Chương 1 CƠ SỞ LÝ luận về du lịch và MÔi trưỜng lý luận chung 1 Du lịch


Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống lãnh thổ nghỉ ngơi du lịch



tải về 2.88 Mb.
trang2/8
Chuyển đổi dữ liệu15.01.2018
Kích2.88 Mb.
#36057
1   2   3   4   5   6   7   8

Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống lãnh thổ nghỉ ngơi du lịch

(Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ, 1999)

Trong đó:

I: Môi trường với các điều kiện phát sinh ra nhu cầu du lịch

II: Hệ thống lãnh thổ nghỉ ngơi du lịch (HTLTNNDL)

: Phương tiện giao thông vận tải

: Phân hệ khách du lịch

: Cán bộ nhân viên phục vụ

: Phân hệ tài nguyên du lịch

: Các công trình kỹ thuật phục vụ du lịch



: các luồng khách du lịch

: các mối quan hệ và tương tác bên trong HTLTNNDL

: các mối quan hệ và trao đổi thông tin giữa HTLTNNDL và môi trường

: các mối liên hệ và tương tác giữa HTLTNNDL với các hệ thống khác.

Pirogiơnic (1985) đã coi hệ thống lãnh thổ nghỉ ngơi du lịch là một hệ thống địa lý xã hội với các phân hệ khách du lịch, tổng thể tự nhiên, lịch sử-văn hoá, các công trình kỹ thuật, phân hệ cán bộ phục vụ và cơ quan điều khiển.

- Phân hệ khách du lịch: là phân hệ trung tâm quyết định những yêu cầu đối với các thành phần khác của hệ thống phụ thuộc vào đặc điểm (xã hội- nhân khẩu, dân tộc...) của khách du lịch. Phân hệ này được đặc trưng bởi cấu trúc và lượng nhu cầu, tính lựa chọn, tính mùa và tính đa dạng của các luồng khách.

- Phân hệ tổng thể tự nhiên, lịch sử - văn hoá: tham gia hệ thống với tư cách là tài nguyên và điều kiện để thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch và là cơ sở lãnh thổ cho việc hình thành hệ thống. Tổng thể này có:

+ Sức chứa (diện tích và khả năng đáp ứng),

+ Sức hấp dẫn,

+ Tính ổn định,

+ Độ tin cậy,

+ Tính thích hợp.

Phân hệ này được đặc trưng bằng lượng nhu cầu, diện tích phân bố và thời gian khai thác.

- Phân hệ các công trình kỹ thuật: đảm bảo các nhu cầu ăn ở và các nhu cầu giải trí đặc biệt cho khách du lịch bao gồm:

+ Điều kiện phòng và chữa bệnh,

+ Điều kiện vui chơi, giải trí,

+ Cơ sở hạ tầng - cơ sở vật chất kỹ thuật.

Nét đặc trưng của phân hệ là sức chứa, tính đa dạng, tính thích hợp, mức độ chuẩn bị khai thác.

- Phân hệ cán bộ phục vụ: gồm cán bộ, nhân viên phục vụ thực hiện chức năng dịch vụ khách và đảm bảo cho các xí nghiệp hoạt động bình thường với những đặc trưng:

+ Số lượng, trình độ chuyên môn - nghề nghiệp

+ Mức độ đảm bảo lực lượng lao động (Nguyễn Minh Tuệ, 1999).

1.1.2. Môi tr­ường

1.1.2.1. Thuật ngữ môi trường

Về mặt thuật ngữ, theo tiếng Anh: Environment, tiếng Pháp: Environnement đều có nghĩa là cái bao quanh hay còn gọi là môi trường.

Theo tiếng Hoa thì môi trường là hoàn cảnh, cũng có nghĩa là vòng cảnh vật bao quanh.

1.1.2.2. Khái niệm môi trường

Theo nghĩa rộng nhất thì môi trường là tập hợp các điều kiện và hiện tượng bên ngoài có ảnh hưởng tới một vật thể hoặc sự kiện. Bất cứ một vật thể, một sự kiện nào cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường.



Viện sĩ I.P. Gheraximov (1972) đã đưa ra định nghĩa môi trường như sau: “Môi trường (bao quanh) là khung cảnh của lao động, của cuộc sống riêng tư và nghỉ ngơi của con người”, trong đó môi trường tự nhiên là cơ sở cần thiết cho sự sinh tồn của nhân loại.

Trong ấn phẩm “Địa lý hiện tại, tương lai - Hiểu biết về quả đất, hành tinh của chúng ta“, Magnard (1980) đã nêu ra một nội dung khá đầy đủ về khái niệm môi trường: “Môi trường là tổng hợp - ở một thời điểm nhất định - các trạng thái vật lý, hoá học, sinh học và các yếu tố xã hội có khả năng gây ra một tác động trực tiếp hay gián tiếp, tức thời hay theo kỳ hạn, đối với các sinh vật hay đối với các hoạt động của con người”.

Trong Tuyên ngôn của UNESCO năm 1981, môi trường đối với con người được hiểu là “Toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (tập quán, niềm tin...) trong đó con người sống và lao động, khai thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình". Như vậy, môi trường sống đối với con người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực thể sinh vật và con người mà còn là “khung cảnh của cuộc sống, của lao động và sự vui chơi giải trí của con người”.

R.G. Sharme (1988) đã đưa ra một định nghĩa rất ngắn gọn: “Môi trường là tất cả những gì bao quanh con người”.

Joe Whiteney (1993) cho rằng: “Môi trường là tất cả những gì ngoài cơ thể, có liên quan mật thiết và có ảnh hưởng đến sự tồn tại của con người như: đất, nước, không khí, ánh sáng mặt trời, rừng, biển, tầng ôzon, sự đa dạng sinh học về các loài”. (Nguyễn Thế Chinh và nnk, 2003).

Theo Lê Văn Khoa (1995): Đối với cơ thể sống thì “Môi trường sống” là tổng hợp những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới đời sống và sự phát triển của cơ thể.

Môi trường bao gồm tất cả những gì bao quanh sinh vật, tất cả các yếu tố vô sinh và hữu sinh có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự sống, phát triển và sinh sản của sinh vật (Hoàng Đức Nhuận, 2000).

Để thống nhất về mặt nhận thức, chúng ta sử dụng định nghĩa trong Luật Bảo vệ Môi trường đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ IV thông qua ngày 27/12/1993 như sau:

Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.



Khái niệm chung về môi trường trên đây đã được cụ thể hoá với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu khác nhau.

1.1.2.3. Bản chất hệ thống của môi trường

Các khái niệm hay định nghĩa môi trường nêu trên tuy có khác nhau về quy mô, giới hạn, thành phần môi trường ... nhưng đều thống nhất ở bản chất hệ thống của môi trường và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.

Dưới ánh sáng của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, môi trường cần được hiểu như là một hệ thống. Hay nói một cách khác, môi trường mang đầy đủ các đặc tính của hệ thống được thể hiện như sau:

1) Tính cơ cấu (cấu trúc) phức tạp

Hệ thống môi trường (gọi tắt là hệ môi trường) bao gồm nhiều phần tử (thành phần) hợp thành. Các phần tử đó có bản chất khác nhau (tự nhiên, kinh tế, dân cư, xã hội) và bị chi phối bởi các quy luật khác nhau, đôi khi đối lập nhau.

Cơ cấu của hệ môi trường được thể hiện chủ yếu ở cơ cấu chức năng và cơ cấu thứ bậc. Theo chức năng, người ta có thể phân hệ môi trường ra vô số hệ. Tương tự như vậy, theo thứ bậc, người ta cũng có thể phân ra các hệ từ nhỏ đến lớn.

Dù theo chức năng hay theo thứ bậc, các phần tử của hệ môi trường thường xuyên tác động lẫn nhau, quy định và phụ thuộc lẫn nhau (thông qua trao đổi vật chất và năng lượng - thông tin) làm cho hệ thống tồn tại, hoạt động và phát triển. Vì vậy, mỗi một sự thay đổi, dù là rất nhỏ của mỗi phần tử của hệ môi trường đều gây ra một phản ứng dây chuyền trong toàn hệ, làm suy giảm hoặc gia tăng số lượng và chất lượng của nó.



2) Tính động

Hệ môi trường không phải là một hệ tĩnh mà luôn luôn thay đổi trong cấu trúc, trong quan hệ tương tác giữa các phần tử cơ cấu và trong từng phần tử cơ cấu. Bất kỳ một sự thay đổi nào của hệ đều làm cho nó lệch khỏi trạng thái cân bằng trước đó và hệ có xu hướng thiết lập trạng thái cân bằng mới. Đó là bản chất của quá trình vận động và phát triển của hệ môi trường. Vì thế cân bằng động là một đặc tính cơ bản của hệ môi trường. Đặc tính đó cần được tính đến trong hoạt động tư duy và trong tổ chức thực tiễn của con người.

3) Tính mở

Môi trường, dù với quy mô lớn nhỏ thế nào, cũng đều là một hệ thống mở. Các dòng vật chất, năng lượng và thông tin liên tục “chảy” trong không gian và thời gian (từ hệ lớn đến hệ nhỏ, từ hệ nhỏ đến hệ nhỏ hơn và ngược lại, từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ thế hệ này sang thế hệ nối tiếp ...). Vì thế, hệ môi trường rất nhạy cảm đối với những thay đổi từ bên ngoài, điều này lý giải vì sao các vấn đề môi trường mang tính vùng, tính toàn cầu, tính lâu dài (viễn cảnh) và nó chỉ được giải quyết bằng sự nỗ lực của toàn thể cộng đồng, bằng sự hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới với một tầm nhìn xa, trông rộng vì lợi ích của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.

4) Khả năng tự tổ chức và điều chỉnh

Trong hệ môi trường, có các phần tử cơ cấu là vật chất sống (con người, sinh vật) hoặc là các sản phẩm của chúng. Các phần tử này có khả năng tự tổ chức lại các hoạt động của mình và tự điều chỉnh để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo quy luật tiến hoá, nhằm hướng tới trạng thái cân bằng, ổn định.

Đặc tính cơ bản này của hệ môi trường quy định tính chất, mức độ, phạm vi can thiệp của con người, đồng thời tạo mở hướng giải quyết căn bản, lâu dài cho các vấn đề môi trường cấp bách hiện nay (tạo khả năng tự phục hồi của các tài nguyên sinh vật đã bị suy kiệt, xây dựng các hồ chứa nước và các vành đai xanh, nuôi trồng thuỷ hải sản ... (Nguyễn Thế Chinh và nnk, 2003).

1.1.2.4. Các thành phần của môi trường

Thành phần môi trường hết sức phức tạp, trong môi trường chứa đựng vô số các yếu tố hữu sinh và vô sinh, vì vậy khó mà diễn đạt hết các thành phần môi trường. Ở tầm vĩ mô để xét thì thành phần môi trường có thể chia ra các quyển sau đây:

1) Thạch quyển (Địa quyển - Lithosphere)

Thạch quyển hay còn được gọi là vỏ trái đất. Đây là phần rắn của trái đất có độ sâu từ 0 đến 60km tính từ mặt đất và từ 0 đến 20km tính từ đáy biển. Thạch quyển chứa đựng các yếu tố thành phần như các nguyên tố hoá học, các hợp chất rắn vô cơ và hữu cơ.

Trong thạch quyển, các vật chất vô cơ, cấu tử đất liên kết với nhau trong một không gian nhất định. Trong đó nước đóng vai trò quan trọng vì nó là dung môi cho các phản ứng sinh hoá, lý học. Thạch quyển còn là nơi cho các vi sinh vật phát triển. Sự có mặt của vi sinh vật cùng với các quá trình sống, trao đổi vật chất và năng lượng của chúng làm cho đất trở nên màu mỡ hơn. Góp phần hình thành nên các đặc tính lý hoá của các loại đất còn có sự tham gia của một số loài động vật như côn trùng (kiến, mối, giun), các loài gặm nhấm ... Thạch quyển nói chung là nơi mà nếu có sự biến động trong đó thì ít được nhận biết. Nó có khả năng tự làm sạch cao và trạng thái để đạt đến sự cân bằng giữa các yếu tố môi trường rất dễ dàng.

2) Khí quyển (Atmosphere)

Khí quyển là bộ phận quan trọng của môi trường được hình thành sớm nhất trong quá trình kiến tạo trái đất. Khí quyển là vùng nằm ngoài vỏ trái đất với chiều cao từ 0 đến 100km. Trong khí quyển tồn tại các yếu tố vật lý như nhiệt, áp suất, mưa, nắng, gió, bão ... Khí quyển chia thành nhiều tầng theo độ cao tính từ mặt đất như tầng đối lưu, tầng bình lưu, tầng trung lưu và tầng ngoại quyển, mỗi tầng có các yếu tố vật lý, hoá học khác nhau. Trong các tầng của khí quyển thì tầng đối lưu có tầm quan trọng quyết định đến môi trường toàn cầu. Tầng này có các thành phần: khoảng 79% là Nitơ, 20% Oxy, 0,93% Argon, 0,02% Neli, 0,03% Carbonic, 0,005% Heli, một ít Hydro. Ngoài ra còn có bụi, hơi nước, các vi sinh vật … luôn hoạt động mà các quá trình vận chuyển và biển đổi của nó tuân theo các chu trình năng lượng, chu trình vật chất trong môi trường nói chung.

Trong khí quyển luôn luôn diễn ra các hiện tượng gió, bão, phản xạ, mây mưa, hiệu ứng nhà kính, suy thoái tầng ôzon ... Nói chung khí quyển rất nhạy cảm với các biến động của môi trường.

3) Thủy quyển (Hydrosphere)

Thuỷ quyển là nguồn nước ở tất cả các dạng trên trái đất bao gồm nước trong không khí, trong đất, trong ao hồ, sông ngòi, đại dương, nước mưa, tuyết, băng, nước ngầm, nước trong cơ thể sinh vật ...

Tổng lượng nước trên hành tinh khoảng 1,4 tỷ km3, nhưng khoảng 97% trong đó là ở đại dương, chỉ có 3% là nước ngọt nhưng lại tập trung phần lớn ở các núi băng thuộc Bắc cực và Nam cực. Như vậy lượng nước ngọt mà con người có thể sử dụng được chiếm tỷ lệ rất ít trong thuỷ quyển.

Nước là thành phần không thể thiếu được của môi trường toàn cầu và nó đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì sự sống cho sinh vật, là yếu tố quyết định đối với sự vận chuyển và trao đổi chất trong các thành phần môi trường khác. Các quá trình vận chuyển và trao đổi chất này tuân theo các quy luật nhất định. Trong thuỷ quyển luôn diễn ra các quá trình biến đổi vật chất và năng lượng nên nước là một trong những thành phần tạo nên vật chất và sự sống cho môi trường.

4) Sinh quyển (Biosphere)

Sinh quyển bao gồm các cơ thể sống từ vi sinh vật hoạt động đến các loại động, thực vật, kể cả con người. Trong sinh quyển, các chu trình trao đổi vật chất và năng lượng diễn ra liên tục. Các chu trình vật chất sinh - địa - hoá như: chu trình đạm, chu trình lưu huỳnh, photpho … luôn đi đối với với các chu trình năng lượng (năng lượng ánh sáng mặt trời và sự chuyển hoá năng lượng). Nhờ các chu trình vật chất và năng lượng mà sinh vật luôn ở trạng thái “cân bằng động” và nhờ đó mà sự sống trên trái đất luôn được duy trì và phát triển.

Thành phần của sinh quyển cũng tương tự như thành phần của các quyển khác trên trái đất nhưng gần gũi với thuỷ quyển bởi các tế bào sống nói chung có chứa 60-90% nước (Lê Văn Khoa, 2002).

Sự phân chia cấu trúc môi trường thành các quyển nói trên cũng rất tương đối. Thực ra trong lòng mỗi quyển đều có mặt các phần quan trọng của quyển khác và chúng bổ sung cho nhau rất chặt chẽ (Nguyễn Thế Chinh và nnk, 2003).

1.1.2.5. Phân loại môi trường

Tuỳ theo mục đích nghiên cứu và sử dụng, có nhiều cách phân loại môi trường khác nhau. Trong du lịch, có thể phân loại môi trường theo chức năng như sau:

- Môi trường tự nhiên (Natural Environment)

Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố tự nhiên tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người nhưng ít nhiều cũng chịu tác động của con người như không khí, đất đai, nguồn nước, ánh sáng mặt trời, động thực vật ... Môi trường tự nhiên cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp các phong cảnh đẹp để tham quan, các nguồn nước khoáng để chữa bệnh ...

- Môi trường văn hoá - xã hội (Social cultural Environment)

Môi trường văn hoá - xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người và người tạo nên sự thuận lợi hay khó khăn cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân và cộng đồng loài người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định, hương ước ... ở các cấp khác nhau như Liên Hiệp Quốc, hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng, xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức đoàn thể ...

Đây là môi trường giáo dục, hoạt động xã hội vì con người được cấu thành, phát triển trong mối t­ương tác của con người với con người và con người với những hoạt động sống trong xã hội liên quan với các dân tộc khác.

- Môi trường nhân tạo (Artifical Environment)

Môi trường nhân tạo là tất cả các yếu tố tự nhiên, xã hội do con người tạo nên và chịu sự chi phối của con người, làm thành những tiện nghi cho cuộc sống của con người như ô tô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo, các khu vui chơi giải trí ... (Nguyễn Thế Chinh và nnk, 2003).

1.1.3. Mối quan hệ giữa du lịch và môi trường

Du lịch và môi trường có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau:

- Các hoạt động du lịch có quan hệ mật thiết với môi trường, khai thác tiềm năng của môi trường tự nhiên như các cảnh đẹp quyến rũ của núi, sông, biển ... và các giá trị văn hoá, nhân văn gắn liền với chúng. Do vậy, thành phần, tính đa dạng và chất lượng của môi trường có vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động của du lịch.

- Sự phát triển của du lịch phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng môi trường và giá trị nguyên vẹn của các tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hoá. Các bãi biển, núi, sông, rừng, và đa dạng sinh học của môi trường là những tài nguyên cơ bản mà nhờ vào đó ngành du lịch thịnh vượng và phát triển. Sự suy giảm của chất lượng môi trường, cho dù là tự nhiên hay nhân văn, đều có tác động rất lớn đến các hoạt động du lịch và thường dẫn đến sự suy thoái của khu du lịch.

- Trên phạm vi toàn cầu cũng như khu vực, du lịch tất yếu có những tác động quan trọng đối với môi trường. Những tác động này liên quan đến sự tiêu thụ tài nguyên, cũng như sự ô nhiễm do các chất thải phát sinh từ các hoạt động du lịch như tổ chức tham quan, phục vụ ăn ở, đi lại của du khách ...

Tuy nhiên, du lịch cũng góp phần bảo vệ và tôn tạo môi trường. Về nguyên lý, tác động tích cực của du lịch đối với môi trường thường gắn với chính sách bảo tồn, điều đó có thể tạo động lực thúc đẩy thiết lập những khu bảo tồn bởi giá trị của chúng là tài nguyên du lịch, điều này đặc biệt quan trọng ở các nước đang phát triển. Tuy vậy, trong đa số trường hợp, tác động tiêu cực của du lịch đối với môi trường thường vượt quá tác động tích cực. Để thấy rõ được điều này phải dựa vào kết quả tổng hợp liên quan đến các tác động về mặt môi trường, kinh tế và xã hội của ngành du lịch.

Để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa du lịch và môi trường, cần so sánh 2 khái niệm tài nguyên du lịch và cấu trúc môi trường (Bảng 1.1).

Từ bảng 1.1 có thể nhận thấy rằng:

- Môi trường vừa là nơi diễn ra các hoạt động du lịch, đồng thời vừa là đối tượng tham quan du lịch.

- Trong nhóm tự nhiên và tổ hợp tự nhiên thì giữa hai khái niệm tài nguyên du lịch và cấu trúc môi trường có độ tương đồng lớn. Trong nhóm nhân văn - dân tộc, tài nguyên du lịch là sản phẩm của sự tác động của con người vào môi trường làm cho môi trường biến đổi theo chiều hướng tích cực hơn như “Danh lam thắng cảnh”.

Bảng 1.1. So sánh khái niệm tài nguyên du lịch và cấu trúc môi trường

Phân loại

Tài nguyên du lịch

Cấu trúc môi trường

Tự nhiên

Địa hình

Khí hậu

Tài nguyên nước

Tài nguyên động - thực vật

Thạch quyển

Khí quyển

Thuỷ quyển

Sinh quyển

Tổ hợp

tự nhiên

Tổ hợp ven biển

Tổ hợp đồng bằng đồi

Tổ hợp núi

Môi trường ven biển

Môi trường đồng bằng - đồi

Môi trường miền núi

Nhân văn

Dân tộc

Di sản văn hoá thế giới

Di tích lịch sử văn hoá

Danh lam thắng cảnh

Di tích văn hoá khảo cổ

Di tích văn hoá nghệ thuật

Môi trường văn hoá

Môi trường xã hội - nhân văn

Đương đại

Điểm giải trí

Điểm nghỉ dưỡng

Nơi hoạt động thể thao

Môi trường nhân tạo



Như vậy, việc đi du lịch trong các môi trường đồng nghĩa với việc khai thác và thưởng ngoạn tài nguyên du lịch. Mối quan hệ giữa cấu trúc môi trường với tài nguyên, đối tượng của du lịch đã được đề cập ở trên có thể khái quát lại như sau:

- Con người: như là một hợp phần của cấu trúc môi trường, là lực lượng tổ chức, quản lý, là lực lượng lao động và với nền văn minh, văn hoá cộng đồng tham gia vào hoạt động du lịch.

- Tài nguyên du lịch: như là một nhân tố, đối tượng, chất liệu và là công cụ tạo ra sản phẩm du lịch.

- Không gian môi trường: là điều kiện để tổ chức các hoạt động du lịch và cũng là sản phẩm của chính sự hoạt động du lịch đó.

- Kinh tế du lịch như là một công cụ hạch toán đối với vòng quay vật chất - năng lượng - tiền tệ của không gian các đối tượng vừa nêu trên.

1.2. Khái quát lịch sử hình thành & phát triển du lịch và công tác bảo vệ môi trường

1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển du lịch

1.2.1.1. Trên thế giới - những mốc lịch sử và những sự kiện du lịch

Vào thời cổ đại, kể từ năm 776 trước Công nguyên, hàng ngàn, hàng vạn người từ nhiều nước đến tham gia hoặc xem các cuộc tranh tài tại đại hội Ôlympic thể thao làm xuất hiện loại hình du lịch thể thao. Xung quanh những khu vực thi đấu, người ta đã xây dựng nhiều cơ sở để phục vụ ăn nghỉ. vui chơi cho các vận động viên và khán giả. Nhiều nơi đã được xây dựng thành làng Ôlympic, làng thể thao với đầy đủ các điều kiện về ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí cho hàng ngàn người.

Vào thời kỳ Trung đại, đạo Thiên Chúa đã trở thành một lực lượng lớn mạnh ở châu Âu và trở thành tư tưởng thống soái, do vậy du lịch tôn giáo rất phát triển. Trong thời kỳ này xuất hiện những chuyến viễn du dài ngày đầu tiên của loài người của Marco Polo, Afanasi Nikitin, Christopher Columbus, Vasco de Gama …, đặc biệt là hành trình của Magenllan có ý nghĩa đối với sự phát triển du lịch ở hai khía cạnh. Thứ nhất, những chuyến đi kể trên đã kể lại kinh nghiệm quý báu cho các lớp người kế tiếp. Thứ hai là dư âm của chuyến đi đã kích thích óc tò mò và sự ham muốn của nhiều người, mở đường cho các chuyến đi xa về sau.

Trong thời kỳ cận đại, du lịch bước sang một trang mới. Vào 1768, James Watt đã chế tạo ra động cơ hơi nước đầu tiên tác động kép với vòng quay liên tục, có hiệu suất kinh tế cao, mở ra một chân trời mới cho ngành vận chuyển.

Vào năm 1815 xuất hiện du lịch tham quan bằng tàu thuỷ trên tuyến Manchester và London Bridge. Đường sắt được xây dựng vào năm 1825 và đến năm 1830, tuyến tàu hoả chở khách đầu tiên nối Liverpool và Manchester được khánh thành.

Năm 1841 cuộc du hành tập thể đầu tiên ở Anh do Thomas Cook tổ chức đi bằng tàu hoả đã đánh dấu một bước phát triển mới trong ngành kinh doanh du lịch. Chuyến đi này gồm 570 đại biểu đi dự Hội nghị, họ được phục vụ ca nhạc, các món ăn nhẹ và nước trà. Sau chuyến đi, Thomas Cook đã đúc kết một kinh nghiệm là việc tổ chức các chuyến đi du lịch tập thể sẽ mang lại nguồn thu nhập cao.

Một năm sau, vào năm 1842 Thomas Cook thành lập văn phòng du lịch đầu tiên ở Anh nhằm tổ chức cho người Anh đi du lịch trong nước và nước ngoài. Từ đó đã hình thành và phát triển một hoạt động kinh doanh mới trong du lịch - hoạt động lữ hành - có chức năng làm cầu nối giữa khách du lịch và đơn vị trực tiếp kinh doanh du lịch.

Vào giữa thế kỷ XIX, du lịch nghỉ núi, nghỉ biển bắt đầu được phát triển. Giới quý tộc và thực dân đã tìm đến những vùng biển, vùng núi có phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, khí hậu trong lành, không gian yên tĩnh để xây dựng các biệt thự làm nơi nghỉ dưỡng trong ngày hè nóng nực.

Năm 1877, các chuyến đi du lịch bằng tàu biển bắt đầu được tổ chức. Chiếc tàu biển mang tên “Cvaker City” cùng với 60 du khách đã thực hiện một chuyến du hành 5 tháng. Cũng trong thời gian đó, khách du lịch Mỹ đến châu Âu tăng rất nhanh, số lượng du khách Đức cũng tăng đáng kể. Tại cuộc triển lãm thế giới tổ chức tại Pari năm 1878, Thomas Cook cũng đã tổ chức một chuyến du lịch cho 75.000 người Anh.

Năm 1880, vùng biển phía Nam nước Pháp có một bước nhảy vọt trong việc xây dựng các khách sạn hiện đại. Thành phố Nice trở thành trung tâm du lịch nghỉ biển quan trọng. Cũng trong thời gian này, ở các vùng núi của Thuỵ Sĩ, Pháp, Áo ..., nhiều khách sạn hiện đại được xây dựng để đón tiếp những du khách ưa thích phong cảnh thiên nhiên vùng núi cao.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, công nghiệp ô tô đã đạt được những thành tựu nhất định. Năm 1885, một kỹ sư người Đức là Benz đã sáng chế ra ô tô đầu tiên và 5 năm sau, công nghiệp ô tô ra đời góp phần đáng kể cho việc thu hút và vận chuyển du khách. Số người sử dụng xe hơi làm phương tiện đi du lịch ngày càng tăng.

Nếu ô tô, tàu hoả ra đời vào những năm cuối của thế kỷ XIX thì những năm đầu của thế kỷ XX người ta đã sáng chế ra máy bay. Có thể nói đây là loại ph­ương tiện vận tải đặc trư­ng của thời kỳ này. Việc hai anh em nhà Wright cho ra đời chiếc “máy bay” đầu tiên vào năm 1903 đã hứa hẹn một t­ương lai phát triển cho du lịch. Rất nhanh chóng, năm 1919 Thomas Cook đã tổ chức những chuyến du lịch đầu tiên bằng máy bay cho du khách. Năm 1958, chiếc Boing 747 đầu tiên ra đời. Cũng trong năm này ngành hàng không thế giới đã hạ giá vé cho phù hợp đông đảo hành khách.

Cho đến Chiến tranh thế giới thứ nhất, du lịch quốc tế đã đạt những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên trong những năm chiến tranh, du lịch quốc tế hầu như bị tê liệt.

Về phương diện thông tin liên lạc, thời kỳ này con người đã phát minh ra các phương tiện truyền tin không gian như điện tín (1876), điện thoại (1884), radio (1895).

Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh, các khu du lịch nghỉ biển được phục hồi và phát triển nhanh chóng, đặc biệt là ở Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Anh, Đức ... Ở những nước này đã thành lập những cơ quan nhà nước về du lịch và một vài nước đã thành lập Bộ Du lịch.

Liên minh quốc tế của các tổ chức du lịch chính thức (IUOTO) được thành lập năm 1925 tại Hà Lan.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945), các hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế hầu như bị đình trệ. Cơ sở hạ tầng-cơ sở vật chất kỹ thuật phần thì bị phá huỷ, phần thị bị biến thành cơ sở phục vụ cho chiến tranh.

Vào những năm đầu sau chiến tranh, du lịch quốc tế được phục hồi rất chậm bởi vì các nước đang bước vào giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế đất nước.

Năm 1963, diễn ra Hội nghị Liên Hiệp Quốc về du lịch tại Roma.

Năm 1967, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra chủ đề: “Du lịch quốc tế là giấy thông hành của hoà bình”.

Ngày 10/10/1980, 47 nước cùng đưa ra “Tuyên bố Manila về du lịch”, trong đó có đoạn viết: “Quyền sử dụng thời gian nhàn rỗi, đặc biệt là quyền được đi nghỉ ngơi theo kỳ và tự do đi tham quan du lịch là kết quả đương nhiên của quyền lao động, được thừa nhận như là yếu tố phát triển của con người”.

Năm 2005: Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 5 của WTTC được tổ chức tại New Delhi, Ấn Độ.

Hiện nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy các ngành kinh tế, trong đó có ngành du lịch phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự tăng nhanh về số lượng du khách và sự gia tăng của tổng doanh thu trong ngành du lịch là sự thay đổi về cơ cấu khách du lịch và sự phát triển nhiều loại hình du lịch. Vận chuyển khách bằng đường bộ và đường hàng không đã chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong ngành du lịch quốc tế. Các công ty khách sạn, lữ hành, các công ty môi giới ... lần lượt ra đời đã làm nảy sinh cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường du lịch quốc tế. Đặc biệt là ở những nước phát triển, khi đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của người dân đã đạt tới mức cao thì nhu cầu đi du lịch là không thể thiếu. Chế độ làm việc 4 - 5 ngày/tuần ở nhiều nước đã và đang tạo điều kiện cho người dân có nhiều thời gian rỗi để đi du lịch. Nhu cầu của khách du lịch ngày càng tăng đòi hỏi các cơ sở kinh doanh du lịch phải tiếp cận thị trường kịp thời để thoả mãn mọi nhu cầu cho khách.

1.2.1.2. Ở Việt Nam - những mốc lịch sử và những sự kiện du lịch.

Việc khai thác các tài nguyên phục vụ cho du lịch đã được thể hiện rất rõ nét trong thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp. Hàng loạt các biệt thự, nhà nghỉ … được xây dựng ven các bãi biển và trên các vùng cao nguyên.

- Ngày 9/7/1960: Công ty Du lịch Việt Nam được thành lập.

- Năm 1976 công ty Du lịch Việt Nam tiếp quản các khách sạn lớn ở các tỉnh, thành phố phía Nam để đưa vào kinh doanh du lịch.

- Ngày 23/1/1979, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập, tạo ra bước ngoặt lớn trong sự chỉ đạo của Nhà nước đối với hoạt động du lịch Việt Nam.

- Năm 1980, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Du lịch Thế giới.

- Trong quá trình tinh giản biên chế, Tổng cục Du lịch Việt Nam được sát nhập với một số cơ quan khác thành Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch. Do vậy, ngày 9/4/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định 119/ HĐBT về việc thành lập Tổng công ty Du lịch Việt Nam trên cơ sở các bộ phận kinh doanh du lịch trước đây với tiền thân là Công ty du lịch ban đầu. Tên đối ngoại của Tổng công ty Du lịch Việt Nam là Vietnamtourism.

- Năm 1991, Việt Nam tham gia vào Hiệp hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dương (PATA).

- Ngày 12/8/1991, ngành Du lịch được tách khỏi Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch để sát nhập vào Bộ Thương mại - Du lịch.

- Ngày 26/10/1992, Chính phủ đã ra Nghị định số 05/CP về việc thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam như một cơ quan độc lập ngang Bộ.

- Năm 1993, Quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là Di sản văn hoá thế giới.

- Năm 1994, vịnh Hạ Long được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và Việt Nam tự hào đón người khách quốc tế thứ 1.000.000.

- Năm 1995, Chính phủ đã phê duyệt đề án quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 - 2010, các đề án quy hoạch du lịch các vùng, tiểu vùng, các tỉnh cũng đã được triển khai xây dựng tại Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch với sự cộng tác của các chuyên gia trong và ngoài nước.

- Năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn và Phố cổ Hội An dược công nhận là di sản văn hoá thế giới.

- Năm 2000, Chương trình hành động Quốc gia về du lịch được phê duyệt.

- Năm 2001, Nghị định 27/CP của Chính phủ ban hành và khẳng định vai trò của du lịch trong nền kinh tế đất nước. Pháp lệnh du lịch đang được thực thi, Luật Du lịch sắp được ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý để phát triển du lịch. Ngành du lịch đã và đang quan tâm đến chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, du lịch đang dần được quan tâm đúng mức nhằm khắc phục tình trạng hụt hẫng trong việc phục vụ khách du lịch nước ngoài.

- Năm 2003, Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.

- Năm 2004, Nhã nhạc Cung đình Huế được công nhận là Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại.

- Năm 2005, Văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên được công nhận là Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại, du lịch Việt Nam tổ chức Hội nghị: "Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam và hội nhập khu vực" và đến ngày 6/12/2005 đã đón vị khách quốc tế thứ 3 triệu đến Việt Nam.

1.2.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển công tác bảo vệ môi trường

1.2.2.1. Trên thế giới - những mốc lịch sử và những sự kiện môi trường

Trong khuôn khổ tài liệu này xin được đề cập đến những mốc lịch sử quan trọng về sự hình thành và phát triển của công tác bảo vệ môi trường như sau:

1) Tháng 7 năm 1972, tại Stockholm, Thủ đô của Thuỵ Điển đã diễn ra Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Môi trường con người. 113 quốc gia đã nhóm họp nhằm xem xét và đánh giá sự xuống cấp của môi trường toàn cầu. Cùng với sự phát triển, chính bản thân loài người, vì những nhu cầu về vật chất và tinh thần của mình đã tạo ra một nguy cơ tiềm ẩn, đe doạ sự trường tồn của Trái Đất.

Tại phiên họp này Hội nghị đã ra tuyên bố như sau:

- Con người vừa là sinh vật, vừa là người nhào nặn nên môi trường của mình. Môi trường tạo cho con người phương tiện phát triển về mặt thể chất và ban cho con người cơ hội phát triển trí tuệ, đạo đức, xã hội và tinh thần. Trong suốt quá trình tiến hóa của nhân loại trên hành tinh này, con người với sự thúc đẩy nhanh của khoa học và công nghệ, đã tiến đến một giai đoạn giành được sức mạnh làm biến đổi môi trường của mình bằng hằng hà sa số theo những cách và qui mô chưa từng có.

- Bảo vệ và cải thiện môi trường con người là một vấn đề lớn có ảnh hưởng tới phúc lợi của mọi dân tộc và phát triển kinh tế trên toàn thế giới, đó là khao khát của các dân tộc trên khắp thế giới và là nhiệm vụ của mọi Chính phủ.

- Con người luôn luôn tích luỹ kinh nghiệm và thường xuyên tìm kiếm, phát minh, sáng tạo và tiến tới. Trong thời đại của chúng ta, năng lực biến đổi môi trường xung quanh của con người, nếu sử dụng một cách thông minh, có thể mang lại cho mọi dân tộc những lợi ích phát triển và cơ hội làm cho chất lượng cuộc sống tốt đẹp hơn. Nếu sử dụng sai và vô ý có thể gây hại cho con người và môi trường. Xung quanh chúng ta, càng ngày càng có nhiều bằng chứng về những thiệt hại do con người gây ra ở nhiều khu vực của Trái Đất.

- Ở các nước đang phát triển, kém phát triển đã gây ra hầu hết các vấn đề tồn tại về môi trường. Hàng triệu con người vẫn đang sống dưới mức rất xa so với những mức tối thiểu cần cho sự tồn tại tươm tất của con người. Do vậy, các nước đang phát triển phải hướng mọi nỗ lực của mình cho phát triển và phải luôn nhớ rằng họ phải đề ra những ưu tiên và nhu cầu bảo đảm an toàn và cải thiện môi trường. Cùng chung mục đích này, các nước công nghiệp hoá cần phải dành nhiều nỗ lực hơn để giảm dần khoảng cách giữa họ với các nước đang phát triển.

- Tăng dân số tự nhiên luôn luôn là những vấn đề tồn tại đối với việc giữ gìn môi trường và cần phải áp dụng đầy đủ các chính sách và biện pháp một cách thích hợp để đương đầu với những vấn đề này.

2) Hai mươi năm sau, tháng 6 năm 1992, tại Rio de Janeiro, Brazil, Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển đã khẳng định lại Tuyên bố của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường con người năm 1972, và tìm cách phát huy Tuyên bố ấy bằng cách:

- Thiết lập một sự chung sức toàn cầu mới và bình đẳng thông qua việc tạo dựng những cấp độ hợp tác mới giữa các quốc gia, những thành phần chính trong các xã hội và nhân dân.

- Tăng cường các hành động để đạt được những hiệp định quốc tế về tôn trọng quyền lợi của mọi người và bảo vệ sự toàn vẹn của hệ thống môi trường và phát triển toàn cầu.

- Công nhận bản chất toàn bộ và phụ thuộc lẫn nhau của Trái Đất, ngôi nhà của chúng ta.

3) Tuyên bố Johannesburg về Phát triển bền vững vào tháng 8 - 9, năm 2002 tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững. Tuyên bố bao gồm các vấn đề lớn như sau:

- Từ điểm khởi nguồn đến tương lai: cộng đồng quốc tế khẳng định lại cam kết về Phát triển bền vững, cam kết xây dựng một xã hội bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và thấu hiểu về nhu cầu phẩm giá cần cho mọi người, phải bảo đảm cho trẻ em được hưởng một cuộc sống tốt đẹp hơn, cần có một kế hoạch rõ ràng và khả thi để xoá bỏ nghèo khó và phát triển con người.

- Hành trình Stockholm - Rio de Janeiro - Johannesburg: để đạt được sự phát triển bền vững, cần tiếp tục thực hiện Chương trình nghị sự 21 và Tuyên bố Rio. Johannesburg cũng khẳng định rằng đã có những tiến bộ quan trọng hướng tới việc đạt được sự đồng thuận toàn cầu và quan hệ đối tác giữa tất cả các dân tộc trên hành tinh của chúng ta.

- Những thách thức mà chúng ta phải đối mặt: xoá đói giảm nghèo, thay đổi tập quán và thói quen trong tiêu thụ tài nguyên ... là những yêu cầu thiết yếu để phát triển bền vững. Mối đe doạ lớn hiện nay là khoảng cách giữa kẻ giàu và người nghèo, nước giàu và nước nghèo, môi trường toàn cầu trở nên tồi tệ hơn: đa dạng sinh học bị suy giảm nghiêm trọng, thoái hoá đất, biến đổi khí hậu toàn cầu tiếp tục diễn biến theo xu hướng xấu.

- Cam kết của chúng ta về phát triển bền vững: Các quốc gia cam kết rằng: tính đa dạng phong phú của chúng ta sẽ được sử dụng cho quá trình xây dựng các mối quan hệ đối tác vì sự phát triển bền vững, đồng thời kêu gọi tăng cường đối thoại và hợp tác, tôn trọng phẩm giá con người, cùng nhau hỗ trợ để phát triển, kiên quyết chống lại các vấn nạn đang đe doạ nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững.

- Chủ nghĩa đa phương hoá là tương lai: cần thiết lập những thiết chế đa phương và quốc tế có trách nhiệm, tôn trọng và thường xuyên giám sát việc thực hiện Hiến chương LHQ để hướng tới sự phát triển bền vững.

- Chuyển biến thành hiện thực: nhất trí tập hợp, lôi cuốn toàn cộng đồng tham gia vào quá trình thực hiện các mục tiêu của sự phát triển bền vững.

Bảng 1.2. Những sự kiện quan trọng về môi trường mang tầm quốc tế

Năm

Sự kiện

1972

- Câu lạc bộ Rome xuất bản cuốn ”Giới hạn cho sự phát triển” làm bùng lên nhiều cuộc tranh cãi về tăng trưởng kinh tế.

- Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường con người tại Stockholm (6-16/6/1972).

- Công ước UNESCO về Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên thế giới.

1973

- Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) trở thành cơ quan đầu tiên của Liên Hiệp Quốc có trụ sở đặt tại một quốc gia đang phát triển (Nairobi, Kênia).

- 80 quốc gia đã ký Công ước về Buôn bán quốc tế những loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng (CITES).

- Phong trào Chipko đã ra đời ở miền Bắc Ấn Độ nhằm bảo vệ các loài cây trước nạn buôn bán gỗ lậu tại vùng núi Himalaya.

- Công ước về Ngăn chặn ô nhiễm do tàu biển (MARPOL).

1974

- Thông qua Chương trình biển cấp khu vực và Kế hoạch hành động Địa Trung Hải.

- Nhà hoá học Sherwood Rowland và Mario Molina mô tả phương thức các chất khí CFC phá huỷ các phân tử ôzôn.

1975

- Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc giao cho UNEP trách nhiệm cung cấp những hỗ trợ về mặt kỹ thuật trong lĩnh vực Luật Môi trường.

- Công ước CITES có hiệu lực.

1976

- Thành lập Tổ chức Đăng ký quốc tế các hoá chất độc hại tiềm tàng (IRPTC).

- Vụ nổ hoá chất gây phát tán điôxin ở Seveso, ngoại ô Milan.

- Công ước về Bảo vệ biển Địa Trung Hải khỏi ô nhiễm.

1977

- Kế hoạch hành động Bảo tồn, Quản lý và Sử dụng động vật biển có vú của Chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc và Tổ chức Nông Lương quốc tế (UNEP/ FAO).

- Phong trào Vành đai xanh ra đời ở Kênia.

1978

- Hội đồng điều hành của UNEP thông qua nguyên tắc đạo đức môi trường nhằm hướng dẫn các nước trong việc bảo tồn và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà hai hay nhiều quốc gia cùng chia sẻ.

- Công ước khu vực Kuwait về Hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển tránh ô nhiễm.

1979

- Công ước về Bảo tồn các loài động vật di cư hoang dã.

- Công ước Geneva về Ô nhiễm không khí xuyên biên giới trong phạm vi rộng.

- Hội nghị thế giới đầu tiên về biến đổi khí hậu ở Geneva.

1980

- UNEP phối hợp với IUCN và WWF ban hành Chiến lược bảo tồn thế giới, được coi như tuyên bố chính trị chung đầu tiên về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển bền vững.

- Hội đồng Brandt xuất bản cuốn "Nam Bắc: Chương trình vì sự sinh tồn".

1981

- Công ước về hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển môi trường biển và ven biển Tây và Trung Phi.

- Công ước về bảo vệ môi trường biển và khu vực ven biển vùng Đông Nam Thái Bình Dương.

1982

- UNEP tổ chức Hội nghị Stockholm + 10 tại Nairobi.

- Chương trình Montevideo về Phát triển và Đánh giá định kỳ Luật Môi trường.

- Công ước khu vực về Bảo tồn môi trường Hồng Hải và vịnh Aden.

- Thành lập Viện Tài nguyên Trái Đất.

1983

- Công ước về Bảo vệ và phát triển môi trường biển vùng Caribê mở rộng.

1984

- Quỹ Truyền hình Môi trường (VTE) được thành lập với sự cộng tác của Hãng truyền hình Trung ương Anh Tổ chức hội nghị thế giới đầu tiên về quản lý môi trường.

1985

- Công ước Viên về Bảo vệ tầng ôzon.

- Công ước về Bảo vệ, Quản lý và Phát triển môi trường biển và ven biển khu vực Đông Phi.

- Các nhà khoa học phát hiện ra lỗ thủng tầng ôzon.

1986

- Chương trình quản lý thân thiện môi trường đối với vùng nước lục địa, nhằm giúp đỡ chính phủ các nước lồng ghép các mối quan tâm đối với môi trường vào các chính sách vùng nước nội địa của họ.

- Công ước về Bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và Môi trường tại khu vực Nam Thái Bình Dương.

- Uỷ ban săn bắt cá voi quốc tế ban bố lệnh tạm ngừng buôn bán cá voi.

1987

- Nghị định thư Montreal về các chất gây suy giảm tầng ôzon.

- Nguyên tắc Cairo về quản lý chất thải độc hại.

- Ấn phẩm “Tương lai chung của chúng ta” được Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển xuất bản.

1989

- Công ước Basel về quản lý vận chuyển xuyên biên giới và chôn lấp các chất thải nguy hại.

1990

- Thành lập Trung tâm hợp tác năng lượng tại Đan Mạch nhằm thúc đẩy sự phát triển các kế hoạch năng lượng quốc gia thân thiện với môi trường.

1991

- Thành lập Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) với sự tham gia với tư cách thành viên của UNEP, UNDP, WB.

- Nghị định thư về Bảo vệ môi trường, bổ sung cho Hiệp ước Nam cực, được ký tại Mađrit.

1992

- Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janeiro.

- Công ước về bảo vệ biển Đen tránh khỏi ô nhiễm.

- Công ước khung về Biến đổi khí hậu.

- Công ước về Đa dạng sinh học.

1993

- Chương trình Montevideo II về Phát triển và đánh giá định kỳ Luật Môi trường.

1994

- Công ước Liên Hiệp Quốc về chống sa mạc hoá.

- Nhóm liên chính phủ của Liên Hiệp Quốc xây dựng báo cáo biến đổi khí hậu cảnh báo về những ảnh hưởng nghiêm trọng lâu dài của hiện tượng hiệu ứng nhà kính.

1995

- Chương trình toàn cầu hành động bảo vệ môi trường biển trước các hoạt động từ đất liền.

- Báo cáo đánh giá đa dạng sinh học toàn cầu.

- Báo cáo đánh giá lần II về biến đổi khí hậu.

- Hướng dẫn quốc tế về an toàn sinh học.

1996

- ISO 14000 đưa ra hệ thống quản lý môi trường trong ngành công nghiệp.

- Hiệp ước toàn diện về cấm thử vũ khí hạt nhân.

1997

- Nghị định thư Kyoto được 122 quốc gia thông qua.

1998

- Sự trợ giúp hợp tác Liên Hiệp Quốc trong công tác chống cháy rừng ở Nam Phi.

1999

- Thành lập lực lượng đặc biệt đánh giá ảnh hưởng của xung đột vùng Balkans đối với môi trường.

- Ngày 12 tháng 10 được coi là “ngày người thứ 6 tỷ” của dân số thế giới theo ước tính của Liên Hiệp Quốc.

2000

- Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học áp dụng các biện pháp phòng ngừa đối với việc buôn bán động thực vật biến đổi gien.

2001

- Công ước Stockholm về các chất hữu cơ khó phân huỷ yêu cầu loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng 9 loại thuốc trừ sâu độc hại, khó phân huỷ, và hạn chế sử dụng một số loại hoá chất khác.

- Hiệp ước về nguồn gen thực vật cho lương thực và nông nghiệp được thông qua tại Hội nghị của Tổ chức Nông Lương – FAO.

2002

- Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về PTBV tại Johannesburg, Nam Phi.

1.2.2.2. Ở Việt Nam - những mốc lịch sử và những sự kiện môi trường

Khi nói đến lịch sử nghiên cứu và phát triển của lĩnh vực môi trường thì có thể nói rằng chúng ta đi sau thế giới cả một thập kỷ. Năm 1982, lần đầu tiên chúng ta tổ chức Hội nghị Khoa học về “Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên”. Năm 1985, Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường thuộc Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ra đời, đánh dấu bước ngoặt có một trung tâm nghiên cứu về lĩnh vực môi trường và tài nguyên thiên nhiên đầu tiên ở nước ta.

Bảng 1.3. Những sự kiện quan trọng về môi trường ở Việt Nam

Năm

Sự kiện

1972

- Ban hành Pháp lệnh Bảo vệ rừng, thành lập lực lượng Kiểm lâm nhân dân.

1979

- Tham gia INFOTERRA - hệ thống đầu mối thông tin môi trường của Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP).

1980

- Thực hiện Chương trình Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn do UNICEF tài trợ.

- Thành lập Uỷ ban Quốc gia điều tra hậu quả chất diệt cỏ và làm trụi lá cây Mỹ dùng trong chiến tranh ở Việt Nam (Uỷ ban 10 - 80).

- Vụ Điều tra cơ bản lấy tên giao dịch quốc tế là Vụ Tài nguyên và Môi trường.

1981

- Công bố Hiến pháp năm 1980, trong đó có Điều 36 thuộc Chương Chế độ kinh tế qui định trách nhiệm bảo vệ môi trường.

- Ban hành Luật Bảo vệ Sức khoẻ của nhân dân.

- Tiến hành các chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Nhà nước về Phát triển và Phân bố lực lượng sản xuất, tài nguyên và môi trường, quy hoạch môi trường vùng Đông Nam Bộ …

1982

- Lần đầu tiên tổ chức kỷ niệm Ngày Môi trường Thế giới 5/6 tại Nhà hát lớn - Thành phố Hà Nội.

- Tham gia công ước về Bảo vệ Di sản văn hoá và Tự nhiên thế giới (HERITAGE).

1983

- Thành lập Vườn Quốc gia Cát Bà, khu bảo tồn rừng - biển đầu tiên của Việt Nam.

- Tiến hành Hội nghị quốc tế về Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và Bảo vệ môi trường trong khuôn khổ Chương trình Tài nguyên và Môi trường.

1985

- Ban hành nghị quyết số 246/HĐBT ngày 20/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về “Tăng cường công tác điều tra cơ bản, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường”.

- Tổ chức Hội nghị Khoa học về biển với tiêu đề “Hướng ra biển”.

- Tham gia Tổ chức Đăng ký các hoá chất độc hại tiềm tàng (IRPTC).

1987

- Ban hành Luật Đất đai.

- Tiến hành Hội thảo quốc gia “Bảo vệ môi trường bằng pháp luật”.

- Tham gia Công ước IAEA về thông báo sớm sự cố hạt nhân.

- Tham gia Công ước về trợ giúp trong các trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu về phóng xạ.

1988

- Ban hành Pháp lệnh Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản.

- Thành lập Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam.

- Hội thảo đầu tiên về Đánh giá tác động môi trường.

1990

- Ban hành Pháp lệnh về Thuế Tài nguyên.

- Tổ chức thành công Hội nghị quốc tế về Môi trường và Phát triển bền vững tại Hà Nội.

- Xây dựng hàng loạt các dự án về bảo vệ môi trường.

1991

- Thông qua Luật Bảo vệ và Phát triển rừng.

- Thông qua kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững 1991 - 2000.

- Tham gia Công ước quốc tế về Ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền (MARPOL), Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của loài chim nước (RAMSAR).

1992

- Thành lập Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.

- Đoàn Việt Nam do Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Khánh dẫn đầu tham dự Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (RIO 92), ký các văn kiện và công ước chính về môi trường đã thông qua tại Hội nghị.

1993

- Ngày 27/12/1993, Quốc hội khoá IX thông qua Luật Bảo vệ Môi trường (15 ngày sau bắt đầu có hiệu lực).

- Thông qua Luật Dầu khí, Pháp lệnh Thú y, Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch Thực vật.

- Thành lập Cục Bảo vệ Môi trường.

- Việt Nam trở thành thành viên chính thức của IUCN.

- Đại hội lần thứ 2 Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam.

1994

- Ban hành Nghị định 175/CP về Hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường.

- Trình Báo cáo Hiện trạng môi trường đầu tiên của Việt Nam cho Quốc hội.

- Các Công ước sau đây chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam: Công ước về Buôn bán quốc tế những loài động thực vật có nguy cơ bị đe doạ (CITES), Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzon, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu, Công ước về Đa dạng sinh học.



1995

- Thông qua Kế hoạch hành động quốc gia về bảo vệ đa dạng sinh học.

- Thông tư 2262/TT-MTg hướng dẫn khắc phục sự cố tràn dầu.

- Hình thành trên thực tế mạng lưới Monitoring quan trắc và phân tích môi trường.

- Tham gia Công ước về Kiểm soát việc vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hại và việc loại bỏ chúng (Công ước BASEL).

- Việt Nam tham gia ”Chiến dịch làm cho Thế giới sạch hơn”.

1996

- Thông qua Luật Khoáng sản.

- Thông qua Pháp lệnh An toàn và Kiểm soát bức xạ.

- Ban hành Nghị định 26/CP Qui định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường.

- Ban hành Nghị định 07/CP và 78/CP của Chính phủ về Quản lý giống cây trồng và xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Chỉ thị 359/TTg và 286/TTg của Thủ tướng Chính phủ về Những biện pháp cấp bách bảo vệ và phát triển động vật hoang dã và bảo vệ và phát triển rừng.

- Thông tư 2781/TT- KCM và 2891/TT-KCM hướng dẫn về thủ tục cấp, gia hạn, thu hồi Giấy Chứng nhận đạt Tiêu chuẩn Môi trường và Bảo vệ môi trường vịnh Hạ Long.

1997

- Ban hành Nghị quyết số 05 của Quốc hội khoá X về tiêu chuẩn các công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội xem xét, quyết định đầu tư (một dạng đánh giá tác động môi trường “chiến lược”).

- Ban hành Chỉ thị 199/TTg về việc quản lý chất thải rắn ở các đô thị và khu công nghiệp.

- Thành lập Văn phòng GEF Việt Nam.

- Tham gia Mạng thông tin Môi trường toàn cầu UNEPnet.

- Tổ chức Triển lãm môi trường toàn quốc lần thứ nhất.

1998

- Bộ Chính trị ra Chỉ thị 36 - CT/TW về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”.

- Thông qua Luật Tài nguyên nước.

- Tổ chức Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ nhất.

- Tham gia Công ước chống sa mạc hoá.

1999

- Phê duyệt Chiến lược quản lý Chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2020 và phê duyệt Quy chế Quản lý chất thải nguy hại.

- Diễn đàn Môi trường ASEAN lần thứ nhất tổ chức tại Hà Nội theo sáng kiến của Việt Nam.

- Ban hành thông tư Liên Bộ về ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản.

- Thành lập Ban chỉ đạo quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam (Ban Chỉ đạo 33).

- Việt Nam ký Tuyên ngôn quốc tế về sản xuất sạch hơn.

2000

- Quốc hội thông qua Bộ Luật Hình sự sửa đổi, trong đó có Chương XVII - Các tội phạm về môi trường, có hiệu lực từ 1/7/2000.

- Trình Chính phủ Chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường đến năm 2010.

- Năm Môi trường ASEAN.

- Thực thi Chiến lược Bảo tồn rừng tự nhiên và Trồng mới 5 triệu ha rừng.

- Quỹ cải thiện môi trường của TP.HCM phát huy hiệu lực.

2001

- Chính phủ thông qua đề án “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”.

- Tham gia Công ước về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ (POP).

2002

- Thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường.

- Thành lập Quỹ Môi trường Việt Nam.

- Xây dựng Chương trình Nghị sự Agenda 21 của Việt Nam.

- Tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững.

- Tổ chức Hội nghị Việt - Mỹ đầu tiên về hậu quả chất độc da cam/đioxin lên con người và môi trường.

- Ký biên bản Nhóm Hỗ trợ quốc tế về Môi trường (ISGE).

2005

- Tổ chức Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ hai.

- Quốc hội khoá XI thông qua Luật Bảo vệ Môi trường sửa đổi.

2006

- Ngày 10/8/2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 184/2006/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước Stốckhôm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP).

- Ngày 29/11/2006 thành lập Cục Cảnh sát Môi trường thuộc Bộ Công an.

- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ngày 18/9/2006 về việc thành lập Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường.



Chương 2

TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH LÊN MÔI TRƯỜNG

2.1. Dự báo và xu hướng phát triển du lịch

2.1.1. Dự báo phát triển du lịch trên thế giới và Việt Nam

Trong ấn phẩm Tourism 2020 Vision, Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) đã đưa ra các dự báo về sự phát triển ngành du lịch thế giới trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI. Trong tài liệu này, năm 1995 được lấy là năm cơ sở để tính toán, so sánh và dự báo cho các năm tiếp theo như ở bảng 2.1.



Bảng 2.1. Dự báo lượng khách du lịch đến năm 2020 (triệu lượt khách)

Khu vực

Năm cơ sở để tính

Năm dự báo

Tỷ lệ % tăng trưởng TB hàng năm

Thị phần (%)

1995

2010

2020

1995 - 2010

1995

2020

Cả thế giới

565,4

1.006,4

1.561,1

4,1

100

100

Châu Phi

20,2

47,0

77,3

5,5

3,6

5,0

Châu Mỹ

108,9

190,4

282,3

3,9

19,3

18,1

Bắc Á và Thái Bình Dương

81,4

195,2

397,2

6,5

14,4

25,4

Châu Âu

338,4

527,3

717,0

3,0

59,8

45,9

Nam Á

4,2

10,6

18,8

6,2

0,7

1,2

(Nguồn: WTO, 2005)

 Như vậy, dự báo của WTO cho đến năm 2020 được diễn giải như sau:

- Tốc độ tăng trưởng trung bình của du lịch thế giới là 4,1% và lượng khách du lịch quốc tế sẽ đạt tới con số 1,56 tỷ lượt người vào năm 2020. Trong đó châu Âu sẽ có 717 triệu lượt khách du lịch, chiếm vị trí hàng đầu khi so sánh giữa các châu lục; châu Á - Thái Bình Dương đứng thứ hai với khoảng 397 triệu lượt; châu Mỹ đứng thứ ba với khoảng 282 triệu lượt.

- Bắc Á - Thái Bình Dương, châu Phi, và Nam Á được dự báo có mức tăng trưởng du lịch khoảng 5%/năm, cao hơn mức trung bình của toàn thế giới. Châu Âu và châu Mỹ sẽ có chỉ số tăng trưởng thấp hơn chỉ số trung bình 4,1% nêu trên.

- Châu Âu tiếp tục duy trì thị phần khách du lịch cao nhất thế giới, dù cho có giảm từ 59,8% vào năm 1995 xuống còn 45,9% vào năm 2020.

Ngày 11 tháng 04 năm 2005, khi phân tích hoạt động du lịch và lữ hành, Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới (WTTC) đã công bố Báo cáo Dự báo du lịch cho 174 nước tại Hội nghị cấp cao về du lịch và lữ hành toàn cầu lần thứ V họp ở New Dehli - Ấn Độ:

- 10 quốc gia sẽ tăng trưởng du lịch mạnh nhất là: 1. Montenegro (9,9%) 2. Trung Quốc (9,2%) 3. Ấn Độ (8,6%) 4. Reunion (8,3%) 5. Croatia (7,8%) 6. Sudan (7,7%) 7. Việt Nam (7,7%) 8. Lào (7,6%) 9. Cộng hoà Séc (7,5%) 10. Guadeloupe (7,2%).

- Dự báo tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của du lịch và lữ hành thế giới từ 2006 - 2015 là 4,6% với doanh số dự kiến đạt 6.201,49 tỷ USD, tương đương 10,6% tổng GDP toàn cầu.

Như vậy, mức tăng trưởng của ngành du lịch của Việt Nam cũng được dự báo sẽ duy trì ở mức 7,7%. Theo quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam, cần phải đáp ứng yêu cầu đón tiếp khoảng 9 triệu du khách quốc tế và 25 triệu du khách nội địa vào năm 2010.

2.1.2. Xu hướng phát triển du lịch hiện nay

2.1.2.1. Gia tăng nhanh chóng về số lượng

Trong thời kỳ hiện đại, số lượng khách du lịch ra nước ngoài tăng nhanh. Những yếu tố được coi là những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sự tăng trưởng này là mức sống của người dân, giá cả các dịch vụ hạ hơn trong khi mức thu nhập của họ lại tăng dần. Mặt khác cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch như lưu trú, vận chuyển ngày càng thuận tiện và thoải mái hơn. Trong lúc đó, tại nơi ở thường xuyên của du khách, mức độ ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng đã trở thành một yếu tố quan trọng thúc đẩy họ đi du lịch.

Điều kiện sống của nhân dân là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Nó được hình thành nhờ việc tăng thu nhập thực tế và cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao khẩu phần ăn uống, phát triển đầy đủ mạng lưới y tế, văn hoá, giáo dục. Thu nhập tăng thì nhu cầu du lịch và chi phí cho du lịch tăng nhanh. Thu nhập càng cao, càng nhiều gia đình đi du lịch.

Để có thể đi du lịch và thực hiện tiêu dùng du lịch, con người phải có điều kiện vật chất đầy đủ. Đó là điều kiện cần thiết để biến nhu cầu du lịch nói chung thành nhu cầu du lịch (nhu cầu có khả năng chi trả). Do vậy phúc lợi vật chất của nhân dân là điều kiện có ý nghĩa quyết định trong sự phát triển du lịch. Nhiều công trình nghiên cứu đều cho thấy rằng khi thu nhập du lịch tăng lên thì nhu cầu du lịch cũng gia tăng, hoặc những người có thu nhập cao thì đi du lịch nhiều hơn.

Giáo dục là nhân tố kích thích du lịch. Trình độ giáo dục được nâng cao thì nhu cầu du lịch sẽ tăng lên rõ rệt, sự ham hiểu biết và mong muốn tìm hiểu cũng tăng lên và trong nhân dân, thói quen đi du lịch sẽ hình thành ngày càng rõ. Ở Liên Xô cũ, người ta đã tổng kết được rằng trình độ văn hóa tăng lên thì số người nghỉ tại nhà giảm đi. Cụ thể là từ 36% trong số những người có trình độ sơ cấp xuống còn 28% ở những người có trình độ trung cấp và 7% ở những ngư­ời có trình độ cao cấp. Những kết quả điều tra ở Mỹ cũng t­ương tự, những gia đình mà người chủ gia đình có trình độ văn hóa càng cao thì tỷ lệ đi du lịch càng lớn. Giáo dục có liên quan chặt chẽ với thu nhập và nghề nghiệp. Tuy còn có một số trường hợp ngoại lệ, song về cơ bản là như­ vậy. Những người có trình độ giáo dục cao sẽ có nghề nghiệp phù hợp với mức thu nhập cao.

Sự tập trung dân cư­ vào các thành phố, sự gia tăng dân số, tăng mật độ dân cư­, sự thay đổi cấu trúc, độ dài tuổi thọ ... đều có liên quan mật thiết với sự phát triển du lịch.

Con người không thể đi du lịch nếu không có thời gian. Do vậy thời gian rỗi là điều kiện tất yếu cần thiết để có thể tham gia vào hoạt động du lịch. Thời gian rỗi của người dân ở từng nước được qui định trong luật lao động hoặc theo hợp đồng lao động ký kết.

Thời gian rỗi có thể tăng lên nếu con người nếu sử dụng hợp lý quỹ thời gian của mình và có chế độ lao động hợp lý. Thời gian rỗi còn tăng được bằng cách giảm thời gian của các công việc khác ngoài giờ làm việc. Nếu như­ trư­ớc đây (giống như­ ở các nước đang phát triển ngày nay) người ta phải dành trung bình 1/3 đến 1/2 thời gian vào việc bếp núc và các việc vặt trong gia đình như dọn dẹp, giặt giũ thì ở các nước công nghiệp công việc này chỉ chiếm 1 đến 2 giờ một ngày.

Xu hư­ớng chung trong điều kiện phát triển hiện nay là giảm bớt thời gian làm việc và tăng thời gian nhàn rỗi. Nhiều nước trên thế giới (trong đó có Việt Nam) đã chuyển sang chế độ làm việc 5 ngày một tuần. Điều đó góp phần làm cho số du khách gia tăng đáng kể.

Đô thị hóa tạo nên một lối sống đặc biệt - lối sống thành thị. Đô thị hóa làm hình thành các thành phố lớn và các cụm thành phố. Quá trình đô thị hóa đã thúc đẩy quá trình cải thiện điều kiện vật chất và văn hóa cho nhân dân, làm thay đổi tâm lý và hành vi của con người. Khi nhận xét ý nghĩa tích cực của quá trình đô thị hoá, Lê nin đã chỉ ra rằng sự di chuyển dân cư từ nông thôn vào thành phố đã cuốn họ vào một cuộc sống xã hội hiện đại, “nâng cao trình độ và nhận thức của họ, tạo cho họ những thói quen và nhu cầu văn hoá”.

Đồng thời, quá trình đô thị hóa còn dẫn tới sự thay đổi điều kiện tự nhiên, tách con người ra khỏi môi trường tự nhiên bao quanh, làm thay đổi điều kiện khí hậu, bầu khí quyển và những điều kiện tự nhiên khác.

Trong nhiều tr­ường hợp, quá trình đô thị hóa làm giảm chất l­ượng môi trường, có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ của con người. Mật độ dân số cao, lượng thông tin quá nhiều, tần số tiếp xúc lớn, giao thông đi lại nhộn nhịp, ách tắc.... là những nguyên nhân gây ra sự căng thẳng thần kinh.

Những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hóa lại làm tăng nhu cầu nghỉ ngơi du lịch của người dân thành phố. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy rằng nhu cầu du lịch của người dân thành phố hoặc các điểm tập trung dân cư­ lớn hơn nhiều so với người dân nông thôn. Tình trạng làm việc căng thẳng, nạn ô nhiễm môi trường đòi hỏi con người phải nghỉ ngơi, tìm những nơi có môi trường trong lành để thư­ giãn, phục hồi sức khoẻ.

Một trong những nguyên nhân nữa làm cho số lượng khách đi du lịch gia tăng là sự phát triển nhanh chóng của các ph­ương tiện giao thông. Tiện nghi phục vụ cho các chuyến du lịch ngày càng đầy đủ hơn, dễ chịu hơn. Hành trình trên các ph­ương tiện giao thông không còn ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ nên những người yếu, trẻ em và ngư­ời già cũng tham gia đông đảo vào các chuyến du lịch.

2.1.2.2. Xã hội hóa thành phần du khách

Hàng loạt sự kiện chính trị, xã hội quan trọng đã xảy ra, sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp trong nửa đầu thế kỷ XX đã biến du lịch thành một trong những lĩnh vực kinh doanh chính của thế giới và là một hoạt động giải trí dành cho tầng lớp trung l­ưu. Sau thời gian hoạt động du lịch bị gián đoạn bởi hai cuộc Thế chiến, khát vọng được đi du lịch d­ường như­ đã tăng lên mạnh mẽ hơn tr­ước. Ng­ười ta bỏ lại những đau khổ và lo âu của chiến tranh đằng sau họ và khao khát đi du lịch. Chính nhờ đó mà du lịch lại phát triển nhanh chóng khi những xung đột, mâu thuẫn lắng xuống và sự bình th­ường hóa được thiết lập giữa các quốc gia.

Bư­ớc phát triển quan trọng nhất của du lịch trong thời đại công nghiệp là ở lĩnh vực giao thông. Sự xuất hiện ô tô và máy bay cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động du lịch. Hai loại hình giao thông này đã trở thành phương tiện du lịch được tầng lớp trung lư­u, tầng lớp có số lượng đông đảo tín nhiệm. Tầng lớp người này trong xã hội đều hội đủ điều kiện thời gian và tài chính cho hoạt động du lịch. Năm 1958, vé máy bay hạng bình dân ra đời đã cho phép nhiều người thuộc tầng lớp trung l­ưu sử­ dụng ph­ương tiện vận chuyển hiện đại này. Việc mở rộng hệ thống xe khách đ­ường dài cũng như­ các dịch vụ b­ưu điện đã đáp ứng nhu cầu phát triển ngành du lịch và kinh doanh lữ hành. Nh­ưng du lịch đ­ường thủy vẫn có vẻ đư­ợc chuộng hơn và thuận tiện hơn. Vào thế kỷ XVIII – XIX, tàu thủy là phương tiện thích hợp với những chuyến đi tới các vùng thuộc địa, đất mới như châu Phi, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Á, Viễn Đông để mở rộng thị tr­ường tiêu thụ, các con đường buôn bán và mở rộng thuộc địa. Trong khi các con tàu tung hoành khắp các biển, việc xuất hiện các đầu máy hơi nư­ớc, đ­ường ray đã làm phong phú thêm các loại hình giao thông đ­ường bộ.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cơ cấu thành phần du khách có nhiều thay đổi. Du lịch không còn là một đặc quyền của tầng lớp quý tộc, tầng lớp trên của xã hội nữa. Xu thế quần chúng hoá thành phần du khách trở nên phổ biến ở mọi n­ước. Và trong bối cảnh đó, du lịch đại chúng thời hiện đại đã tự khẳng định mình. Lý do của hiện t­ượng này cũng là do mức sống của người dân được nâng cao, giá cả dịch vụ và hàng hóa không đắt, các ph­ương tiện giao thông, vận tải l­ưu trú ... phong phú và thuận tiện. Ngoài ra còn phải kể đến chính sách của chính quyền. Ở nhiều nơi, nhà nước có những chính sách khuyến khích người dân đi du lịch do thấy rõ được ý nghĩa của hiện tư­ợng này đối với sức khoẻ cộng đồng. Ví dụ Chính phủ Nhật Bản đề ra chủ tr­ương khuyến khích người dân đi du lịch ra nư­ớc ngoài trong các kỳ nghỉ phép năm. Với chính sách đó, trong giai đoạn đầu thập niên 90, hàng năm có từ 7-10 triệu người Nhật đi du lịch nư­ớc ngoài và chi tiêu khoảng 7- 13 tỷ đô la Mỹ. Chính sách khuyến khích thể hiện cụ thể ở việc giảm giá ph­ương tiện đi lại, giảm giá l­ưu trú thông qua việc miễn giảm thuế. Nhiều nơi còn tổ chức các chuyến du lịch bao cấp cho cán bộ, công nhân viên, những người có thu nhập thấp và không có khả năng chi trả ...

2.1.2.3. Mở rộng địa bàn

Sau khi người Anh chỉ ra giá trị du lịch của Địa Trung Hải với ba chữ S (Sea, Sand, Sun), luồng khách Bắc - Nam là h­ướng đi du lịch chủ đạo quan sát được trên thế giới. Người Anh, Hà Lan, Đức, Bỉ ...đổ về các miền bờ biển Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Italia để tận hư­ởng cái ấm áp, mát mẻ và trong xanh của vùng này. Như­ vậy bản chất của luồng khách Bắc - Nam là hướng dương và h­ướng thủy về các vùng biển nhiệt đới. Theo thống kê của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO), trung bình cứ 8 người đi du lịch có một người đi nghỉ biển. Chính vì vậy, tại hội nghị toàn ngành du lịch tổ chức tại Hà Nội đầu năm 1997, Tổng Cục tr­ưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam Võ Thị Thắng đã khẳng định: “Trọng tâm phát triển du lịch Việt Nam trong các năm tới là các địa ph­ương có biển. Du lịch tham quan và tắm biển sẽ vẫn là chìa khóa mở cánh cửa tiềm năng du lịch của đất nư­ớc”.

Ngày nay, tuy hư­ớng Bắc - Nam vẫn là h­ướng hấp dẫn nhiều du khách nhất, nh­ưng không còn giữ vai trò áp đảo như trước đây nữa. Đặc điểm của luồng khách này là tập trung vào kỳ nghỉ hè và có số lượng t­ương đối tập trung.

Luồng khách thứ hai ngày nay cũng đã thịnh hành là h­ướng về các vùng núi cao phủ tuyết được mệnh danh là vàng trắng (Lozato – Giotar, 1990). Nhu cầu về với thiên nhiên hoang sơ, nơi có không khí trong lành hay muốn được th­ử thách bản thân và thể hiện mình sẽ có điều kiện đáp ứng. Trư­ợt tuyết, leo núi, săn bắn là các loại hình đ­ược nhiều người ư­a thích.

Một luồng khách tuy mới phát triển nh­ưng rất có triển vọng trong t­ương lai gần là hướng chuyển động Tây - Đông. Theo các chuyên gia, thế kỷ XXI được gọi là thế kỷ của châu Á - Thái Bình Dương. Trong những năm gần đây, số du khách từ các nước đến khu vực này gia tăng đáng kể. Một số người đến đây để tình cơ hội làm ăn, ký kết hợp đồng, nghiên cứu điều kiện đầu tư.­.. Một số khác đến đây vì cảnh quan hay vì muốn tìm hiểu một nền văn hoá ph­ương Đông đầy bản sắc và phần nào kỳ bí đối với họ. Những công trình kiến trúc tuy không đồ sộ nhưng ẩn chứa một giá trị tinh thần to lớn, những phong tục tập quán khác lạ ... luôn góp phần tạo nên những sản phẩm du lịch hấp dẫn.

Ở châu Á, khu vực các nước Đông Nam Á là một trong những khu vực có hoạt động du lịch sôi động nhất. Nếu lấy tỷ lệ du khách trên đầu người dân thì Singapore có tỷ lệ vào hàng thứ nhất trên thế giới: 3/1. Malaysia và Thái Lan cũng được coi là những c­ường quốc du lịch đón du khách quốc tế trong khu vực.

2.1.2.4. Kéo dài thời vụ du lịch

Một trong những đặc điểm của hoạt động du lịch là mang tính thời vụ khá rõ nét. Điều này có nghĩa là về bản chất, du lịch là một hoạt động bị lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Ngày nay với trình độ khoa học kỹ thuật và khả năng kinh tế, con người đã và đang khắc phục được những hạn chế của thiên nhiên. Do tính thời vụ là một yếu tố bất lợi trong kinh doanh cho nên người ta đã tìm mọi cách để hạn chế ảnh hư­ởng của nó như­ mở rộng các loại hình du lịch, dịch vụ. Việc kéo dài mùa du lịch đã góp phần tăng thêm lượng khách trong những năm gần đây (Trần Đức Thanh, 1999).

2.2. Tác động của du lịch đến môi trường

2.2.1. Tác động của du lịch đến môi trường tự nhiên

Tác động của các hoạt động du lịch lên môi trường có thể làm thay đổi đặc điểm sử dụng tài nguyên hay các đặc tính của môi trường.

2.2.1.1. Tác động tích cực

Du lịch góp phần bảo vệ môi trường thông qua:



* Cung cấp nguồn tài chính

- Du lịch góp phần bảo vệ các khu vực nhạy cảm về môi trường thông qua việc cung cấp nguồn tài chính. Thu nhập từ vé vào các công viên có thể được dùng để chi trả cho việc bảo vệ và quản lý các hệ sinh thái nhạy cảm.



Khung 2.1. Du lịch góp phần bảo tồn đười ươi

Tổ chức tour du lịch Khởi nguồn khám phá (Discovery Initiatives) là một thành viên của tổ chức Tour phát triển du lịch bền vững, hàng năm đã tạo ra nguồn tài chính cho Quỹ bảo vệ đười ươi (Orangutan Foundation) khoảng 45.000 USD. Số tiền này kiếm được từ 5 nhóm Tour, mỗi nhóm gồm 10 người tổ chức tham quan Vườn Quốc gia Tanjing Putting ở miền Trung Kalimantan. Số tiền này tài trợ trực tiếp cho các nhân viên và kiểm lâm của vườn nhằm hỗ trợ cho việc bảo tồn đười ươi con và chăm sóc chúng. Đây là nguồn hỗ trợ kinh tế duy nhất để bảo tồn khu vườn này, nơi mà vé vào vườn chỉ 12 xu (pence)/1 ngày.



(Nguồn: UNEP, 1999)

- Ở một số nơi, chính quyền địa phương thu tiền bằng nhiều cách gián tiếp và có thể áp dụng rộng rãi mà không liên quan đến các khu vườn hoặc khu bảo tồn. Lệ phí sử dụng, thuế thu nhập, thuế doanh thu hoặc tiền thuê các cơ sở nghỉ ngơi, lệ phí cấp phép cho các hoạt động săn bắt và đánh cá ... có thể cung cấp các nguồn tài chính cần thiết để quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Những nguồn tài chính như thế có thể được sử dụng cho các chương trình và hoạt động bảo tồn nói chung, trả lương cho các nhân viên kiểm lâm và bảo vệ vườn. Ví dụ như chính quyền Seychelles ở Ấn Độ Dương đã đưa ra mức thuế 90USD cho du khách đến Seychelles. Thu nhập đó được sử dụng để bảo vệ môi trường và cải thiện cơ sở vật chất du lịch (UNEP, 1999).

* Gia tăng nhận thức đối với môi trường

Du lịch có khả năng làm tăng nhận thức của cộng đồng về môi trường khi họ tiếp xúc gần gũi với thiên nhiên và môi trường. Sự tiếp xúc này khiến du khách có thể nhận thức đầy đủ các giá trị của thiên nhiên và có những hành vi và hoạt động có ý thức để bảo vệ môi trường. Ví dụ như học sinh Honduran từ Thủ đô Tegucigalpa thường được đưa đến tham quan rừng La Tigra để hiểu rõ về sự đa dạng của rừng mưa.

Để phát triển bền vững trong một thời gian dài, du lịch phải kết hợp chặt chẽ các nguyên tắc và các hoạt động tiêu dùng bền vững. Tiêu dùng bền vững là tạo ra các sản phẩm tiêu dùng được sản xuất bằng công nghệ sạch, và các dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch được cung cấp theo phương pháp có thể giảm thiểu tác động vào môi trường. Du lịch còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thông tin môi trường và làm tăng nhận thức cho du khách về những hậu quả môi trường do hoạt động của họ gây ra. Các định hướng cho khách du lịch và những hoạt động kinh doanh sử dụng những hàng hóa và dịch vụ mà được sản xuất và cung cấp theo phương pháp bền vững về môi trường, từ khâu bắt đầu cho đến khi kết thúc, sẽ có những tác động tích cực đối với môi trường toàn cầu.

* Bảo vệ và gìn giữ môi trường

Du lịch góp phần rất lớn vào việc bảo vệ môi trường, gìn giữ và bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhờ sự hấp dẫn đối với du khách mà các khu rừng tự nhiên hoặc nguyên sinh có giá trị đều được bảo vệ và quy hoạch thành các vườn quốc gia hoặc các khu bảo tồn thiên nhiên.

Ở Hawaii, có những luật lệ và quy định được ban hành để để bảo tồn rừng mưa Hawaii và bảo vệ các loài bản địa. Các rạn san hô xung quanh các đảo và sinh vật biển thông qua đó cũng được bảo vệ. Hiện nay, Hawaii đã trở thành trung tâm quốc tế nghiên cứu về các hệ sinh thái. Sự phát triển của du lịch trên các đảo cũng là động cơ chủ yếu để duy trì các hoạt động bảo vệ và nghiên cứu về môi trường.

Grupo Punta Cana, một khu du lịch nổi tiếng của nước Cộng hoà Dominica, đã đưa ra một hình thức phát triển du lịch cao cấp kết hợp với bảo tồn. Khu du lịch này được xây dựng để thu hút các du khách tầng lớp thượng lưu đến giải trí trong khi vẫn bảo vệ tốt môi trường ở Punta Cana. Các nhà thiết kế đã dành riêng 10.000ha đất đai (tương đương với 24.700 mẫu Anh) để bảo tồn thiên nhiên và trồng các loài cây ăn trái bản địa. Khu bảo tồn thiên nhiên Punta Cana có 11 suối nước ngọt được bao bọc bởi khu rừng á nhiệt đới với nhiều loài động thực vật quý hiếm vùng Caribe đang tồn tại ở trạng thái tự nhiên. Du khách có thể khám phá thế giới các loài chim, các loài thực vật vùng Caribe và “con đường thiên nhiên” dẫn ra biển qua rừng ngập mặn, đầm phá. Khu sinh thái Punta Cana đã khôi phục được rừng ở một số nơi cần được bảo vệ, những nơi mà trước đây cây gụ bản địa và những loài cây khác bị khai thác. Một số chính sách bảo vệ môi trường khác cũng đã ảnh hưởng tích cực đến khu du lịch này như các chương trình bảo vệ các dãi phòng hộ ven biển và xử lý nước thải để sử dụng tưới cây. Các đường lăn bóng của sân gôn được trồng bằng một loại cỏ lai có thể tưới được bằng nước biển. Loại cỏ này chỉ cần một nửa lượng phân bón và thuốc trừ sâu so với các loại cỏ thường dùng. Khu du lịch này được xây dựng như một phòng thí nghiệm đa dạng sinh học của Đại học Cornell.

Du lịch cũng đã có những ảnh hưởng tích cực đối với những nỗ lực bảo vệ và gìn giữ thiên nhiên, đáng chú ý là ở châu Phi, Nam Mỹ, châu Á, châu Úc và Nam Thái Bình Dương. Trước nguy cơ nhiều loài động vật và thực vật đã trở nên tuyệt chủng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng, nhiều nước đã thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên và ban hành luật nghiêm ngặt để bảo vệ các loài động vật có thể thu hút du khách yêu chuộng thiên nhiên. Kết quả là nhiều loài có nguy cơ bị đe doạ trước đây đã bắt đầu được khôi phục.


Khung 2.2. Du lịch góp phần bảo vệ môi trường ở Great Lakes

Những con khỉ núi Gorilla, một trong những loài khỉ bị đe doạ nhiều nhất thế giới ở vùng Hồ Lớn (Great Lakes) của Uganda, châu Phi đóng một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế và sinh thái của vùng. Vùng cư trú của loài khỉ này nằm ở biên giới phía Tây Bắc của Rwanda, phía Đông nước Cộng hoà Dân chủ Công Gô và Đông Nam Uganda. Bất chấp 10 năm khủng hoảng chính trị và chiến tranh dân sự trong vùng, nhu cầu thu nhập từ du lịch liên quan đến loài khỉ này đã khiến các phe đối lập phải hợp tác với nhau để bảo vệ những con khỉ và môi trường sống của chúng.

Giấy phép theo dõi khỉ Gorilla bao gồm cả lệ phí vào vườn trị giá 250USD, có nghĩa là chỉ với 3 nhóm khỉ được huấn luyện với tổng cộng 38 con có thể tạo ra hơn 3 triệu USD thu nhập/năm, tức là 1 con tạo ra gần 90.000 USD/năm cho Uganda. Nguồn thu nhập từ du lịch góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước, vùng và địa phương. Có được nguồn thu nhập từ du lịch như thế này ở những khu rừng nhạy cảm vùng núi châu Phi thì chắc chắn môi trường nguy cấp này sẽ được bảo vệ.

(Nguồn: UNEP Great Apes Survival Project và Discovery Initiatives, 2002)


Du lịch có thể thay đổi những hoạt động gây ảnh hưởng lớn đến môi trường. Minh chứng là Trường Ngôn ngữ Tây Ban Nha Ecoescuela de Espanol được thành lập vào 1996 là một phần trong dự án Bảo tồn quốc tế làng Guatemalan ở San Andres. Trường này nằm trong Khu bảo tồn sinh quyển Maya, gắn những khoá học ngôn ngữ với các Tour sinh thái được hướng dẫn bởi người địa phương. Khu bảo tồn này tuyển dụng gần 100 người dân, trong đó có 60% số người được thuê trước đây là khai thác gỗ trái phép, săn bắn và chặt phá, đốt rừng làm rẫy. Mỗi năm khu bảo tồn tiếp nhận khoảng 1.800 du khách, phần lớn trong số họ là từ Mỹ và châu Âu. Một cuộc khảo sát kỹ lưỡng vào năm 2000 cho thấy, các gia đình được hưởng lợi từ việc kinh doanh du lịch này đã giảm đáng kể hoạt động săn bắn cũng như chặt - đốt rừng lấy đất làm rẫy.



Khung 2.3. Nâng cao nhận thức và tăng thu nhập ở Trung tâm quan sát

Đười ươi Bohorok, Inđônêxia.

Quan sát những con đười ươi hoang dã và bán hoang dã trong môi trường sống tự nhiên của chúng là cơ hội để giáo dục môi trường một cách hiệu quả cho một lượng lớn du khách địa phương. Để nâng cao kinh nghiệm giáo dục này, một trung tâm đang hoạt động ở Bohorok, phía Bắc Sumatra là trung tâm quan sát đười ươi đã góp phần quan trọng trong việc bảo tồn hệ sinh thái rừng mưa. Nhờ phát triển du lịch sinh thái, tất cả mọi khách du lịch đều có được những kinh nghiệm bổ ích và thú vị thông qua việc quan sát những con đười ươi, thiên nhiên và hệ sinh thái rừng mưa nói chung. Điều này giúp họ nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo tồn rừng mưa. Ngoài ra, du lịch còn đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho dân cư địa phương. Việc tăng cường sử dụng rừng một cách bền vững sẽ tạo ra những thay đổi tích cực, giảm việc khai thác gỗ, săn bắn và buôn bán sinh vật hoang dã.



(Nguồn: Chương trình bảo tồn Đười ươi Sumatra (UNEP, 2003)

2.2.1.2. Tác động tiêu cực

Các tác động tiêu cực chủ yếu của du lịch đến môi trường là việc gây sức ép lên môi trường, tài nguyên thiên nhiên, phá huỷ các hệ sinh thái...

* Môi trường

Du lịch có thể gây ra các hình thức ô nhiễm môi trường giống như bất kỳ các ngành công nghiệp khác như: khí thải, tiếng ồn, chất thải rắn, nước thải, dầu, các hóa chất ... thậm chí cả ô nhiễm thẩm mỹ.



- Ô nhiễm không khí và tiếng ồn

Ô nhiễm không khí và tiếng ồn xảy ra gắn liền với các hoạt động xây dựng các công trình du lịch, giao thông vận chuyển hành khách, quá trình tổ chức các hoạt động phục vụ khách ... Nguyên nhân là do khí thải, tiếng ồn từ các loại máy xây dựng, các phương tiện giao thông và bụi bẩn trong không khí, do quá trình đốt củi, than, dầu, ga... để đáp ứng nhu cầu về năng lượng ở các cơ sở du lịch...

Do sự gia tăng lượng khách và số lần đi du lịch nên giao thông bằng đường hàng không, đường bộ và đường sắt cũng ngày càng phát triển. Theo Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO), số lượng hành khách hàng không quốc tế trên thế giới đã gia tăng từ 88 triệu hành khách vào năm 1972 lên 344 triệu khách năm 1994 và 598 triệu khách năm 2004. Kết quả của sự gia tăng này là ngày nay trong vận chuyển bằng đường hàng không, khách du lịch chiếm 60% tổng hành khách nên du lịch cũng là tác nhân quan trọng trong việc gây ra ô nhiễm cho bầu khí quyển. Một công trình nghiên cứu ước tính rằng một chuyến bay vượt Đại Tây Dương thải ra gần bằng một nửa lượng CO2 do một người thải ra trung bình hàng năm khi sử dụng các nguồn năng lượng như phát điện, đốt nóng, sử dụng ô tô ... (Mayer Hillman, 1996).

Việc sản xuất và sử dụng năng lượng trong giao thông có liên quan đến mưa axít, hiệu ứng nhà kính và sương mù quang hoá. Ô nhiễm không khí do việc sử dụng năng lượng trong các phương tiện giao thông dùng để vận chuyển khách du lịch thải ra carbon dioxide (CO2) đã có những tác động ở quy mô toàn cầu, và nó cũng góp phần làm cho môi trường không khí ở địa phường ô nhiễm nhiều hơn. Những tác động này rõ ràng hoàn toàn là do hoạt động của khách du lịch. Ví dụ như ở các nước rất nóng hay rất lạnh, các xe buýt chở du khách trong các tour vẫn để động cơ nổ nhiều giờ trong khi du khách đã ra khỏi xe đi tham quan vì họ muốn sau khi tham quan xong sẽ được vào trong một chiếc xe có điều hoà không khí.



Khung 2.4. Du lịch gây ra ô nhiễm tiếng ồn ở Vườn Quốc gia Yellowstone

Vào mùa đông năm 2000, có 76.271 người đến Vườn Quốc gia Yellowstone bằng xe mô tô trượt tuyết, nhiều hơn so với lượng khách đến bằng các phương tiện khác như ô tô buýt (40.727 người), xe ô tô có gắn thiết bị hỗ trợ đi trên tuyết (10.779 người) và ván trượt tuyết (512 người). Một cuộc điều tra âm thanh của xe mô tô trượt tuyết ở Yellowstone cho thấy rằng người ta nghe tiếng ồn của nó trong khoảng 70% thời gian ở 11 trong 13 địa điểm được chọn làm nơi khảo sát và 90% thời gian ở 8 địa điểm khác. Đặc biệt, ở mạch nước phun Old Faithful, âm thanh của xe mô tô trượt tuyết hầu như được nghe trong suốt thời gian nghiên cứu, thậm chí âm thanh này không bị át đi bởi tiếng phun của nước.



(Nguồn: UNEP, 2002)



Hình 2.1. Các xe mô tô trượt tuyết đến Yellowstone

Ô nhiễm tiếng ồn từ máy bay, xe ô tô, xe buýt cũng như các phương tiện giải trí khác (karaoke, dancing...) liên quan đến ngành du lịch ngày càng gia tăng trong đời sống hiện đại. Nó không chỉ gây khó chịu, stress và thậm chí mất thính giác đối với con người mà còn làm suy thoái môi trường tự nhiên, đặc biệt là ở những khu vực nhạy cảm.



- Ô nhiễm nước

Du lịch có thể làm ô nhiễm nước thông qua các hoạt động:

+ Xả thải bừa bãi các vật liệu xây dựng, đất đá và các chất nạo vét; vứt rác hoặc xả nước thải bừa bãi vào các nguồn nước trong quá trình xây dựng, thải một lượng xăng dầu nhất định trong quá trình vận hành các thiết bị xây dựng làm ảnh hưởng đến cả nước mặt lẫn nước ngầm.

+ Giải phóng mặt bằng và san ủi đất để xây dựng các công trình và làm đường gây xói mòn và sạt lở đất đá, chặt phá rừng ngập mặn để xây bến cảng.

+ Các phương tiện giao thông đường thủy (tàu, thuyền du lịch, ca nô...) thải ra dầu mỡ, các chất hydro cacbon, ... vào các nguồn nước.

+ Sự hoạt động của các khách sạn, khu nghỉ mát và các cơ sở vật chất khác thường dẫn đến gia tăng ô nhiễm do nước thải. Nước thải chưa được xử lý tốt vì không có hoặc không đủ thiết bị xử lý gây ô nhiễm nguồn nước như làm ô nhiễm biển và các hồ xung quanh các khu du lịch. Nước thải cũng đe doạ nghiêm trọng đến các rạn san hô vì nó kích thích sự phát triển của tảo bao phủ xung quanh san hô, ngăn cản sự hấp thụ thức ăn của san hô. Theo Bộ Tài nguyên Môi trường, 80% số dải san hô và thảm cỏ biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro cao, trong đó 50% ở tình trạng rủi ro cao. Sự thay đổi độ mặn và lắng đọng bùn có thể gây ảnh hưởng lớn đến môi trường ven biển. Nước thải cũng có thể đe dọa đến sức khoẻ con người và động vật.

+ Hoạt động của du khách cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước như: xả rác bừa bãi khi qua phà; thả rác xuống nước từ trên tàu, thuyền ...

+ Khai thác nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt của du khách ở vùng ven biển cũng ảnh hưởng đến môi trường nước, làm cho nước ngầm bị nhiễm mặn. Khi nhu cầu của du khách càng lớn thì mức độ khai thác nguồn nước ngầm càng nhiều.



- Ô nhiễm do rác thải

Ở các khu vực có sự tập trung du khách đông đúc như khu vực có phong cảnh thiên nhiên hấp dẫn thì việc xử lý rác là một vấn đề quan trọng. Nếu xử lý không tốt thì có thể gây ra nhiều tác động bất lợi đối với môi trường tự nhiên cũng như nhân tạo. Rác thải và việc xả rác còn làm thay đổi các hướng dòng chảy tự nhiên, biến đổi đường bờ và làm cho sinh vật biển chết. Ngày nay một số tuyến tuần tra trên biển đang hoạt động tích cực đã làm giảm các tác động liên quan đến chất thải.

Ở vùng Caribê trải dài từ Florida đến Guianan đón 63.000 tàu thủy cập cảng mỗi năm và chúng thải ra 82.000 tấn rác với khoảng 77% lượng rác thải là chai lọ từ tàu. Một tàu trung bình có 600 thủy thủ và 1.400 hành khách. Trung bình mỗi hành khách trên tàu thải 3,5kg rác/ngày - so với 0,8kg rác của một người ở trên bờ biển (UNEP, 1999).

Ở miền núi, du khách bộ hành đã thải ra rất nhiều chất thải. Những người đi thám hiểm đã để lại nhiều loại rác rưởi, trong đó có các chai nước uống bằng plastic và thậm chí cả các dụng cụ cắm trại. Các hành động đó đã làm suy thoái môi trường bằng tất cả các loại vật phẩm của thế giới phát triển hiện đại ở những khu vực xa xôi vốn rất ít tổ chức việc thu gom và xử lý rác. Đó cũng là lý do tại sao một số con đường ở dãy núi Andes của Pêru và ở Nêpan thường được du khách viếng thăm có tên riêng là “đường Coca-Cola”, “đường giấy Toilet” ...



- Ô nhiễm thẩm mỹ

Thông thường các kiến trúc trong du lịch thiếu sự hoà hợp với những đặc điểm tự nhiên và kiến trúc truyền thống. Những khu nghỉ dưỡng lớn và cao tầng được thiết kế phục vụ cho du lịch mọc lên ở các khu thiên nhiên phá hoại cảnh quan địa phương cũng như phá vỡ kiến trúc truyền thống về xây dựng ở địa phương.

Ô nhiễm thẩm mỹ có thể xảy ra do khách sạn, nhà hàng có kiến trúc xấu xí thô kệch, vật liệu ốp lát không phù hợp, bố trí các dịch vụ thiếu khoa học, sử dụng quá nhiều phương tiện quảng cáo nhất là các phương tiện kém thẩm mỹ, dây điện, cột điện tràn lan, bảo dưỡng kém đối với các công trình xây dựng và cảnh quan. Phát triển du lịch hỗn độn, pha tạp, lộn xộn là một trong những hoạt động gây suy thoái môi trường và cảnh quan tệ hại nhất.

Việc thiếu quy hoạch sử dụng đất và các quy tắc xây dựng ở nhiều nơi dễ làm phát triển các công trình tràn lan dọc bờ biển, các thung lũng và các tuyến du lịch, trong đó có các công trình du lịch và cơ sở hạ tầng như giao thông, nhà ở, công viên, các khu dịch vụ và xử lý rác thải.



* Tài nguyên

Sự phát triển du lịch có thể gây sức ép lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên khi người ta tăng cường khai thác các vùng vốn được xem là khan hiếm tài nguyên. Các nguồn tài nguyên chủ yếu có nguy cơ bị ảnh hưởng xấu do du lịch là nước, đất, sinh vật ...



- Tài nguyên nước

Nguồn nước, đặc biệt là nước sạch, là một trong những nguồn tài nguyên rất khan hiếm hiện nay. Nước sạch cần thiết cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt ... Với sự phát triển du lịch mạnh mẽ đã gây thêm sức ép lên vấn đề cấp nước ở các điểm du lịch. Sự khan hiếm nước là một vấn đề nghiêm trọng đối với sự phát triển du lịch trong tương lai ở những khu vực ven biển và các đảo nhỏ, nơi khả năng cung cấp nước mặt rất hạn chế và nước ngầm thì lại bị nhiễm mặn.

Ngành du lịch nói chung đã sử dụng một nguồn nước rất lớn cho hoạt động của các khách sạn, bể bơi, sân gôn và cho bản thân khách du lịch. Sự tiêu dùng quá mức bởi nhiều công trình du lịch, đặc biệt là các khách sạn lớn và các sân gôn có thể làm giảm bớt nguồn cung cấp nước cho nông nghiệp và dân cư địa phương ở những vùng vốn đã khan hiếm nước, dẫn đến việc thiếu nước trầm trọng. Ngoài ra, việc tiêu dùng nhiều nước cũng sẽ tạo ra một lượng nước thải lớn gây ô nhiễm nguồn nước sạch.

Ở những khu vực khô nóng như Địa Trung Hải, vấn đề khan hiếm nước đang được quan tâm hàng đầu. Do khí hậu nóng nên du khách thường sử dụng nước trong khi đi du lịch nhiều hơn so với khi họ sử dụng ở nhà.



Việc bảo quản sân gôn cũng làm cạn kiệt nguồn nước sạch. Trong những năm gần đây loại hình du lịch chơi gôn ngày phổ biến và số lượng các sân gôn tăng rất nhanh. Hàng ngày các sân gôn cần một lượng nước rất lớn. Ví dụ hàng năm trung bình một sân gôn ở nước nhiệt đới như Thái Lan cần sử dụng 1.500kg phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và sử dụng một lượng nước bằng lượng nước sử dụng cho 60.000 người dân vùng nông thôn (Tourism Concern, 2002). Nếu nước được lấy từ các giếng thì việc bơm nước cũng có thể gây ra sự xâm nhập nước mặn vào nước ngầm. Ngày nay các sân gôn thường được quy hoạch, xây dựng ở các khu vực được khoanh vi bảo vệ hoặc ở những khu vực có nguồn tài nguyên hạn chế nên càng làm trầm trọng thêm các tác động nói trên.



Hình 2.2. Việc duy trì hoạt động của các sân gôn đòi hỏi một lượng nước lớn

- Tài nguyên đất

Tác động trực tiếp của du lịch đến tài nguyên đất thông qua việc sử dụng đất để xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch như nơi ăn nghỉ, cơ sở hạ tầng và sử dụng các vật liệu xây dựng.

Nếu không có quy hoạch sử dụng đất một cách hợp lý thì với sự phát triển du lịch một cách ồ ạt gắn liền với việc gia tăng các công trình du lịch và cơ sở nghỉ ngơi sẽ làm tăng nhu cầu về tài nguyên đất, đặc biệt là đất nông nghiệp dẫn đến giảm diện tích đất ngập nước, phá rừng lấy đất gây xói mòn đất ... Phát triển du lịch ở khu vực ven biển với các khách sạn, sân bay, đường giao thông cũng là một vấn đề cần quan tâm toàn cầu vì nó có thể làm tăng việc khai thác cát, xói mòn bờ biển và các hình thức suy thoái đất khác.

- Tài nguyên sinh học

Du lịch, đặc biệt là du lịch thiên nhiên có quan hệ chặt chẽ với đa dạng sinh học. Môi trường càng đa dạng và phong phú thì càng hấp dẫn đối với du khách. Tuy nhiên, sự suy giảm đa dạng sinh học có thể xảy ra khi môi trường ở khu du lịch bị khai thác và sử dụng quá mức. Việc suy giảm đa dạng sinh học này chắc chắn sẽ dẫn đến việc đánh mất đi tiềm năng du lịch.

Ảnh hưởng của việc suy giảm đa dạng sinh học:

+ Làm suy giảm việc cung cấp lương thực thực phẩm, các điều kiện để nghỉ ngơi và du lịch, nguồn lâm sản, dược liệu và năng lượng.

+ Hạn chế các chức năng sinh thái cần thiết như cân bằng loài, hấp thụ khí gây hiệu ứng nhà kính …

+ Giảm năng suất hệ sinh thái nên làm giảm nguồn hàng hóa từ tự nhiên mà từ đó chúng ta có thể khai thác dần dần.

+ Làm hệ sinh thái mất ổn định và làm yếu khả năng chống chịu của nó đối với các thảm họa thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán, bão, ô nhiễm do con người gây ra và khí hậu thay đổi.



- Các nguồn tài nguyên khác ở địa phương

Du lịch có thể gây áp lực lớn lên các nguồn tài nguyên khác của địa phương như năng lượng, thức ăn và các nguyên vật liệu khác. Khi việc khai thác các nguồn tài nguyên này càng lớn thì càng làm tăng những tác động tự nhiên liên quan đến việc khai thác chúng. Do ảnh hưởng của tính mùa vụ trong du lịch, nhiều nơi số lượng khách vào mùa cao điểm du lịch lớn gấp 10 lần so với mùa vắng khách. Vì vậy, nhu cầu các nguồn tài nguyên sử dụng để phục vụ du khách như năng lượng để sưởi ấm, đun nước nóng ... càng lớn.



* Các tác động đến các cảnh quan thiên nhiên

Những cảnh quan thiên nhiên như các bãi biển, hồ, bờ sông, các đỉnh núi và sườn núi thường là các khu vực chuyển tiếp, những hệ sinh thái rất phong phú về thành phần loài.

Một hệ sinh thái là một vùng địa lý gồm các sinh vật (con người, thực vật, động vật và vi sinh vật), các yếu tố tự nhiên (như đất, nước, không khí) và các chu trình trao đổi vật chất của chúng. Các hệ sinh thái thường dễ bị suy thoái là những vùng rất nhạy cảm về mặt sinh thái như vùng rừng nhiệt đới, đầm lầy, rừng ngập mặn, các rạn san hô, các trảng cỏ ven biển... Những hệ sinh thái này rất hấp dẫn khách du lịch nên thường chịu những áp lực và ảnh hưởng xấu khi đưa vào khai thác, sử dụng mà thiếu sự quy hoạch và bảo vệ.



Khung 2.5. Phát triển du lịch đe dọa cảnh quan thiên nhiên

Hiện nay, ở các nước công nghiệp, du lịch và nghỉ ngơi theo đoàn (còn gọi là du lịch thương mại hay du lịch tập thể) phát triển nhanh và đe dọa đến cảnh quan miền núi nhiều hơn cả các ngành công nghiệp khai khoáng. Từ 1945 đến nay, lượng du khách đến thăm 10 vườn quốc gia nổi tiếng nhất ở miền núi đã tăng lên 12 lần. Ở các cánh đồng cỏ trên sườn núi Thuỵ Sĩ (châu Âu) hiện nay đã vượt quá 100 triệu ngày khách. Hàng năm ở Hymalaya (Ấn Độ) đón hơn 250.000 tín đồ Hindu, 25.000 khách bộ hành, 75 đoàn thám hiểm leo núi lên thượng nguồn sông Ganges, sông băng Gangotri. Họ đã làm suy thoái rừng ở địa phương do lấy gỗ làm củi đốt, giẫm đạp lên thảm thực vật ven sông và xả rác bừa bãi.



(Nguồn: UNEP, 2004)

- Các tác động đến tự nhiên do sự phát triển du lịch

Sự phát triển du lịch tác động đến tự nhiên bao gồm các hoạt động:



Hoạt động xây dựng và mở rộng cơ sở hạ tầng

Sự phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch như khách sạn, nhà hàng, cấp nước và các khu du lịch có liên quan đến việc khai thác cát sạn, xói lở các đụn cát và bờ biển, xói mòn đất ... Thêm vào đó, việc xây dựng đường giao thông (đường bộ và hàng không) có thể dẫn đến suy thoái môi trường sống của sinh vật và làm xấu phong cảnh.

Ví dụ như ở Vườn Quốc gia Yosemite (Mỹ), đường giao thông và cơ sở vật chất gia tăng tương ứng với lượng du khách để đáp ứng các dịch vụ phục vụ cho du khách. Các hoạt động này làm mất đi một phần môi trường sống ở trong vườn của sinh vật và kèm theo nhiều hình thức ô nhiễm như ô nhiễm không khí do khí thải từ ô tô.

Phá rừng và tăng cường sử dụng đất hoặc sử dụng không bền vững

Xây dựng khách sạn và cơ sở vật chất ở các khu trượt tuyết thường đòi hỏi phải phát quang đất rừng. Khu vực đầm lầy ven biển thì thường bị tháo nước và lấn chiếm để xây dựng các cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Các hoạt động này có thể làm mất sự yên tĩnh và suy thoái các hệ sinh thái địa phương trong một thời gian dài.



Phát triển du lịch ở ven biển

Việc mở mang bến thuyền và đê chắn sóng có thể làm thay đổi dòng nước và đường bờ biển. Hơn nữa, việc khai thác các vật liệu xây dựng đã ảnh hưởng đến hệ san hô, rừng ngập mặn và rừng trong nội địa, dẫn đến xói mòn và phá huỷ các môi trường sống. Ở Philippin và Maldives, việc khai thác san hô để lấy vật liệu xây dựng cho các khu nghỉ mát đã hủy hoại hệ sinh thái san hô và nguồn cung cấp cá cho cư dân địa phương.

Việc xây dựng quá mức ở khu vực bờ biển có thể dẫn đến hủy hoại môi trường sống và phá vỡ các mối liên hệ đất - biển. Rạn san hô là hệ sinh thái rất mong manh đang ngày càng bị phá hoại do phát triển du lịch. Nhiều chứng cứ cho thấy những tác động đến rạn san hô phần lớn là do sự phát triển ở ven biển, do lượng bùn lắng đọng trong nước tăng lên, các tàu thủy bị mắc cạn, ô nhiễm do rác thải, đánh bắt hải sản quá mức bằng mìn và chất nổ đã tàn phá môi trường sống của san hô.

- Các tác động đến tự nhiên do hoạt động của du khách

Các tác động do sự giẫm đạp của du khách

Du khách đi trên một con đường mòn nhiều lần đã giẫm đạp lên thực vật và đất đai, cuối cùng gây ra những tổn hại có thể làm suy giảm đa dạng sinh học và những tác động khác. Những tổn hại như thế thậm chí ngày càng nhiều hơn khi các điểm du lịch thường xuyên mở ra những đường mòn khác để thu hút du khách.



Bảng 2.2. Những tác động do giẫm đạp của du khách

Những tác động giẫm đạp lên thực vật

Những tác động giẫm đạp lên đất trồng

Làm gãy nát các thân cây, cọng lá

Mất các vật chất hữu cơ

Giảm sức sống của cây trồng

Giảm trạng thái tơi xốp của đất

Giảm sự phục hồi

Giảm độ thấm không khí và nước

Mất lớp thực vật phủ mặt đất

Gia tăng sự tiêu nước

Thay đổi về thành phần loài

Xói mòn diễn ra nhanh chóng

(Nguồn: UNEP, 2003)

Các hoạt động của du khách ở vùng biển và ven biển

Ở các vùng biển nhất là ven biển thường diễn ra các hoạt động của du khách ở trong hoặc xung quanh các hệ sinh thái nhạy cảm như neo đậu tàu, lặn có ống thông hơi hoặc bình khí nén, đánh bắt cá, du thuyền, ... gây ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái biển như san hô và đến việc bảo vệ các vùng biển và ngư trường.



Khung 2.6. Tác động của du lịch đến rạn san hô

Có 109 quốc gia có rạn san hô, trong đó có 90 nước đang gây tổn hại đến rạn san hô do neo đậu tàu và xả rác, do du khách làm san hô gãy rời ra hoặc do hoạt động khai thác san hô để bán cho du khách. Một nghiên cứu ở bãi đá ngầm san hô trong một ngày đã cho thấy một phần lớn diện tích đã bị tàn phá và phần còn lại sẽ bị vỡ nát và chết sau đó. Người ta ước tính rằng để san hô phục hồi lại phải mất 50 năm.

(Nguồn: UNEP, 2004)

Suy thoái hệ sinh thái do các hoạt động của du khách

Môi trường sống có thể bị suy giảm do các hoạt động nghỉ ngơi của du khách. Ví dụ, khi du khách đến tham quan thiên nhiên quá đông có thể gây ra nhiều xáo trộn cho động vật và làm thay đổi các hoạt động tự nhiên của chúng. Các cuộc đi săn và truy tìm đã có những ảnh hưởng xấu đến môi trường sống vì du khách thường gây ra các tiếng ồn, các chấn động khi họ săn đuổi động vật hoang dại bằng xe ô tô hoặc máy bay. Điều này đã gây áp lực lớn lên những thói quen, những hoạt động của động vật và có xu hướng làm biến đổi những thói quen đó. Trong một số trường hợp, như ở Kenya, đời sống động vật bị xáo trộn (nhiễu loạn) đến nỗi thỉnh thoảng chúng tỏ ra thờ ơ với thú con hoặc quên cả bạn đời.



* Các tác động đến môi trường toàn cầu

- Du nhập các loài ngoại lai

Các loài sinh vật ngoại lai xâm hại được coi là một trong những mối đe doạ nguy hiểm nhất gây tổn thất đa dạng sinh học. Sinh vật ngoại lai xâm hại trước hết là những loài không có nguồn gốc bản địa. Khi được đưa đến một môi trường mới, các loài ngoại lai có thể không thích nghi được với điều kiện sống và do đó không tồn tại được. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, do thiếu vắng các đối thủ cạnh tranh như ở quê nhà cùng với điều kiện sống thuận lợi, các loài này có điều kiện sinh sôi nảy nở rất nhanh và đến một lúc nào đó phá vỡ cân bằng sinh thái bản địa và vượt khỏi tầm kiểm soát của con người. Lúc này nó trở thành loài ngoại lai xâm hại.

Khách du lịch và các nhà cung cấp dịch vụ có thể là vô ý thức đã mang vào những loài ngoại lai xâm hại (côn trùng, các cây hoang dại, cây trồng và các mầm bệnh). Tác động mà các loài sinh vật xâm hại gây ra đối với môi trường sống rất đa dạng nhưng có thể gộp chung thành 4 nhóm:


  • Cạnh tranh với các loài bản địa về thức ăn, nơi sống ...,

  • Ăn thịt các loài khác,

  • Phá huỷ hoặc làm suy thoái môi trường sống,

  • Truyền bệnh và ký sinh trùng.

Ví dụ như trường hợp của cá vược sông Nile (Lates niloticus). Sau khi được du nhập vào hồ Victoria (châu Phi) năm 1954 nhằm phục hồi sản lượng cá đang suy giảm trong hồ do đánh bắt quá mức, loài cá này đã gây ra sự tuyệt chủng cho hơn 200 loài cá bản địa khác trong hồ do cạnh tranh và ăn thịt các loài cá đó. Chưa hết, vì thịt của cá vược sông Nile có nhiều mỡ hơn các loại cá bản địa, cư dân ở hồ đã phải chặt nhiều củi hơn để sấy cá dẫn đến hiện tượng phá rừng nghiêm trọng. Việc này gây ra sự xói mòn và rửa trôi đất trong vùng lưu vực làm tăng hàm lượng chất dinh dưỡng trong hồ tạo điều kiện cho sự phát triển của tảo và bèo Nhật Bản (Eichhornia crassipes). Sự bùng nổ của các loài thực vật này làm giảm lượng oxy trong hồ và làm chết nhiều cá hơn. Ngoài ra, việc khai thác mang tính thương mại loài cá này đã làm làm cư dân ở đây mất đi nghề đánh bắt và chế biến cá truyền thống của mình. Lợi nhuận thu được từ cá vược sông Nile chỉ rơi vào túi một số người trong khi đó cư dân và môi trường ở đây hầu như không những không có lợi mà còn chịu nhiều tác động xấu.

- Suy thoái tầng ôzôn

Tầng ôzon nằm ở tầng bình lưu của khí quyển ở độ cao khoảng 12 - 50km. Tầng ôzôn đóng vai trò bảo vệ sự sống trên trái đất bằng cách hấp thu những tia cực tím (UV) từ mặt trời rất nguy hiểm đối với con người và động vật. Một số nhà khoa học cho rằng, sự suy giảm các loài lưỡng cư trên thế giới là do sự gia tăng tia UV.

Ôzon bị suy thoái do các chất như CFC (Chlorofluorocarbon), các khí halon ... Du lịch cũng một phần tạo ra các khí này: Tác động trực tiếp của du lịch bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển và tiếp tục trong quá trình quản lý và hoạt động du lịch. Việc sử dụng rộng rãi trong công nghiệp du lịch và khách sạn các tủ lạnh, máy điều hoà, các bình phun ... có chứa các chất gây suy thoái tầng ôzon (ODS) hoặc từ máy bay cũng thải ra một lượng lớn các chất ODS. Theo Tourism Concern, các nhà khoa học dự báo vào khoảng năm 2015, du lịch bằng máy bay làm suy thoái một nửa tầng ôzon hàng năm.

- Biến đổi khí hậu

Các nhà khí hậu học nhìn chung đều cho rằng nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên đều đặn trong những năm gần đây do sự gia tăng các khí gây hiệu ứng nhà kính. Một trong những nguồn khí quan trọng nhất là Carbon Dioxide (CO2) được tạo ra do các nhiên liệu hoá thạch (than, dầu, khí) bị đốt cháy (trong công nghiệp, phát điện, ô tô) hoặc do cháy rừng. Sau một thời gian dài, sự tích tụ CO2 và các khí nhà kính khác trong bầu khí quyển sẽ làm khí hậu toàn cầu thay đổi.

Du lịch toàn cầu có quan hệ chặt chẽ với sự thay đổi khí hậu. Du lịch gắn liền với sự di chuyển của con người từ nơi ở của họ đến những nơi khác và chiếm khoảng 50% tổng lượng hành khách do giao thông chuyên chở và đã tạo ra khoảng 2,5% của tổng lượng CO2 phát thải vào khí quyển. Trong các phương tiện giao thông phục vụ du lịch thì máy bay thải ra một lượng khí nhà kính lớn nhất. Số lượng khách du lịch quốc tế dự kiến tăng từ 594 triệu người năm 1996 lên gần 1,6 tỷ người vào năm 2020 cũng là một vấn đề đáng quan tâm đối với sự nóng lên toàn cầu và đòi hỏi phải có những biện pháp giảm khí thải từ máy bay.

Khung 2.7. Tác động của du lịch Việt Nam đến môi trường tự nhiên

Mặc dù ngành du lịch được hình thành và phát triển ở Việt Nam trong hơn 45 năm qua, song hoạt động du lịch chỉ thực sự diễn ra sôi động kể từ thập kỷ 90 đến nay gắn liền với chính sách mở cửa và hội nhập của Đảng và Nhà nước. Du lịch Việt Nam phát triển đã góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội phát triển, tăng tỷ trọng của ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân; khôi phục nhiều ngành nghề và lễ hội truyền thống ... ở nhiều nơi; làm thay đổi cơ bản diện mạo các đô thị, nông thôn và đời sống của cộng đồng dân cư. Những hiệu quả này lại tác động tích cực thúc đẩy toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp phát triển du lịch, tạo nhiều việc làm mới, góp phần tăng trưởng kinh tế, hạn chế sự tác động của xã hội đến môi trường.

Như vậy, sự phát triển nhanh chóng của du lịch thời gian qua đã góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của nhiều địa phương nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động du lịch đã có những tác động tiêu cực nhất định đến môi trường do tốc độ phát triển quá nhanh trong điều kiện còn thiếu phương tiện xử lý môi trường; nhận thức và công cụ quản lý nhà nước về môi trường trong ngành còn hạn chế ... Trên phạm vi toàn quốc, các vần đề về môi trường trong hoạt động du lịch thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau:

- Tăng áp lực về chất thải sinh hoạt, đặc biệt là ở các trung tâm du lịch, góp phần làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường đất, nước. Theo tính toán của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) và số liệu điều tra ban đầu, lượng chất thải trung bình từ sinh hoạt của du khách là khoảng 0,67kg chất thải rắn/khách/ngày và 100 lít nước thải/khách/ngày. Đây là những nguồn chính có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ hoạt động du lịch. Với lượng khách du lịch đến Việt Nam ngày càng tăng lên nên tổng lượng thải rắn từ hoạt động du lịch có xu hướng tăng mạnh từ 15.939 tấn (1999) đến hơn 30.000 tấn (2005). Lượng nước thải cũng tăng tương ứng từ 1.538.000m3 lên 3.078.000m3, đặc biệt là ở các trung tâm du lịch như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, TP. Hồ Chí Minh, áp lực của chất thải ngày càng lớn, nhất là vào mùa du lịch hoặc thời điểm tổ chức lễ hội hay các sự kiện chính trị, kinh tế - văn hóa - xã hội.

- Tăng mức độ suy thoái và ô nhiễm nước ngầm, đặc biệt là ở khu vực ven biển. Cùng với việc gia tăng số lượng du khách, nhu cầu nước cho sinh hoạt cũng tăng nhanh: năm 1995 là 1.977.000m3, năm 1999 là 2.868.000m3 và đến năm 2005 tăng lên 5.425.000m3. Vì vậy trong điều kiện chưa có khả năng điều tra, khai thác thêm các mỏ nước ngầm mới thì việc khai thác quá mức để phục vụ đủ nhu cầu của du lịch sẽ làm tăng mức độ suy thoái và ô nhiễm nước ngầm do nhiễm mặn khi áp lực các bể chứa giảm mạnh.

- Tăng lượng khí thải, góp phần làm tăng nguy cơ ô nhiễm không khí, đặc biệt là ở các thành phố du lịch. Theo thống kê đến năm 2001, nước ta có trên 72.000 phòng khách sạn (chưa kể nhà khách, nhà nghỉ) và trên 6.000 phương tiện vận chuyển khách du lịch (chưa kể xe tư nhân). Vào mùa du lịch, đặc biệt vào các ngày lễ hội, ngày nghỉ cuối tuần, lượng xe du lịch tập trung chuyên chở hành khách đến các trung tâm đô thị du lịch gây tình trạng ách tắc giao thông và làm tăng đáng kể lượng khí CFCs (loại khí gây suy thoái tầng ôzon) từ các thiết bị điều hoà nhiệt độ của khách sạn và lượng khí thải CO2 từ các loại phương tiện vận chuyển đã có những tác động không nhỏ đến môi trường không khí.

Do hoạt động du lịch diễn ra không đồng đều trên phạm vi cả nước mà chỉ tập trung ở một số khu vực trọng điểm, đặc biệt ở ven biển như Hải Phòng- Quảng Ninh, Huế-Đà Nẵng, Nha Trang, Long Hải-Vũng Tàu, Rạch Giá-Hà Tiên-Phú Quốc nên những vấn đề về ô nhiễm môi trường do các hoạt động du lịch gây ra thể hiện tương đối rõ ở những khu vực này như ô nhiễm nước do tràn dầu, lượng nước thải và rác thải từ trong đất liền chảy ra biển, suy thoái các rạn san hô...

Ngoài ra, nhiều vấn đề khác liên quan giữa môi trường và phát triển du lịch hiện nay cũng vẫn là những vướng mắc đòi hỏi có sự phối hợp giải quyết của nhiều ngành, nhiều cấp chứ không chỉ riêng ngành du lịch như khai thác thủy hải sản, săn bắt động vật hoang dã để cung cấp thực phẩm đặc sản và đồ lưu niệm, khai thác sử dụng đất hợp lý các nguồn tài nguyên không tái tạo ...



(Nguồn: Tổng hợp từ Phạm Trung Lương, 2002, http://www.vnexpress.net)

2.2.2. Tác động của du lịch đến môi trường văn hóa - xã hội

2.2.2.1. Tác động tích cực

- Du lịch là nguồn cổ vũ cho hoà bình

Thông qua du lịch con người có cơ hội tiếp xúc với nhau, tạo ra sự hiểu biết giữa người và người và giữa các nền văn hoá, tạo ra sự giao lưu văn hóa giữa người địa phương và khách du lịch. Vì vậy, sẽ có nhiều cơ hội để thông cảm, hiểu biết lẫn nhau và giảm đi những thành kiến giữa các dân tộc. Ví dụ như sự phát triển du lịch ở Belfast, Bắc Ai Len đã tạo ra việc làm giúp giải ngũ những nhóm lính bán quân sự đang thực hiện tiến trình hoà bình ở đây.

Do sự hiểu biết lẫn nhau mà giảm đi những thù ghét, hiểu lầm giữa các dân tộc. Đây chính là nguồn cổ vũ quan trọng cho hoà bình thế giới. Tại Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu lần thứ 1 về hoà bình thông qua du lịch (tháng 11-2000), có hơn 450 nhà quản lý du lịch trên thế giới đã phê chuẩn “Tuyên bố Amman”. Đây là tuyên bố khẳng định rằng du lịch là ngành công nghiệp hoà bình của thế giới. Văn kiện này góp phần xây dựng một nền văn hóa hoà bình thông qua du lịch và hỗ trợ du lịch vì các hoạt động nhân quyền cơ bản, không bị hạn chế quá mức, tôn trọng sự khác nhau về con người và sự đa dạng về văn hoá. Theo văn kiện, “Quan hệ hoà bình của nhân loại được xúc tiến và cổ vũ thông qua du lịch bền vững”. Nó kêu gọi sự bảo vệ và phục hồi các công trình lịch sử như là “tài sản quý đối với nhân loại và là di sản đối với các thế hệ tương lai”. Bảo vệ và sử dụng hợp lý môi trường kết hợp với giữ cân bằng sinh thái “ là sự cần thiết đối với tương lai của du lịch” khi thừa nhận “sự uyên thâm của người xưa và sự quan tâm đối với trái đất”.

- Du lịch củng cố cộng đồng

Du lịch có thể tăng cường sức sống cho cộng đồng theo nhiều cách. Du lịch tạo ra việc làm góp phần làm giảm sự di cư từ các vùng nông thôn lên thành thị. Cũng nhờ những lợi ích do du lịch mang lại, các cộng đồng địa phương thể hiện sự đoàn kết và quyết tâm của cộng đồng đối với các tài sản vốn có của mình. Ví dụ như người San ở Namibia, Nam Phi và những thổ dân ở châu Úc gần đây đã giành lại chủ quyền đối với các vườn quốc gia và khu bảo tồn truyền thống. Họ làm các túp lều sinh thái và làm việc như những hướng dẫn viên và nhân viên để bảo vệ di sản của họ (UNEP, 2005).



- Phát triển du lịch đem lại lợi ích cho người dân địa phương

Du lịch góp phần tăng cường cơ sở vật chất và dịch vụ cho cộng đồng, đem lại mức sống cao hơn cho các địa điểm du lịch. Những lợi ích này bao gồm cả việc cải tạo cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện y tế, giao thông, xây dựng các cơ sở thể thao và giải trí, các nhà hàng mới, đồng thời có được nhiều loại hàng hóa và thức ăn với chất lượng cao hơn...



- Du lịch nâng cao các giá trị văn hóa và truyền thống

Du lịch có thể đẩy mạnh việc bảo tồn và giao lưu các truyền thống văn hoá-lịch sử, góp phần bảo tồn và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên, bảo vệ các di sản ở địa phương, phục hưng các nền văn hóa bản xứ, các nghề thủ công mỹ nghệ.

Du lịch còn tạo ra các khả năng hỗ trợ đắc lực cho việc bảo tồn các di tích lịch sử, khảo cổ đang có nguy cơ bị tàn lụi, đặc biệt là các di tích ở những đất nước nghèo không có đủ tiềm lực kinh tế để trùng tu hay bảo vệ như:

+ Các di sản kiến trúc.

+ Nghệ thuật, văn hoá, đồ thủ công, lễ hội, trang phục, lối sống truyền thống.

+ Đóng góp kinh phí trực tiếp hay gián tiếp (thông qua ngân sách) cho việc phát triển các bảo tàng, nhà hát, các hoạt động văn hóa truyền thống, kể cả văn hóa ẩm thực.

+ Góp phần khôi phục niềm tin và tự hào dân tộc, bảo vệ tính đa dạng văn hoá, đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số, do việc người địa phương thấy du khách, nhất là khách ngoại quốc, thích chiêm ngưỡng và tôn trọng các đặc trưng văn hóa của dân tộc mình.

Ví dụ như hoạt động của Travel Walji’s không chỉ góp phần hỗ trợ tài chính một cách trực tiếp mà còn gián tiếp thông qua viện trợ phát triển du lịch đối với vùng núi xa xôi ở Kakakorum, Nam Phi. Nguồn viện trợ này giúp hồi sinh các làn điệu âm nhạc ở địa phương và các hoạt động múa kiếm truyền thống.



Khung 2.8. Du lịch và bảo tồn các nghệ thuật truyền thống ở Bali

Du lịch là một động lực chủ yếu giúp người Bali thể hiện các tác phẩm nghệ thuật của mình. Du khách đến đã liên tục ca ngợi nền văn hóa nghệ thuật của người Bali nên làm cho họ tin tưởng và tự hào về nền nghệ thuật của mình. Họ thực sự tin rằng nền văn hóa của mình rất tuyệt vời, đáng được ca ngợi và khâm phục. Sự nhìn nhận này cho thấy nghệ thuật của họ không thua kém nghệ thuật các nước tiến bộ và nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật nói chung.

(Nguồn: UNEP, 2004)



Hình 2.3. Hàng thủ công truyền thống ở Bali, Indonesia

- Du lịch cổ vũ cho lòng tự hào và quan hệ cộng đồng

Du lịch làm tăng nhận thức của địa phương về giá trị kinh tế của các khu vực tự nhiên và văn hóa và qua đó có thể khơi dậy niềm tự hào đối với những di sản của quốc gia và địa phương cũng như quan tâm đến việc giữ gìn chúng.

Du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu đất nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống dân tộc. Thông qua các chuyến đi tham quan, nghỉ mát, vãn cảnh ... người dân có điều kiện làm quen với cảnh đẹp, với lịch sử và văn hóa dân tộc, qua đó thêm yêu đất nước mình.

Trên đây là một số ảnh hưởng tích cực khi du lịch được tổ chức và phát triển một cách hợp lý và bền vững, trong đó người dân địa phương đóng vai trò quan trọng. Cộng đồng này liên quan đến việc quy hoạch và thực hiện hoạt động du lịch. Nếu họ có một thái độ tích cực, ủng hộ thì sẽ có cơ hội để thu được nhiều lợi ích từ du lịch. Do vậy, một trong những yếu tố quan trọng để phát triển du lịch bền vững là phát triển cộng đồng.

2.2.2.2. Tác động tiêu cực

- Thương mại hóa các đặc trưng và giá trị của địa phương

Du lịch có thể làm biến đổi những nét văn hóa địa phương thành hàng hoá, những nghi lễ tín ngưỡng và lễ hội dân tộc bị thay đổi để đáp ứng nhu cầu của du khách, kết quả là làm xuất hiện các “thành phố lễ hội được cải biến lại”. Nhu cầu về các mặt hàng lưu niệm, nghệ thuật, giải trí và các mặt hàng khác ở địa phương nhằm phục vụ cho nhu cầu mua sắm và thưởng thức của khách du lịch có thể gây ra những thay đổi cơ bản trong các giá trị nhân văn. Những địa điểm và đồ vật thiêng liêng không còn được tôn trọng khi chúng được xem như những hàng hóa để bán.

- Mất bản sắc văn hoá

Du khách luôn muốn có những vật lưu niệm, mỹ thuật, thủ công mỹ nghệ và những buổi biểu diễn văn hóa thì ở những địa điểm du lịch, những nghệ nhân địa phương có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng gia tăng của du khách. Tuy nhiên, họ cũng phải có những thay đổi trong thiết kế sản phẩm để làm cho chúng đa dạng hơn, phù hợp với thị hiếu và nhu cầu của du khách. Đây là một vấn đề có tính hai mặt, vừa giúp bảo tồn các truyền thống văn hoá, nhưng đồng thời cũng có thể xảy ra những mai một về văn hóa trong quá trình thương mại hóa những sản phẩm này. Trong một số trường hợp có thể làm mất dần bản sắc văn hóa dân tộc vì có sự vượt trội hơn của các đặc trưng văn hóa ngoại lai do du khách mang tới so với văn hóa bản địa.



Khung 2.9. Du lịch và thương mại hóa sản phẩm truyền thống ở Kuna

Mola là những chiếc áo được làm ra bởi những phụ nữ Kuna ở Colombia. Đó là một tác phẩm nghệ thuật phản ánh thế giới, thiên nhiên, đời sống tinh thần của dân tộc Kuna. Hiện nay chúng đã biến thành một mặt hàng thương mại phục vụ du lịch nên đã làm giảm giá trị tinh thần và chất lượng do phải thay đổi Mola cho phù hợp với thị hiếu của du khách. Vì vậy nhiều phụ nữ Kuna cũng đã quên đi cách thiết kế và ý nghĩa của các mẫu Mola trước đây.



(Nguồn: UNEP, 2004)



Hình 2.4. Cô gái Kanu và sản phẩm dệt Mola

- Bất đồng về văn hoá

Do du lịch gắn liền với việc di chuyển của du khách từ nhiều miền khác nhau và có những quan hệ xã hội khác nhau nên dễ xảy ra các bất đồng về văn hoá, tôn giáo, dân tộc, các giá trị và phong cách sống, ngôn ngữ và mức độ phát triển ... Kết quả là vượt quá sức tải xã hội (giới hạn có thể làm thay đổi hệ thống xã hội) và sức tải văn hóa (giới hạn có thể làm thay đổi văn hóa của người dân địa phương) của cộng đồng địa phương.

Thái độ bất đồng của cư dân địa phương đối với sự phát triển du lịch thường được thể hiện qua sự thờ ơ, khó chịu và có ý phản đối với du khách. Hiểu lầm và xung đột có thể nảy sinh giữa khách và chủ vì những khác biệt về ngôn ngữ, thói quen, tôn giáo và cách ứng xử. Sự bất đồng về văn hóa có thể thấy rõ hơn thông qua:

+ Sự khác biệt về thu nhập: Nhiều du khách có cách tiêu dùng và phong cách sống tương đối khác biệt. Đôi khi, nhiều du khách thích tìm kiếm những thú vui lập dị và tiêu xài tiền rất thoải mái. Khi người dân địa phương tiếp xúc với du khách này sẽ có hành vi bắt chước du khách vì họ cũng muốn sống và cư xử như thế trong khi thu nhập giữa chủ và khách thì quá chênh lệch. Ví dụ như ở các khu du lịch của Jamaica, Indonesia hoặc Brazil, nhân viên du lịch địa phương làm việc nhiều giờ trong ngày chỉ với mức lương trung bình hàng năm 1.200 - 3.000 USD phải tiếp xúc và gần gũi với du khách có thu nhập cao hơn nhiều (80.000 USD/năm).

+ Cách cư xử của du khách.

Du khách thường không biết hoặc bất cẩn, thiếu tôn trọng những phong tục tập quán và các giá trị đạo đức ở địa phương. Khi họ làm như vậy, có thể họ đã tạo ra một sự khó chịu lặp đi lặp lại nhiều lần nên đã gây ảnh hưởng lớn đến thái độ của người dân địa phương đối với du khách. Ví dụ như ở nhiều nước Hồi giáo, vẫn còn nhiều quy định khắt khe đối với sự xuất hiện và hành vi của phụ nữ Hồi giáo ở chốn công cộng. Họ luôn phải trùm kín người khi đi ra đường. Khách du lịch đến các nước này thường không biết hoặc không nhận thấy những quy định này nên họ thường mặc những váy ngắn lộ liễu, thậm chí là bikini đi tắm biển hoặc uống nhiều rượu một cách công khai. Bên cạnh việc tạo ra các ấn tượng xấu thì cách cư xử này có thể khích lệ những người địa phương không tôn trọng truyền thống và tôn giáo của họ nữa, tạo ra một sự xáo trộn trong cộng đồng địa phương. Những kiểu bất đồng về văn hóa như thế cũng từng đã xảy ra trong các cộng đồng Cơ đốc giáo ở quần đảo Po-ly-ne-di, vùng Caribe và Địa Trung Hải.

+ Mức độ công việc

Ở các nước đang phát triển, nhiều người dân địa phương làm việc trong ngành du lịch ở mức độ thấp như hầu phòng, bồi bàn, làm vườn ... trong khi những công việc quản lý được trả lương cao lại thuộc về người nước ngoài hay “kiều bào thành thị”. Do người địa phương thiếu kỹ năng lao động, kỹ năng quản lý ở các khách sạn và nhà hàng nên các khu du lịch thường thu hút những người có khả năng làm những công việc ở trình độ cao từ các nơi khác đến. Điều này gây ra sự xích mích, căng thẳng và gia tăng sự kỳ thị giữa các lực lượng lao động..

- Gây ra các áp lực căng thẳng trong xã hội

+ Mất hoặc giảm các kiệt tác văn hoá. Sự tổn hại tài nguyên văn hóa có thể do gia tăng sự phá hoại, ăn cắp và di chuyển các loại di sản văn hóa bất hợp pháp. Vấn đề này thường gặp ở các công trình khảo cổ của Ai Cập, Colombia, Mehico và Peru. Những người bảo vệ được trả lương rất ít nên họ đã tìm cách bán những chế tác cho khách du lịch.



+ Nguồn tài nguyên khan hiếm có thể dẫn đến các mâu thuẫn trong việc tranh quyền sử dụng các nguồn tài nguyên quan trọng như nước, năng lượng ... giữa du lịch và các ngành kinh tế khác của địa phương. Du lịch có thể gây áp lực lên cộng đồng địa phương như làm suy thoái môi trường và tăng chi phí cơ sở hạ tầng cho cộng đồng địa phương, ví dụ như tăng thuế cao hơn để cải thiện việc cấp nước hoặc các điều kiện vệ sinh.

+ Mâu thuẫn với các loại hình sử dụng đất truyền thống ở các khu vực được khai thác mạnh như vùng ven biển (các bãi biển và các đảo). Sự mâu thuẫn tăng lên khi phải lựa chọn giữa việc sử dụng đất cho phát triển du lịch hay sử dụng đất theo truyền thống địa phương. Người dân bản xứ thường là người thua cuộc trong các cuộc tranh luận về vấn đề này vì những giá trị kinh tế do du lịch đem lại thường lớn hơn.



Khung 2.10. Sự khác nhau về thu nhập ở vườn quốc gia

Taman Negara, Malaysia

Vườn quốc gia Taman Negara nằm ở phía Tây Malaysia là một khu vườn tư nhân có thể đón cùng một lúc 260 du khách. Vườn đã thuê 270 người, trong đó 60% nhân viên là người dân địa phương. Vào năm 1999, các nhóm nhân viên địa phương này kiếm được khoảng 120 USD/tháng, trong lúc đó những người dân địa phương làm nông nghiệp chỉ kiếm được trung bình 40 USD/tháng.

Mặc dù du lịch ở đây tạo thêm công ăn việc làm nhưng sự khác nhau về thu nhập giữa 2 nhóm cư dân địa phương đã tạo ra sự căng thẳng trong xã hội. Việc có thu nhập cao hơn của một bộ phận dân cư đã làm cho giá cả sinh hoạt ở đây tăng lên. Chỉ có một lượng thu nhập rất nhỏ từ du lịch vườn được giữ lại tại địa phương vì các nhân viên của vườn đã sử dụng gần 90% thu nhập để nhập khẩu hoặc mua hàng hóa từ những nơi khác về. Nền văn hóa của địa phương được đưa ra thị trường để thu hút du khách nhưng lợi ích thu được cho dân cư rất nhỏ.

(Nguồn: Báo cáo ILO về phát triển nguồn nhân lực, việc làm và toàn cầu hóa trong du lịch, giải trí và khách sạn, 2001)




Khung 2.11. Áp lực lên tài nguyên do sự phát triển du lịch

Trên đảo Boracay của Philipin, 1/4 đảo bị các tập đoàn kinh tế bên ngoài mua tạo ra sự khủng hoảng về cấp nước và thiếu cơ sở hạ tầng cho cư dân. Tương tự, ở Ba li (Indonesia), nguồn cung cấp nước và đất nông nghiệp quan trọng bị thay đổi do xây dựng các khách sạn lớn và sân gôn, trong khi ở Pagandaran (Java, Indonesia), đất đai vùng biển vốn được sử dụng để chăn nuôi, sửa chữa tàu thuyền, làm lưới hoặc tổ chức lễ hội thì bị bán cho các nhà thầu để xây dựng khách sạn 5 sao. Việc xây dựng các khách sạn và cơ sở vật chất du lịch ở vùng ven biển đã chiếm mất những nơi đánh cá truyền thống của người dân địa phương ở nhiều nơi trên thế giới.



(Nguồn: UNEP, 2000)

Каталог: file -> downloadfile1
downloadfile1 -> VĂn phòng chính phủ
downloadfile1 -> Đề tài: Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa Giảng viên hướng dẫn
downloadfile1 -> LUẬn văN ĐỀ TÀI " Mã trải phổ trong cdma"
downloadfile1 -> Chiến dịch đánh Tống 1075
downloadfile1 -> BỘ thông tin và truyềN thôNG
downloadfile1 -> BỘ thông tin và truyềN thông số: 956/QĐ-btttt cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
downloadfile1 -> Lời Giới Thiệu Lịch sử Triết học
downloadfile1 -> Các lệnh nhảy, vòng lặp và lệnh gọi
downloadfile1 -> 143 NĂm vưƠng triều nguyễN (1802-1945)
downloadfile1 -> Chương I các bộ VI điều khiển 8051 1 các bộ VI điều khiển và các bộ xử lý nhúng

tải về 2.88 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương