (xem Hình 4c), cách quy tròn như sau:

+ Số lẻ < 0,5 độ chính xác thì bỏ phần lẻ, giữ nguyên trị số hàng đơn vị (ví dụ: mực nước nằm ở vị trí 23,4 cm, lấy số đọc 23 cm);

+ Số lẻ 0,5 độ chính xác thì bỏ phần lẻ, tăng thêm 1 vào hàng đơn vị (ví dụ: mực nước nằm ở vị trí 23,6 cm , lấy số đọc 24 cm).

Khi có sóng, mực nước phải được đọc vào các thời điểm đỉnh sóng và chân sóng liền kề đi qua. Phải quan trắc 3 cặp (đỉnh sóng, chân sóng), giá trị trung bình của 6 lần đọc là số đọc mực nước tại kỳ quan trắc này (xem Hình 5).

b) Quan trắc mực nước bằng cọc

- Muốn đo mực nước ở cọc (xem Hình 6), đúng giờ quy định, quan trắc viên phải đặt thước đo nước cầm tay cho thẳng đứng trên đầu cọc gần nhất bị ngập nước từ 10 cm trở lên, mặt rộng của thước dọc theo luồng nước, mã vạch số hướng về người quan trắc. Nếu không trông thấy cọc thì phải dò cho đúng đầu cọc và gõ cho biết chắc chắn là đã chạm đầu cọc và đặt thước thẳng đứng xuống đúng đầu cọc. Cách đọc như cách đọc mực nước trên thuỷ chí.



Hình 6: Tuyến cọc đo mực nước biển

Khi có sóng, cách đọc mực nước như cách đọc mực nước trên thuỷ chí khi có sóng.

- Khi cọc làm lại, chưa ổn định, hoặc tuyến cọc bị tàu thuyền đâm, va, nghi có biểu hiện lún, nghiêng thì phải đọc mực nước kiểm tra giữa hai cọc kề nhau, phải cùng một lúc đọc được số đọc ở cọc đang quan trắc và cọc sắp quan trắc. Nếu mực nước quan trắc ở hai cọc không khớp nhau, phải tìm nguyên nhân, đọc lại hoặc dẫn lại độ cao đầu cọc.

- Khi đọc mực nước trên đầu cọc thấp hơn 10 cm thì phải chuyển đo ở cọc dưới.



3.5.2 Quan trắc mực nước bằng máy tự ghi mực nước CYM

a) Đánh mốc trên giản đồ vào đúng giờ tròn 1, 7, 13, 19 giờ. Đánh mốc trên giản đồ bằng cách gạt nhẹ cần bút hay quay bánh xe phao một chút để ngòi bút vạch thành một vạch thẳng đứng 2-3 mm về hai phía, xong nhấc bút để tạo một sự ngắt quãng trên đường tự ghi trong thời điểm kiểm tra, đồng thời ghi vào sổ quan trắc trị số chênh lệch mực nước giữa thủy chí và máy tự ghi.

Thời gian đánh mốc phải đúng giờ tròn theo đồng hồ quan trắc viên. Số đọc trên thủy chí kiểm tra và ngòi bút ghi trên giản đồ cùng với số đọc trên vòng chia độ của máy tự ghi, số đọc trên thước thẳng đứng có chia độ phải phù hợp với nhau.

b) Thay giản đồ một lần trong ngày vào lúc 7 giờ sáng. Thời gian thay giản đồ không được lâu quá 5 phút. Nếu quá thì đọc thủy chí thêm một lần nữa và đánh mốc thêm. Trên giản đồ của ngày trước phải ghi tên người thay giản đồ, thời gian (giờ, phút) tháo giản đồ và đọc mực nước trên thủy chí, ứng với lúc nhắc ngòi bút ra khỏi giản đồ. Trên giản đồ mới phải ghi tên trạm, ngày, tháng, năm, tên người lắp giản đồ, thời gian lắp giản đồ (giờ, phút). Sau đó quấn giản đồ vào ống trụ và kẹp giản đồ cẩn thận, xoay ống sao cho ngòi bút chỉ đúng vị trí tương ứng với số đọc mực nước trên thủy chí theo giờ của quan trắc viên. Khi lắp giản đồ, phải tránh để xô lệch, nhăn nheo.

c) Lên giây cót đồng hồ 2 lần vào hai ngày nhất định trong tuần.

Hướng dẫn sử dụng và bảo quản máy tự ghi mực nước CYM xem Phụ lục Đ, Quy phạm này.



3.5.3 Quan trắc mực nước bằng máy tự ghi mực nước Stevens A71

a) Đánh mốc trên giản đồ vào đúng giờ tròn 1, 7, 13, 19 giờ, đồng thời kiểm tra hoạt động của máy. Đánh mốc trên giản đồ thực hiện như máy CYM.

b) Theo định kỳ hàng tháng tiến hành cắt giản đồ đã ghi của các ngày qua đem về trạm để chỉnh lý, quy toán giản đồ:

- Đúng 8 giờ ngày 11 cắt giản đồ lần 1;

- Đúng 8 giờ ngày 21 cắt giản đồ lần 2;

- Đúng 8 giờ ngày 01 tháng tiếp theo cắt giản đồ lần 3.

Cách tháo, cắt giản đồ xem Phụ lục E, Quy phạm này.

c) Thay giản đồ mới khi giản đồ đang sử dụng sắp hết (xem Phụ lục E).

Thực hiện thay giản đồ mới khi giản đồ đang sử dụng sắp hết. Thời gian thay giản đồ không được lâu quá 5 phút. Nếu quá thì đọc thủy chí thêm một lần nữa và đánh mốc thêm.

d) Lên giây cót đồng hồ 3 tháng 1 lần (xem Phụ lục E).

Hướng dẫn sử dụng và bảo quản máy tự ghi mực nước Stevens A71 xem Phụ lục E, Quy phạm này.

3.5.4 Ghi, chỉnh lý sơ bộ số liệu quan trắc mực nước

a) Đối với quan trắc mực nước bằng thủy chí hay tuyến cọc:

- Quan trắc viên phải chỉnh lý sơ bộ số liệu mực nước đo được sau khi quan trắc, việc chỉnh lý sơ bộ số liệu quan trắc phải tuân thủ theo quy định ở Khoản a, Điều 1.10.2, Quy phạm này;

- Ghi vào sổ SHV-1 khuynh hướng thuỷ triều, số hiệu thuỷ chí (cọc), giờ làm, số đọc theo thuỷ chí (cọc) của các lần đọc;

- Tính giá trị mực nước trung bình từ ba lần đo;

- Xác định hiệu chính của thủy chí (cọc);

- Quy số đọc mực nước về "0" trạm bằng cách cộng thêm (nếu số hiệu chính là dương) hoặc trừ đi (nếu số hiệu chính là âm) số hiệu chính đó vào số đo mực nước;

- Kiểm tra tính đúng và hợp lý của số liệu: Căn cứ vào kết quả quan trắc của các kỳ quan trắc trước liền kề và tốc độ, xu thế lên xuống của mực nước (cường suất triều) để kiểm tra tính đúng và hợp lý. Kiểm tra xem mỗi kỳ quan trắc đã quan trắc đủ 3 lần chưa (mỗi lần một đỉnh sóng và một chân sóng liên tiếp), mỗi một lần đo thì trị số đọc của đỉnh sóng bao giờ cũng phải lớn hơn hoặc bằng trị số đọc của chân sóng.

Cách ghi kết quả quan trắc vào sổ SHV-1 phải tuân thủ theo quy định ở Điều 1.10.1 và Mục 9.1, 9.2, Quy phạm này.

b) Đối với trạm có quan trắc mực nước bằng máy tự ghi:

Tiến hành chỉnh lý, quy toán giản đồ:

- Chỉnh lý, quy toán giản đồ CYM (xem Phụ lục Đ);

- Chỉnh lý, quy toán giản đồ Stevens A71 (xem Phụ lục E).

Sau khi chỉnh lý, quy toán giản đồ, số liệu mực nước trên giản đồ được ghi vào bảng BHV-2. Cách ghi số liệu quan trắc vào bảng BHV-2 phải tuân thủ theo quy định ở Mục 9.1, 9.3, Quy phạm này.



3.5.5 Bảo quản các công trình đo mực nước biển

a) Bảo quản hệ thống mốc độ cao

Công tác bảo quản mốc xem Phụ lục B, Quy phạm này.

b) Bảo quản tuyến thủy chí, tuyến cọc:

- Thủy chí thường bị cáu bẩn và có hà, rong rêu bám những chỗ tiếp xúc mực nước, gây khó khăn cho việc đọc số. Vì vậy, trạm phải thường xuyên rửa thủy chí bằng nước ngọt (không dùng xà phòng vì khi gặp nước mặn xà phòng càng dễ làm bẩn mặt thủy chí);

- Do tác dụng phụ của nước biển, vạch kẻ có màu sơn của thủy chí gỗ dần dần mờ đi. Vì vậy, phải chờ lúc nước xuống, sơn lại hoặc thay hẳn thủy chí mới;

- Thước đo cầm tay phải giữ gìn sạch sẽ, luôn luôn rửa bằng nước ngọt và xà phòng. Khi vạch kẻ sơn bị mờ thì phải sơn lại;

- Khi thủy chí (cọc) bị lung lay, nghiêng ngả hoặc bị hư hỏng thì phải tiến hành sửa chữa ngay, sau khi thay các thủy chí, cọc phải đo dẫn về mốc độ cao để xác định số hiệu chính thủy chí, cọc;

- Các kết quả đo dẫn độ cao trước và sau khi sửa phải ghi vào sổ, bảng và hồ sơ kỹ thuật của trạm. Tên, ký hiệu thủy chí, cọc sửa lại được ghi theo quy định tại Khoản b, Điều 3.4.3, Quy phạm này.

c) Bảo quản nhà và giếng đặt máy đo mực nước:

- Phải thường xuyên kiểm tra và giữ cho nhà đặt máy đo mực nước, sàn giếng sạch sẽ, nhà không bị thấm, dột;

- Công tác bảo quản giếng đặt máy đo mực nước xem Phụ lục G, Quy phạm này;

- Khi có những hiện tượng khí tượng thuỷ văn nguy hiểm như bão lớn, sóng to, xói lở mạnh... thì phải bám sát theo dõi khả năng chịu đựng của công trình, nếu thấy có khả năng làm hỏng, sập nhà hoặc ngập giếng thì phải tháo dỡ di chuyển máy.


Каталог: Lists -> vbpq -> Attachments
Attachments -> TỈnh bến tre độc lập Tự do Hạnh phúc
Attachments -> Ban hành kèm theo Thông tư số: 29/2004/tt-btnmt
Attachments -> BỘ y tế CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
Attachments -> BỘ TƯ pháp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
Attachments -> PHỤ LỤC: MẪu văn bảN Áp dụng thống nhất trong công tác bổ nhiệM (Ban hành kèm theo Thông tư số 09/2012/tt-btp ngày 01 tháng 9 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) Mẫu số: 01/bncb
Attachments -> PHỤ LỤc I khung thời gian trích khấu hao các loại tài sản cố ĐỊNH
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI
Attachments -> UỶ ban nhân dân tỉnh sơn la cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> PHỤ LỤc số I mẫu phiếu nhận hồ SƠ

tải về 0.52 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương