Các bài suy niệm chúa nhậT 15 thưỜng niên c lời Chúa: Đnl. 30, 10-14; Cl. 1, 15-20; Lc. 10, 25-37 MỤc lụC



tải về 353.63 Kb.
trang10/14
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích353.63 Kb.
#10398
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

17. Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân.


(Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hoà)

Khi người thông luật đặt câu hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” và tìm được câu trả lời trong Luật: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của người, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”. Chúa Giêsu trả lời: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.

Vì muốn cho người thông luật này hiểu rõ hơn thế nào là “người thân cận”, Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Samari tốt lành.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu giúp người thông luật và giúp chúng ta vượt lên trên cái nhìn hạn hẹp của mình. Người thân cận là tất cả mọi người, dù là người mình không ưa thích, không cùng màu da, không cùng tôn giáo, không cùng lập trường chính trị. Chúng ta đến gặp tha nhân với lòng bác ái và quãng đại. Như vậy, câu hỏi không còn là “ai là người thân cận của tôi?”, mà là “tôi là người thân cận của mọi người như thế nào một cách cụ thể?”

Ngày xưa, trong một làng nhỏ, tại miền Nam Trung quốc, có một em bé gái tiều tuỵ, đói rách và mang bệnh phong hủi. Khi biết em bị bệnh hủi, dân chúng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi em ra khỏi làng.

Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch, hòn đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.

Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: “ Đồ hủi! Đồ hủi!”

Với những giòng nước mắt chảy dài trên má, những lần nầy là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ buồn tủi, em bé hỏi vị cứu tinh của mình: “Tại sao ông lại lo lắng cho con?” Nhà truyền giáo trả lời:”Vì Ông Trời đã tạo dựng cả hai chúng ta, và cũng vì thế con sẽ là em gái của ta và ta sẽ là anh của con”

Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi: “Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cứu giúp của ông?” Nhà truyền giáo mỉm cười đáp: “Con hãy trao tặng lại cho những kẻ khác tình yêu này càng nhiều càng tốt.”



Kể từ đó đến ba năm sau, khi em bé tắt thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương của các bệnh nhân khác trong trại cùi, đút cơm cho những người bị bệnh nặng, và nhất là em tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại. Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới 11 tuổi. Các bệnh nhân khác đã từng chung sống với em nói với nhau: “Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời”.

Tinh thần Kitô giáo được tóm gọn trong hai điểm: yêu Chúa và yêu người. Cả hai luôn đi đôi với nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng yêu mến Chúa thì càng yêu người. Công thức Phúc Âm này không thể tách rời được trong đời sống của Kitô hữu.

Thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Như thế, tình yêu tha nhân là nơi chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.

Câu đầu và câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay được nhấn mạnh bởi động từ làm. Câu đầu là câu hỏi của người thông luật: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Câu cuối cùng là câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống”, nghĩa là thực thi lòng bác ái xót thương không biên giới, không điều kiện với tất cả mọi người, như người Samari trong dụ ngôn đã thực hành. Như thế, đức ái không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một điều rất cụ thể.

Chúng ta thường dễ dàng yêu thích những người hợp với mình. Nhưng Chúa Giêsu dạy chúng tá phải yêu thương mọi người, kể những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt 5,44). Đó chính là tinh thần Kitô giáo, là giới luật mới lạ nhất mà chỉ có Chúa Giêsu truyền dạy cho chúng ta. Nếu chúng ta thực hiện được điều đó, chúng ta đích thực là con cái Chúa, và chúng ta sẽ “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.

Nguyện xin Chúa Nhân lành luôn ban ơn cho chúng ta niềm vui, sức mạnh và can đảm để yêu Chúa và yêu tha nhân trong đời sống thường nhật của chúng ta, nơi Nước Trời đã bắt đầu.


18. Suy niệm của JKN


Câu hỏi gợi ý:

1. Yêu Chúa và yêu người, cái nào quan trọng hơn? Đặt vấn đề như thế có đúng đắn không? Có thể tách hai tình yêu ấy thành biệt lập với nhau không?

2. Tinh thần yêu thương của Đức Giêsu khác với tinh thần của Cựu Ước thế nào? Có gì mới mẻ hơn so với Cựu Ước?

3. Xét câu hỏi của Đức Giêsu: «Trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?», bạn nghĩ gì về về câu hỏi ấy? Tại sao lại «ai tỏ ra là người thân cận», chứ không nói «ai là người thân cận»?



Suy tư gợi ý:

1. Yêu thương là cốt tuỷ của Luật Thiên Chúa

Lề luật vốn có rất nhiều điều luật, mỗi điều luật lại có một số khoản luật, làm sao giữ luật cho trọn vẹn để trở nên công chính? Muốn thế, phải nắm được cốt tuỷ của lề luật. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cốt tuỷ của lề luật là lòng yêu thương. Theo Cựu Ước – được thầy thông luật trưng dẫn trong bài Tin Mừng hôm nay – thì có hai đối tượng của lòng yêu thương: một là Thiên Chúa, hai là người thân cận. Nhưng trong Tân Ước, đặc biệt trong các thư của Phaolô và Gioan, thì hai đối tượng ấy được tổng hợp lại thành một thực tại duy nhất có hai mặt, tương tự như một tờ giấy duy nhất có hai trang gắn liền nhau không thể tách rời. Yêu Chúa và yêu người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Do đó, yêu Chúa đích thực tất nhiên phải yêu người, «ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người là kẻ nói dối» (1 Ga 4, 20). Thánh Phaolô tóm cả lề luật vào một mối duy nhất là yêu người: «Tất cả lề luật được tóm gọn trong một điều này: Hãy yêu người lân cận như chính mình» (Gl 5, 14), vì yêu người đích thực thì đã bao hàm yêu Chúa trong đó rồi. Nói khác đi, yêu người chính là yêu Chúa, miễn sao tình yêu đó là đích thực, nghĩa là vô vị lợi: yêu người, hy sinh cho người không vì một lợi lộc nào cả, thậm chí không phải để được Thiên Chúa thưởng. Nếu yêu người là để được Thiên Chúa thưởng mình, hay vì một lợi lộc khác của mình thì suy cho cùng hoá ra đó là mình tự yêu bản thân mình chứ đâu phải mình yêu người. Yêu kiểu ấy là một hình thức vị kỷ, chứ đâu phải là tình yêu!

2. Yêu thương là giữ trọn lề luật (x. Gl 6,2)

Chúng ta đang sống thời Tân Ước, vì thế chúng ta không nên sống theo tinh thần của Cựu Ước. Thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn sơ khai, thấp kém, nên tiêu chuẩn để nên công chính vào thời đó là sống sao cho đúng với lề luật. Càng giữ đúng luật bao nhiêu thì càng công chính bấy nhiêu. Vì thế, những người Pharisiêu là những người hoàn chỉnh nhất theo tiêu chuẩn này: họ cố giữ luật sao cho đúng từng chi tiết, từng dấu phảy một. Tuy họ giữ đúng lề luật tôn giáo từng ly từng tý, đến nỗi có thể nói rằng khó có ai giữ lề luật chi ly hơn họ, nhưng Đức Giêsu đã nhận ra rằng trong lòng họ không có tình yêu, trái lại chỉ có lòng ích kỷ. Nếu họ có giúp đỡ ai, hy sinh cho ai, thì ý hướng khiến họ làm điều ấy là vì lề luật khuyên hay buộc như vậy, vì họ nghĩ: có làm như vậy thì mới là người công chính, và mới được Thiên Chúa ân thưởng. Họ giúp đỡ, hy sinh cho người khác rất nhiều, mà lòng họ có thể chẳng yêu thương người ấy bao nhiêu. Họ làm mọi sự vì lề luật đòi hỏi, chứ không phải tình yêu đòi hỏi.

Tới thời Đức Giêsu, Ngài thấy Dân Chúa đã sống trong trình độ tâm linh ấy cả ngàn năm rồi, bây giờ Ngài phải nâng trình độ ấy lên. Tiêu chuẩn để nên công chính bây giờ phải được nâng cao hơn: không nên làm vì lề luật buộc, mà vì tình yêu đối với tha nhân đòi buộc và thúc đẩy. Vì thế, Ngài nói: «Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt 5,20). Ý của Ngài không phải muốn chúng ta giữ lề luật nhiệm nhặt hơn người Pharisiêu, vì chẳng mấy ai giữ luật tài hơn họ. Ngài muốn chúng ta công chính hơn họ ở chỗ có tình yêu bên trong, và làm mọi sự vì yêu thương chứ không phải vì lề luật buộc phải làm như thế. Điều đó không có nghĩa là Ngài đả phá lề luật, mà trái lại là làm cho lề luật hay việc giữ luật nên hoàn chỉnh hơn: giữ luật vì tình yêu, đưa tình yêu vào trong lề luật. Một khi đã có tình yêu đích thực, thì như thánh Âu-Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm». Tình yêu sẽ cho ta biết ta phải làm gì. Theo thánh Phaolô thì lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu, mà cho người không có tình yêu: «(9) Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ, sát nhân, (10) dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh» (1 Tm 1,9-10).

Nếu không có tình yêu, thì việc làm theo luật có tốt đẹp đến đâu cũng vô giá trị. Thánh Phaolô nói rất rõ: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1 Cr 13,3). Đem hết gia tài ra bố thí cho người nghèo là một hành động có vẻ đầy yêu thương, nhưng nó vẫn có thể phát xuất từ một động lực hoàn toàn vị kỷ, chẳng có chút tình thương nào: bố thí để mọi người khen, nể phục, để được mang tiếng là thương người, là đạo đức.



3. Hai thái độ giữ luật trong dụ ngôn người Samari tốt lành

Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy có hai thái độ giữ luật:

– Một là của thầy tư tế và thầy Lêvi, tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Theo họ, trong lề luật, không có khoản nào qui định cụ thể phải cứu giúp người trong hoàn cảnh như thế này cả. Trái lại, có những khoản qui định cụ thể về sự sạch sẽ: «(Tư tế lớn nhất trong hàng anh em) thì không được đến gần người chết, và không được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay vì mẹ mình» (Lv 21,11). Như vậy, nếu mình không cứu người ấy thì mình chẳng lỗi luật, còn nếu đụng đến người ấy mà lỡ người ấy chết trên tay mình, thì mình ra ô uế, không được tế lễ hay ăn bánh thánh. Thái độ lãnh đạm của họ đối với người bị nạn quả là có lý vì họ nghĩ: điều quan trọng là làm theo Lề Luật, chứ không phải là làm theo sự đòi hỏi của tình yêu. Vả lại, Lề Luật nói: «Phải yêu người thân cận như chính mình» (Lv 19,18), chứ phải yêu bất cứ người nào đâu! Nếu có tình yêu thì tình yêu ấy chỉ dành cho người lân cận, nghĩa là sống gần mình mà thôi.

– Hai là của người Samari, tượng trưng cho những người không sống theo Lề Luật: trong họ, những người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Do đó, thấy người bị nạn thì người Samari tốt lành này động lòng thương, lương tâm và tình thương đồng loại đã thúc đẩy anh ta cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn, bất chấp nạn nhân là người Do Thái, thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc anh. Cách hành xử đầy yêu thương của anh mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn này để trả lời cho câu hỏi của anh chàng thông luật: «Nhưng ai là người thân cận của tôi?». Theo câu hỏi mà Đức Giêsu đưa ra sau dụ ngôn: «Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?», thì vấn đề không phải là ai là người thân cận để mình yêu thương, mà là phải tỏ ra mình là người thân cận với mọi người, bằng cung cách xử sự đầy yêu thương với họ. Kinh nghiệm tôi cho thấy: khi có ai tỏ tình yêu thương tôi bằng những hy sinh cụ thể, dù người ấy là người tôi chưa hề quen biết hay ở xa tôi vạn dặm, thì hành động yêu thương ấy làm cho người ấy và tôi trở nên gần gũi nhau, thân mật với nhau. Tình yêu thương và sự hy sinh ấy càng lớn thì sự gần gũi ấy càng tăng lên, thậm chí đi đến chỗ coi nhau như ruột thịt. Trái lại, dù gần gũi, dù là họ hàng, máu mủ, ruột thịt mà không yêu thương nhau, thì lại trở nên như kẻ xa lạ. Như vậy, theo tinh thần của Đức Giêsu, chúng ta phải biến tha nhân thành ruột thịt, thành gần gũi với mình bằng cách cư xử đầy yêu thương với họ, hơn là chọn lấy những người nào là ruột thịt hay gần gũi với mình để yêu thương.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin cho con một tình yêu đích thực, vị tha, làm động lực thúc đẩy cho mọi hành động của con. Cho con biết thật sự quên mình được thể hiện bằng những hy sinh cụ thể cho tha nhân, vì đó chính là dấu chứng của tình yêu đích thực mà con cần có để nên công chính.



Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2013
downloads -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
downloads -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2013 -> Các bài suy niệm chúa nhậT 14 thưỜng niên c lời Chúa: Is 66, 10-14c; Gl 6, 14-18; Lc 10, 1-12. 17-20 MỤc lụC
2013 -> Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩM
2013 -> Các bài suy niệm chúa nhậT 17 thưỜng niên c lời Chúa: St. 18, 20-32; Cl. 2, 12-14; Lc. 11, 1-13 MỤc lụC
2013 -> Các bài suy niệm LỄ hiện xuống – Năm c lời Chúa: Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b 12-13; Ga 20,19-23 MỤc lụC
2013 -> CHÚa nhậT 3 MÙa chay c lời Chúa: Xh 3,1-8a. 13-15; 1Cr 10,1 10-12; Lc 13,1-9 MỤc lụC

tải về 353.63 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương