Chương 1 CƠ SỞ LÝ luận về du lịch và MÔi trưỜng lý luận chung 1 Du lịch


Hình 3.4. Những loài thú đặc hữu của Australia - Koala va chó hoang Dingo



tải về 2.88 Mb.
trang5/8
Chuyển đổi dữ liệu15.01.2018
Kích2.88 Mb.
#36057
1   2   3   4   5   6   7   8
Hình 3.4. Những loài thú đặc hữu của Australia - Koala va chó hoang Dingo

Khung 3.1. Vườn Quốc gia Everglades

Vườn Quốc gia Everglade ở Mỹ được thành lập từ rất sớm, vào năm 1934. Vườn Quốc gia này nằm sát phía nam bang Florida. Với diện tích 610.204ha, Everglades là khu rừng nguyên sinh á nhiệt đới lớn nhất Mỹ, trải dài từ thành phố Everglades tới tận điểm cực nam của Mỹ, mũi Sable. Vườn Quốc gia Everglades bao gồm cả hai hệ sinh thái nước mặn lẫn nước ngọt, do đó mức độ đa dạng sinh học rất cao. Ðây là địa bàn cư trú của nhiều loài thực vật (bách, sồi ...), động vật (gấu, rái cá ...) và chim (mòng két, cò quăm, diệc ...). Ðặc biệt ở phía tây Vườn Quốc gia là một cụm đảo có tên là Vạn đảo (Ten Thousand Islands). Quả đúng như với cái tên của nó, khu di sản thiên nhiên này có hơn chín nghìn hòn đảo với các kích cỡ khác nhau và hệ động thực vật vô cùng phong phú. Với độ đa dạng sinh học cao lại nằm rải trên một quần thể đảo có mật độ dày đặc, Vườn Quốc gia Everglade đã được ghi tên vào Danh sách Di sản thiên nhiên thế giới, đồng thời cũng là khu dự trữ sinh quyển thế giới và khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế.



Ngoài những tour tham quan dã ngoại thông thường, Ban quản lý Vườn Quốc gia Everglades đã tổ chức nhiều tuyến du lịch trong vườn bao gồm các tour đi bộ đường dài, tour mạo hiểm, đặc biệt nhất là tour kết hợp đi canô, đi bộ dường dài và mạo hiểm trên quãng đường 160km kéo dài từ thành phố Everglades tới khu Flamingo. Mỗi năm có tới hàng chục vạn du khách đến với Everglades và tham gia những tour du lịch đặc sắc trong Vườn Quốc gia. Ðây là một điểm đến lý tưởng của những người yêu thích thiên nhiên.

(Nguồn: Du lịch bền vững UNEP, 2004)

Trong phát triển du lịch, các vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên có ý nghĩa rất lớn vì ở đó có sự tập trung đa dạng sinh học cao với nhiều loại động thực vật đặc hữu, quý hiếm. Tính đến năm 2006, nước ta đã thành lập 29 vườn Quốc gia, gần 100 khu bảo tồn thiên nhiên, khu văn hóa lịch sử, bảo tồn loài hoặc cảnh quan đặc biệt. Trong đó, có 2 di sản thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận là vịnh Hạ Long và Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; 4 khu dự trữ sinh quyển của thế giới là: rừng ngập mặn Cần Giờ, rừng Cát Tiên, quần đảo Cát Bà và vùng ngập nước ven châu thổ Sông Hồng. Hiện nay 7 khu dự trữ sinh quyển (DTSQ) là: Bái Tử Long, khu DTSQ miến Tây Thanh Hóa, miền Tây Nghệ An, Vũ Quang - Kẻ Gỗ, Bạch Mã- Hải Vân, Cù Lao Chàm- Hội An đang trong giai đoạn hoàn tất hồ sơ để được thế giới công nhận.

Bảng 3.5. Các vườn quốc gia của nước ta tính đến năm 2006

TT

Tên

Địa điểm

Diện tích (ha)

Năm thành lập

Đặc điểm đặc trưng

1

Ba Bể

Bắc Cạn

7.610

1992

Rừng, hồ trên núi. Voọc mũi hếch

2

Ba Vì

Hà Tây

7.377

1991

Rừng á nhiệt đới

3

Bạch Mã

Thừa Thiên Huế

22.031

1991

Rừng á nhiệt đới miền Trung. trĩ sao, voọc chà vá.

4

Bái Tử Long

Quảng Ninh

15.783

2001

Rừng trên đảo

5

Bến En

Thanh Hóa

38.153

1992

Rừng nhiệt đới thường xanh

6

Cát Bà

Hải Phòng

15.200

1986

Rừng nhiệt đới trên núi đá vôi

7

Cát Tiên

Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước

73.878

1992

Rừng Đông Nam Bộ. Voi, cá sấu, ngan cánh trắng

8

Côn Đảo

Bà Rịa Vũng Tàu

19.998

1993

Rừng trên đảo. Động vật biển

9

Cúc Phương

Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa

22.200

1962

Rừng trên núi đá vôi. Voọc mông trắng

10

Chư Mom Ray

Kon Tum

56.621

2002

Các kiểu rừng khu vực Đông Dương

11

Chư Yang Sin

Đắc Lắc

58.947

2002

Rừng trên núi cao Tây Nguyên

12

Hoàng Liên Sơn

Lào Cai

29.845

2002

Rừng á nhiệt đới

13

Xa Mát

Tây Ninh

18.756

2002

Rừng chuyển tiếp

14

Phù Mát

Nghệ An

91.113

2001

Các kiểu rừng miền Trung

15

Phong Nha - Kẻ Bàng

Quảng Bình

85.754

2001

Các kiểu rừng miền Trung. Thú linh trưởng, mang lớn

16

Phú Quốc

Kiên Giang

31.422

2001

Rừng trên đảo

17

Tam Đảo

Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên

36.883

1996

Rừng á nhiệt đới, sam bông. Voọc mũi hếch, voọc đen.

18

Tràm chim

Đồng Tháp

7.588

1998

Rừng tràm. Sếu đầu đỏ

19

U Minh Thượng

Kiên Giang

8.053

2002

Rừng tràm

20

Vũ Quang

Hà Tĩnh

55.029

2002

Rừng Bắc Trường Sơn

21

Xuân Sơn

Phú Thọ

15.045

2002

Rừng kín thường xanh, cây họ dầu.

22

Yok Đôn

Đắc Lắc

58.200

1992

Rừng khộp. Voi, bò rừng, bò tót.

23

Bù Gia Mập

Bình Phước

26.032

2002

Rừng nhiệt đới ẩm.

24

Kôn Ka Kinh

Gia Lai

41.780

2002

Rừng kín thường xanh mưa nhiệt đới

25

Xuân Thủy

Nam Định

7.100

2003

Rừng ngập mặn. Chim nước di trú.

26

Núi Chúa

Ninh Thuận

29.865

2003

Rừng khô Nam Trung Bộ

27

Đất Mũi

Cà Mau

41.000

2003

Rừng ngập mặn

28

U Minh Hạ

Cà Mau

8.286

2006

Rừng tràm trên đất than bùn

29

Phước Bình

Ninh Thuận

19.814

2006

Rừng nhiệt đới, rừng khô hạn

(Nguồn: Hội các vườn quốc gia Việt Nam, 2006)

Một trong những mục tiêu xây dựng hệ thống v­ườn quốc gia nói trên là bảo vệ các khu cảnh quan tự nhiên, phục vụ mục đích khoa học, giáo dục và du lịch sinh thái.

Bốn trong số 26 vườn quốc gia của Việt Nam được công nhận là vườn di sản ASEAN vào năm 2004 gồm: Ba Bể, Chư Mom Ray, Hoàng Liên Sơn và Kon Ka Kinh. Đây là những vườn vừa đảm bảo những mục tiêu trên, vừa đảm bảo các tiêu chí về tính tự nhiên, hoang dã, tính nguyên vẹn về hệ sinh thái, sự đa dạng và các giá trị nổi bật của quần thể nhằm bảo tồn các sinh vật quý hiếm ở khu vực Đông Nam Á.

3.1.2. Chất lượng môi trường tự nhiên và các hoạt động du lịch

Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy ngày càng có nhiều du khách đổ về các địa phương có môi trường tự nhiên trong lành để nghỉ ngơi, thư giãn và hoà mình với thiên nhiên. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi cả thế giới cùng hướng đến sự phát triển bền vững và ngày càng có nhiều người tìm đến các loại hình du lịch bền vững dựa vào thiên nhiên thì môi trường tự nhiên càng trở nên quan trọng hơn đối với sự phát triển của du lịch.

Tuy nhiên, du lịch cũng rất nhạy cảm với chất lượng của môi trường tự nhiên. Sự suy thoái chất lượng môi trường tự nhiên của một điểm du lịch chắc chắn sẽ kéo theo sự suy giảm về số lượng du khách đến đây. Chính vì vậy, các mức độ thích hợp của chất lượng và sự duy trì của chất lượng môi trường tự nhiên phải được xét đến khi tiến hành quy hoạch nhằm đảm bảo tính bền vững của khu du lịch. Việc tổ chức các hoạt động du lịch cũng cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng về chất lượng của từng yếu tố cấu thành nên môi trường tự nhiên. Đối với du lịch, các thành phần chủ yếu của chất lượng môi trường tự nhiên cần được xem xét bao gồm: môi trường địa chất, môi trường nước, môi trường không khí và môi trường sinh học.

3.1.2.1. Chất lượng môi trường địa chất

Môi trường địa chất là một tập hợp các thành tố địa chất của môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như cấu trúc địa chất, các hoạt động kiến tạo, tân kiến tạo, địa động lực. Hiện tại, hoạt động động đất, các quá trình vôi hoá, phong hoá và các tai biến địa chất khác ảnh hưởng đến môi trường như xâm thực, trượt lở, nứt đất, núi lửa ... Có thể xem môi trường địa chất là phần cơ sở nền rắn của môi trường chung với các đặc tính và chất lượng của địa chất liên quan đến mục đích xây dựng, bố trí dân cư, phát triển các ngành kinh tế bao gồm cả kinh tế du lịch trong một không gian sử dụng nhất định nào đó (Phạm Trung Lương, 2000).

Trong du lịch, chất lượng của môi trường địa chất đã được nghiên cứu, đánh giá phục vụ cho mục đích du lịch như:



  • Thiết kế cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch như đường sá, bãi đậu xe, bến tàu, cầu cống, các công trình cấp thoát nước...

  • Thiết kế các công trình xây dựng như khách sạn, khu mua sắm, khu vui chơi, giải trí ... cho du khách,

  • Xây dựng các tuyến và điểm du lịch.

Các biến động hay tính bất ổn về môi trường địa chất của một khu vực như mức độ hoạt động địa chấn cao và các đứt gãy về địa chấn cũng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của khu du lịch. Đặc biệt là các tai biến môi trường liên quan đến địa chất thường dẫn đến những hậu quả khó lường cho du lịch.

Khung 3.2. Hoạt động của núi lửa Soufriere Hills và du lịch ở đảo Montserrat

Du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của cộng đồng dân cư sống trên đảo Montserrat, vùng Caribê. Nhiều cảnh quan hấp dẫn, khí hậu mát mẻ của hòn đảo đã thu hút rất nhiều du khách đến tham quan hàng năm. Vùng phía bắc của Montserrat còn được xem như là một điển hình rõ nét trong khu vực về loại hình du lịch sinh thái. Tuy nhiên, vào năm 1997, ngọn núi lửa Soufriere Hills vốn đã nằm im lâu nay đột nhiên hoạt động trở lại. Dòng nham thạch nóng bỏng đã làm chết 19 người và tro tàn bao phủ gần 2/3 diện tích của hòn đảo bao gồm cả thủ phủ Plymouth. Sau thảm hoạ, ngành du lịch và nền kinh tế ở đây suy thoái một cách nhanh chóng. Sự cố này không chỉ gây ra những tác động nghiêm trọng trực tiếp mà còn để lại những tác động rất lâu dài. Phải mất một thời gian khá lâu để môi trường du lịch tự nhiên ở đây có thể hồi phục lại trạng thái tương tự như trước đây. Chính quyền địa phương cũng như các tổ chức quốc tế đang nỗ lực khôi phục lại ngành du lịch ở đây thông qua nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có cả việc thành lập một cơ quan chuyên trách riêng về dự báo sớm hoạt động của núi lửa. Tuy nhiên nhiều du khách vẫn còn ngần ngại khi phải đối mặt với nguy cơ phun trào trở lại của núi lửa vào bất cứ lúc nào.



(Nguồn: Du lịch và môi trường - UNEP, 2003)



Hình 3.5. Hoạt động của núi lửa Soufriere Hills

3.1.2.2. Chất lượng môi trường nước

Môi trường nước là một bộ phận cấu thành quan trọng của môi trường tự nhiên, có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của sự sống và các hoạt động kinh tế xã hội, trong đó có du lịch. Các biến động về môi trường nước ở một khu du lịch thường kéo theo nhiều sự thay đổi về sức hấp dẫn của du lịch.

Các yếu tố về chất lượng môi trường nước có vai trò to lớn đối với các khu du lịch nói chung và các hoạt động du lịch nói riêng. Như đã trình bày trên đây, nước có ảnh hưởng quan trọng đến du lịch trong những điều kiện nhất định, đặc biệt là nhiệt độ và chất lượng nước. Trong nhiều trường hợp, sự suy thoái chất lượng nước của một điểm du lịch, cho dù là nước sinh hoạt, hay nước phục vụ cho các dịch vụ vui chơi giải trí, đều gây ra nhiều hậu quả xấu cho du lịch. Ngay cả những môn thể thao dưới nước cũng yêu cầu phải có những nguồn nước sạch để đảm bảo vệ sinh và tạo cảm giác thoải mái cho du khách.



Khung 3.3. Thắng cảnh Đà Lạt đang bị "bức tử"

Nhiều thắng cảnh ở Đà Lạt đã không còn thơ mộng như xưa mà đang chịu cảnh ô nhiễm môi trường hoặc bị người dân lấn chiếm làm nhà ở, trồng trọt ... Càng về phía hạ nguồn càng nhiều đất bị khai phá làm mất đi vẻ tự nhiên của thắng cảnh.

Điển hình là thác Cam Ly. Thác nằm trên dòng suối Cam Ly, cách trung tâm thành phố 2km về hướng nam. Thác Cam Ly có rất nhiều truyền thuyết gắn liền với đời sống và các cuộc đấu tranh của đồng bào dân tộc bản địa. Trong quá khứ, đây là một thắng cảnh rất nổi tiếng. Hàng năm rất nhiều du khách đổ về đây để thưởng thức phong cảnh tuyệt đẹp với nhiều rừng cây bao quanh thác nước. Tuy nhiên gần đây, dòng thác Cam Ly đã mất đi vẻ thơ mộng vốn có. Nhiều dòng suối đổ về đây nằm ngay trên một cái chợ tự phát và rác thải từ các chợ này vô tư đổ về thác Cam Ly làm thác bốc mùi hôi thối nồng nặc. Hiện nay, điểm du lịch lý tưởng này mỗi ngày chỉ đón một vài vị khách tò mò đến tham quan. Nếu không có dự án xử lý nguồn nước thải, thác Cam Ly sẽ khó có thể trở lại thời kỳ vàng son trong quá khứ để phục vụ du khách.

Cái tên duyên dáng "Thung lũng Tình Yêu" ngày nào giờ đây trở thành nơi mua bán lộn xộn như chợ. Trong khuôn viên hồ Đa Thiện, người ta đã be bờ ngăn nước nên khu hồ rộng mênh mông bị án ngữ một "công trình" như đìa tôm.

Khuôn viên hồ Than Thở cũng nồng nặc mùi nước thải và phân của những chú ngựa làm dịch vụ du lịch tại đây. Người ta còn cho phép xây dựng nhiều "chòi" bán hàng lưu niệm, cà phê, cho dù ngoài bãi giữ xe trước cổng đã có hơn 20 gian hàng bày bán đủ loại.

(Nguồn: www.vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2004/10/)


3.1.2.3. Chất lượng môi trường không khí

Hoạt động sống và sản xuất của con người trên trái đất liên quan chặt chẽ đến môi trường không khí. Môi trường không khí là một bộ phận của môi trường tự nhiên tồn tại ở thể bụi hay khí. Những biến đổi của các yếu tố môi trường không khí như sự biến động của chế độ nhiệt, mưa - ẩm, gió … gây ra nhiều sự biến động đến đời sống và sản xuất trên hành tinh với những hậu quả nặng nề như nạn cháy rừng, mưa lũ, bão tố, lụt lội, … do El Nino và La Nina gây ra trên nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn của trái đất.

Đối với du lịch, môi trường không khí ảnh hưởng đến việc quy hoạch các khu du lịch nghỉ dưỡng, đến tổ chức mùa vụ khai thác du lịch … Các yếu tố của môi trường không khí như chế độ nhiệt, mưa - ẩm, gió … có vai trò khá lớn trong việc xây dựng các kiến trúc cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật của khu du lịch, quyết định hướng quy hoạch của khu du lịch, bố trí không gian và phác đồ kiến trúc các quần thể du lịch.

Sự ô nhiễm môi trường không khí cho dù ở thể khí, bụi hay tiếng ồn cũng đều ảnh hưởng tức thời và nghiêm trọng đến hình ảnh và sự phát triển của một khu du lịch. Do vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí cần phải được quan tâm trong các hoạt động phát triển du lịch, đặc biệt đối với các khu du lịch nằm ở thung lũng hay gần các khu công nghiệp và các mỏ khai thác khoáng sản.



Khung 3.4. Du lịch và ô nhiễm không khí ở thung lũng Kathmandu, Nepal

Trong những năm gần đây, ô nhiễm không khí đang ngày một gia tăng làm suy thoái chất lượng môi trường ở thung lũng Kathmandu. Sự gia tăng ô nhiễm xảy ra do tốc độ đô thị hoá nhanh, dân số tăng nhanh, sự phát triển công nghiệp ở ngay trung tâm thung lũng và sự gia tăng các phương tiện giao thông trên những con đường chật hẹp. Đặc biệt, địa hình giống như môt cái bát của thung lũng càng làm cho vấn đề thêm trầm trọng mỗi khi hiện tượng nghịch đảo nhiệt xảy ra. Trong trường hợp này, không khí ô nhiễm ở thung lũng không thoát ra bên ngoài được

Ô nhiễm không khí Kathmandu gây nhiều thiệt hại cho các công trình di tích lịch sử và di sản văn hoá ở đây. Các chất khí SO2 và NO2 kết hợp với nước tạo ra các axít huỷ hoại các công trình điêu khắc bằng gỗ, đá và các vật khảm tinh xảo bằng kim loại bọc bên ngoài các di tích lịch sử. Các thiệt hại về di sản văn hoá này không chỉ ảnh hưởng đến niềm tự hào về quá khứ của người dân địa phương mà còn gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với ngành du lịch, một ngành có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế Kathmandu.

Vào những năm đầu thập niên 1990, tổng thu nhập ngoại tệ của Kathmandu từ du lịch vào khoảng 60 triệu đôla Mỹ/năm. Tuy nhiên, theo ước tính của chính quyền địa phương, việc ô nhiễm không khí có thể làm giảm khoảng 10% thu nhập từ du lịch, tương đương với 6 triệu đôla Mỹ/năm. Đối với một nước nghèo như Nepal đang có cán cân tài chính chi nhiều hơn thu thì thiệt hại này là rất đáng kể. Ngoài ra, các chi phí cho sức khoẻ người dân do các bệnh liên quan đến ô nhiễm không khí cũng làm hao tốn hàng triệu đôla mỗi năm.



(Nguồn: The National View of Air Pollution - UNDP, 2000)

3.1.2.4. Chất lượng môi trường sinh học

Chất lượng môi trường sinh học của một điểm du lịch liên quan chặt chẽ đến đa dạng sinh học. Như đã trình bày trên đây, tính đa dạng sinh học và tính đặc hữu cao của một điểm du lịch là một trong những yếu tố quan trọng thu hút được nhiều du khách. Ngoài ra cũng phải tính đến chất lượng an toàn về môi trường sinh học của nơi du khách đến và lưu lại.

Các điểm du lịch ở các khu bảo tồn, các vườn quốc gia thường là những nơi tiềm ẩn nhiều nguy cơ độc hại từ các loại côn trùng độc, rắn độc, cá độc ... có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của du khách. Ngoài ra, các loài động vật hoang dã nguy hiểm cũng là những mối đe doạ tiềm ẩn đối với sự an toàn của du khách. Một số loài cá mập ở các bãi biển, cá sấu ở một số khu thiên nhiên hoang dã, và nhiều động vật ăn thịt hung dữ khác ở các khu bảo tồn thiên nhiên có thể tấn công du khách vào bất cứ lúc nào. Các loài chuột bọ, ruồi, muỗi… cũng có thể gây cho họ các bệnh nguy hiểm như sốt rét, sốt xuất huyết, dịch tả, dịch hạch… Thêm vào đó, các ổ dịch ở địa phương như dịch sars, dịch cúm gà… cũng gây ra những tác động rất xấu đến du lịch.





Khung 3.5. Cúm gà đe dọa ngành du lịch

Dịch cúm gà đang lan rộng tại Việt Nam đã ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế Việt Nam trong đó có ngành du lịch. Nhiều công ty dịch vụ du lịch đang lo lắng từng ngày trước cảnh khách ngoại quốc hủy chuyến tham quan, đặc biệt là ở Hà Nội.

Vnexpress ngày 16/11/2005 cho hay, suốt một tuần qua, công ty Cổ phần Du lịch Việt Hà Nội đã không ký được hợp đồng nào với khách nước ngoài. Thư mời đặt tour không được hồi âm. Một số hãng lữ hành bắt đầu lo lắng lên kế hoạch trong trường hợp dịch cúm gia cầm lan rộng. Trưởng phòng thị trường công ty Cổ phần Du lịch Việt cho biết: “Thời điểm này tháng trước, khách quốc tế rất đông, chúng tôi không đủ khả năng đáp ứng. Nhưng nay thì chỉ còn khách nội địa đặt tour. Công ty đã gửi một số chương trình du lịch mới tới đối tác nước ngoài, nhưng không thấy hồi âm. Nếu dịch cúm gà tiếp tục lan rộng, chúng tôi sẽ thả nổi thị trường khách quốc tế trong dịp cuối năm”.

Tại Công ty Du lịch Việt Nam, từ đầu tháng, một số khách quốc tế đã thông báo hủy tour. Mặc dù khách không thông báo cụ thể nguyên nhân hủy tour là do cúm gia cầm, nhưng trưởng phòng thị trường vẫn tỏ ra khá lo âu trước diễn tiến phức tạp của dịch bệnh. Bà cho biết “Hiện nay đang là mùa du lịch cao điểm của khách quốc tế. Cúm gia cầm xuất hiện đã tác động mạnh đến tâm lý khách hàng. Một số đối tác đã tỏ ý dè dặt, tham khảo kỹ thông tin về dịch cúm, chứ không đăng ký tour ngay như trước đây”.



(Nguồn: Tổng hợp theo www.vnexpress.net và www.vnn.vn)

3.2. Môi trường văn hoá - xã hội, nhân tạo và các hoạt động du lịch

3.2.1. Cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật

Theo Goeldner cùng các cộng sự (2000), trong du lịch cần phân biệt cơ sở hạ tầng (infrastructure) phục vụ cho đời sống dân cư địa phương và cơ sở vật chất (superstructure) phục vụ cho du khách. Cho dù cũng quan trọng đối với du khách nhưng các cơ sở hạ tầng như: giao thông, hệ thống cấp thoát nước, bưu chính viễn thông, các cơ sở thương mại (siêu thị, chợ và cửa hàng bán lẻ)... là những cơ sở phục vụ chủ yếu cho đời sống thường ngày của cư dân địa phương. Trong khi đó, những cơ sở vật chất kỹ thuật như khách sạn, nhà hàng, các trung tâm hội nghị, các khu nghỉ mát ... chủ yếu là để phục vụ du khách.

Mặc dù được xây dựng chủ yếu để phục vụ cho dân cư địa phương nhưng các cơ sở hạ tầng cũng là một nhân tố quan trọng trong phát triển du lịch. Sẽ rất không thuận lợi đối với các hoạt động du lịch trong điều kiện cơ sở hạ tầng nghèo nàn, kém phát triển. Vai trò của hệ thống cơ sở hạ tầng đối với các hoạt động du lịch thể hiện ở chỗ:


  • Tạo điều kiện tiếp cận dễ dàng cho khách du lịch đến khu du lịch,

  • Tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao tiếp, trao đổi thông tin cho du khách khi họ rời xa nơi cư trú thường xuyên của mình,

  • Tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty du lịch khai thác các tiềm năng tài nguyên du lịch,

  • Cung cấp điện, nước và các nhu cầu không thể thiếu khác cho các hoạt động du lịch.

Đối với cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm cơ sở lưu trú và cơ sở dịch vụ du lịch, do mục đích phục vụ cho du khách nên những cơ sở này thường mang tính định hướng cao theo nhu cầu và sở thích của du khách hơn là theo mong muốn của người dân địa phương. Những điểm du lịch có các cơ sở lưu trú được thiết kế theo kiến trúc địa phương và hài hoà với cảnh quan môi trường xung quanh thường hấp dẫn du khách nhiều hơn là những khách sạn hiện đại mà du khách đã quá quen thuộc ở đất nước của họ. Tuy nhiên, cũng cần phải quan tâm đến các tiện nghi và trang trí nội thất bên trong các cơ sở lưu trú để đảm bảo sự thoải mái của du khách khi họ lưu lại tại điểm du lịch.

Các cơ sở và các hoạt động dịch vụ cũng phải thực sự đa dạng để thu hút du khách. Một trong những nhân tố quan trọng các công ty quảng bá du lịch đưa ra là những hoạt động và dịch vụ mà du khách sẽ có dịp thưởng thức ở một điểm du lịch. Các hoạt động và dịch vụ càng da dạng, điểm du lịch càng hấp dẫn đối với du khách vì họ có nhiều sự lựa chọn. Ngoài ra, các vấn đề liên quan như tổ chức quản lý, quy hoạch, nét thẩm mỹ văn hoá trong các cơ sở và hoạt động dịch vụ phải được phát huy tối đa nhằm tôn tạo các giá trị của các điểm di tích, các di sản văn hoá truyền thống và các danh lam thắng cảnh.

Các dịch vụ mua sắm cũng là một hoạt động quan trọng quyết định sự thành công của một điểm du lịch. Yếu tố quan trọng nhất trong dịch vụ mua sắm ở một điểm du lịch chính là sự đa dạng của các sản phẩm địa phương và tính xác thực của chúng. Du khách thường ưa chuộng các đồ vật do chính địa phương sản xuất để làm lưu niệm, do vậy một sản phẩm được quảng bá là sản phẩm phải đích thực do địa phương làm ra.

3.2.2. Trình độ phát triển khoa học công nghệ

Trong môi trường nhân văn, khoa học công nghệ là yếu tố xuất hiện muộn nhưng có mức độ ảnh hưởng ngày càng gia tăng đối với các sản phẩm và dịch vụ một điểm du lịch. Sự ra đời của máy bay phản lực, các công nghệ tiên tiến về thông tin liên lạc gắn liền với internet đã có ảnh hưởng to lớn đối với du lịch. Trình độ phát triển của khoa học công nghệ làm cho thế giới trở nên gần nhau hơn, du khách cảm thấy gần gũi hơn như lúc họ ở nhà. Có thể nói rằng sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã góp phần tạo môi trường thuận lợi cho phát triển du lịch. Điều này thể hiện rõ ở một số khía cạnh sau đây:



  • Tạo ra khả năng to lớn trong trao đổi thông tin, quảng bá du lịch. Ở các nước có ngành du lịch phát triển, công nghệ tin học còn được ứng dụng mạnh mẽ trong giao dịch kinh doanh du lịch, thực hiện nhanh chóng các thủ tục xuất nhập cảnh, quảng cáo, giới thiệu các điểm du lịch và các hoạt động du lịch trên internet ...

  • Tạo ra khả năng phát triển những sản phẩm du lịch hiện đại và hấp dẫn. Ở các nước phát triển, khoa học và công nghệ cao đã góp phần hình thành nên những công viên giải trí nhân tạo rất hiện đại, các công viên nước, các thủy cung ngầm dưới mặt đất, các tàu lặn ngắm cảnh dưới biển .... Những sản phẩm này tạo ra nhiều sức hấp dẫn đặc biệt cho du lịch, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của điểm du lịch,

  • Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra và nghiên cứu cơ bản về du lịch, góp phần quan trọng vào sự phát triển du lịch.

3.2.3. Thể chế và chính sách

Các yếu tố về thể chế và chính sách thường ít được xem trọng trong hệ thống các chức năng của du lịch. Thực tế cho thấy rằng hệ thống chính trị, các văn bản pháp luật như luật đầu tư, luật tài nguyên, luật bảo vệ môi trường, hệ thống tài chính... và đặc biệt là các chủ trương, chính sách về phát triển du lịch dài hạn có ảnh hưởng khá lớn đối với khả năng cạnh tranh của một điểm du lịch trên thị trường quốc tế.

Thể chế và chính sách nếu thích hợp và kịp thời sẽ tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của du lịch, đồng thời hướng sự phát triển của du lịch phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, phù hợp với từng đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng giai đoạn (Phạm Trung Lương, 2000). Ngoài ra, những chính sách mới, linh hoạt với tình hình và xu thế phát triển chung của kinh tế - xã hội cũng góp phần đáng kể vào sự thành bại của các điểm du lịch. Ví dụ trong thời kỳ bị ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực vào những năm cuối của thập niên 1990, một số nước trong khu vực Đông Nam Á đã đưa ra nhiều biện pháp và chính sách nhằm hạ giá các tour du lịch, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động quảng cáo để thu hút khách du lịch trở lại. Kết quả rất khả quan cho thấy những chiến lược và chính sách phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển, thậm chí trong những điều kiện khó khăn nhất.

Khung 3.6. Du lịch Thái Lan vượt qua suy thoái bằng các chính sách thích hợp

Sau chiến tranh vùng Vịnh 1991, du lịch Thái Lan tăng trưởng mạnh và liên tục, với số lượng khách quốc tế tăng gấp đôi, từ 5 triệu lên đến 10,8 triệu lượt khách trong năm 2002. Cũng trong năm 2002, tổng thu nhập của ngành du lịch đạt doanh thu cao nhất, chiếm 6% tổng GDP của Thái Lan. Tuy nhiên, năm 2003 được coi là năm tồi tệ nhất trong lịch sử ngành du lịch Thái Lan. Cuộc chiến tranh ở Iraq và sự bùng nổ nạn dịch SARS chính là "hoạn nạn kép". Lần đầu tiên trong vòng 12 năm, ngành công nghiệp không khói phải chứng kiến sự sụt giảm thảm hại về số lượng khách du lịch và một khoản lỗ khổng lồ 40 tỷ bath. Lượng khách trong tháng 4/2003 giảm 46%, chỉ còn 320.000 lượt khách. Đầu tháng 5/2003 số lượng khách tiếp tục giảm 55% và sự sụt giảm này trong năm 2003 vẫn chưa thấy điểm dừng.

Để vượt qua thời kỳ suy thoái, rất nhiều những biện pháp được chính phủ đưa ra như tăng cường quảng bá tại nước ngoài, giảm giá các dịch vụ liên quan đến du lịch như giá vé máy bay, dịch vụ khách sạn và lữ hành. Ấn tượng hơn cả là việc Thủ tướng Thaksin Shinawatra đã cam kết sẽ trao 100.000 USD cho bất kỳ khách du lịch quốc tế nào chứng minh được rằng mình bị nhiễm SARS tại Thái Lan. Đây là động thái nhằm xây dựng lòng tin của khách du lịch và tạo hình ảnh đẹp về Thái Lan đối với thế giới. Ngoài ra, Bộ Thể thao và Du lịch cũng đầu tư 193 triệu baht để quảng bá một hình ảnh đất nước Thái Lan không còn nạn dịch SARS đồng thời với chiến dịch ''Nụ cười Thái và hơn thế nữa'' để thu hút thêm khách du lịch quốc tế đến nước này.

Những biện pháp ''kích cầu'' bạo dạn chưa từng có cũng được các doanh nghiệp tư nhân áp dụng như đưa ra mức giá 500 baht/đêm tại một số các khách sạn trong nước, hay giảm giá 30-80% của các đại lý du lịch và  khách sạn. Ngay cả những khách sạn sang trọng đạt tiêu chuẩn quốc tế như Grant Hyatt Erawan cũng đã đưa ra chương trình khuyến mãi đặc biệt hấp dẫn để thu hút các du khách trong và ngoài nước. Hãng Hàng không Thái Lan (Thai Airways) và các hãng hàng không tư nhân thì giảm 25% giá vé.

Mềm có nhưng rắn cũng có. Một vài biện pháp mạnh cũng đã được chính phủ áp dụng. Khách du lịch đến từ Trung Quốc đại lục, Hongkong, Đài Loan, Singapore và Việt Nam phải đeo khẩu trang vào mọi lúc và khẩu trang sẽ được phát tại nơi nhập cảnh. Nếu không, du khách sẽ phải nhận hình phạt 6 tháng tù, và/hoặc khoản tiền 10.000 baht (tương đương 233,4 USD). Trước khi nhập cảnh vào Thái Lan, du khách còn phải qua sự kiểm tra của bác sĩ. Nếu du khách có biểu hiện của bệnh sẽ bị trục xuất ngay lập tức.

Cố gắng khôi phục thị trường ngoài nước nhưng Chính phủ Thái Lan cũng không quên thị trường nội địa vốn mang lại  320 tỷ baht doanh thu hàng năm. Chính phủ cũng trao vai trò chủ động hơn cho chính quyền địa phương trong việc phát triển và nâng cao chất lượng du lịch nội địa, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tổ chức hội họp tại các tỉnh thành, và dành riêng một quỹ 400 triệu baht để thực hiện những kỳ nghỉ miễn phí cho quan chức địa phương và sinh viên xuất sắc của các trường đại học.



(Nguồn: BangkokPost, 2003.)

3.2.4. Các yếu tố về lịch sử, văn hoá và xã hội

3.2.4.1. Các yếu tố về lịch sử và văn hóa

Một trong những mục tiêu hàng đầu của du lịch là làm cho thế giới trở nên gần gũi với nhau hơn thông qua việc giới thiệu cho du khách các quốc gia, các địa danh, các dân tộc, lịch sử và văn hoá của họ. Các tuyến du lịch quốc tế giúp tăng cường trao đổi kiến thức và văn hoá giữa các dân tộc, tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao các mức độ thưởng thức tri thức của nhân loại bao gồm văn hoá, giáo dục, tôn giáo, khoa học ... Do vậy, sự phát triển các yếu tố văn hoá ở các điểm du lịch chính là một trong những phương tiện hữu hiệu nhằm nâng cao các giá trị tài nguyên du lịch nhân văn để thu hút du khách.

Văn hoá của một dân tộc hay một cộng đồng địa phương phản ảnh nhiều khía cạnh của của quá khứ và hiện tại của dân tộc và cộng đồng đó. Văn hóa là một đặc tính khá bền vững và là nhân tố phải được bảo tồn và phát huy nếu muốn phát triển du lịch. Trong thời đại mang tính toàn cầu hoá như hiện nay, các giá trị văn hoá của điểm du lịch càng đa dạng, càng được giới thiệu một cách sáng tạo và cuốn hút thì càng tạo được nhiều sự hấp dẫn đối với du khách. Các nhân tố văn hoá được sử dụng để quảng bá cho du lịch thường là các phong tục tập quán và lòng mến khách của dân địa phương, kiến trúc bản địa, các sản phẩm thủ công và công nghiệp, âm nhạc truyền thống, giáo dục, các lễ hội, tôn giáo và nhiều khía cạnh đặc thù khác liên quan đến đời sống của dân cư địa phương.

Tài nguyên nhân văn ở nước ta rất đa dạng, phong phú. Về đại thể, các loại tài nguyên nhân văn quan trọng hàng đầu là các di tích (văn hóa, lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật,...) và các lễ hội.

a. Các di tích lịch sử - văn hóa

* Di sản văn hóa thế giới.

Ngoài hai di sản thiên nhiên của thế giới là vịnh Hạ Long và Phong Nha - Kẻ Bảng, nước ta còn có ba di sản văn hóa thế giới: Quần thể di tích cố đô Huế (công nhận năm 1993), Thánh địa Mỹ Sơn, đô thị cổ Hội An (1999) ở Quảng Nam. Nước ta có hai loại hình văn hóa nghệ thuật được công nhận là Kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu nhân loại là: Nhã nhạc cung đình Huế (2003) và Văn hóa Cồng chiêng các dân tộc Tây Nguyên (2005). Đây là nguồn tài nguyên quý giá rất hấp dẫn đối với du khách.

* Di tích văn hóa - lịch sử cấp quốc gia và địa phương:

- Các di tích khảo cổ học: bao gồm các di chỉ cư trú (những di chỉ hang động hoặc di chỉ ngoài trời) và di chỉ mộ táng, những công trình kiến trúc cổ, thành phố cổ, những tàu thuyền cổ bị đắm... Ví dụ như ở Thánh địa Cát Tiên (Đồng Nai). Đây là một quần thể kiến trúc hoành tráng, một thánh địa Bàlamôn giáo đặc trưng ở khu vực phía Nam của đất nước, mà theo đánh giá của các nhà khảo cổ học Nhật Bản, thì nó có giá trị sánh ngang với Ăngco Vát của Campuchia.

- Các di tích lịch sử: là những di tích ghi nhận những sự kiện lịch sử hoặc các đặc điểm lịch sử tiêu biểu của các dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của mình, bao gồm:

Các di tích ghi dấu về dân tộc học: sự ăn ở, sinh hoạt của các tộc người.

Di tích ghi dấu các sự kiện chính trị quan trọng, tiêu biểu, có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của đất nước, của địa phương như bến Bình Than - nơi diễn ra Hội nghị Diên Hồng, cây đa Tân Trào ...



Di tích ghi dấu các chiến công chống xâm lược (Điện Biên Phủ, Đống Đa...).

Di tích ghi dấu những kỷ niệm: di tích về người anh hừng dân tộc Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, tượng Bác Hồ trên đảo Cô Tô...

Di tích ghi dấu sự vinh quang trong lao động: Công trình thủy nông Bắc Hưng Hải, nhà máy thủy điện Hòa Bình …

Di tích ghi dấu tội ác của đế quốc và phong kiến: chuồng cọp Côn Đảo, làng Sơn Mỹ, trại giam Phú Lợi ...

Ngoài ra còn có những di tích ghi dấu lịch sử đấu tranh cách mạng, thường là những di tích gắn liền với cuộc đời và hoạt động của những lãnh tụ cách mạng, hoặc gắn với những sự kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc.

- Các di tích văn hóa nghệ thuật: là các di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá trị nên còn gọi là di tích kiến trúc nghệ thuật. Những di tích này không chỉ chứa đựng những giá trị kiến trúc mà còn chứa đựng cả những giá trị văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần (Tháp Eiffel, Khải hoàn môn ở Pháp, văn miếu Quốc Tử Giám, nhà thờ đá Phát Diệm, Tòa thánh Tây Ninh...).




Каталог: file -> downloadfile1
downloadfile1 -> VĂn phòng chính phủ
downloadfile1 -> Đề tài: Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa Giảng viên hướng dẫn
downloadfile1 -> LUẬn văN ĐỀ TÀI " Mã trải phổ trong cdma"
downloadfile1 -> Chiến dịch đánh Tống 1075
downloadfile1 -> BỘ thông tin và truyềN thôNG
downloadfile1 -> BỘ thông tin và truyềN thông số: 956/QĐ-btttt cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
downloadfile1 -> Lời Giới Thiệu Lịch sử Triết học
downloadfile1 -> Các lệnh nhảy, vòng lặp và lệnh gọi
downloadfile1 -> 143 NĂm vưƠng triều nguyễN (1802-1945)
downloadfile1 -> Chương I các bộ VI điều khiển 8051 1 các bộ VI điều khiển và các bộ xử lý nhúng

tải về 2.88 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương