CƠ SỞ khoa học môi trưỜng chưƠng các vấN ĐỀ chung về khoa học môi trưỜNG



tải về 2.15 Mb.
trang2/15
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích2.15 Mb.
#38192
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15

Nhìn chung, lượng phát thải trong các lĩnh vực chính của những năm gần đây có xu hướng tăng lên, đó chính là hệ quả của tốc độ phát triển và tỷ lệ tăng dân số ở nước ta hiện nay. Lượng phát thải CO2 do tiêu thụ năng lượng và sản xuất xi măng của năm 1993 tăng hơn so với năm 1990. Trong khi đó, lượng phát thải CO2 do các hoạt động lâm nghiệp tăng không đáng kể. Trong khu vực nông nghiệp, lượng phát thải CH4 trong chăn nuôi đã có những sai khác nhiều so với năm 1990. CO2 và CH4 là 2 loại khí nhà kính chủ yếu ở nước ta hiện nay. Tính đến năm 1993, lượng phát thải CO2 ở Việt Nam vào khoảng 27 - 28 triệu tấn do tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch từ các hoạt động năng lượng và phát thải CH4 và 3,2 triệu tấn do sản xuất lúa nước. Các hoạt động trong ngành lâm nghiệp phát thải khoảng 34,5 triệu tấn CO2 song lượng CO2 do đốt sinh khối cần được đánh giá và xác định một cách chính thức.

Với những nguyên nhân trên, thiên tai không những chỉ xuất hiện với tần suất ngày càng gia tăng mà quy mô tác động gây thiệt hại cho con người cũng ngày càng lớn. Ví dụ, tháng 12/1999, hai trận mưa lớn ở Vênêzuêla đã làm cho 50.000 người chết và hơn 200.000 người không có nhà ở. Cũng vào năm đó, một cơn bão lớn đã cướp đi mạng sống của 10.000 người ở Orissa (Ấn Độ) và một trận động đất đã tàn phá đất nước Thổ Nhĩ Kỳ và đặc biệt gần đây, ngày 26/01/2001, thảm hoạ động đất ở Ấn Độ đã làm cho khoảng 30.000 người chết và hàng vạn người bị thương gây thiệt hại rất lớn về tiền của. Đầu tháng 9/2000, những cơn bão liên tiếp có kèm theo mưa lớn đã đổ xuống khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) làm cho vùng đất rộng lớn bị chìm ngập trong biển nước. Tính đến ngày 6/10/2000, tổng thiệt hại do lũ lụt gây ra tại các tỉnh ĐBSCL ước tính lên tới 3.125 tỷ đồng, 309 người chết trong đó có 232 trẻ em.

1.4.2. Sự suy giảm tầng Ôzôn (O3)

Vấn đề gìn giữ tầng Ôzôn có vai trò sống còn đối với nhân loại. Tầng Ôzôn có vai trò bảo vệ, chặn đứng các tia cực tím có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của con người và các loài sinh vật trên Trái Đất. Bức xạ tia cực tím có nhiều tác động, hầu hết mang tính chất phá huỷ đối với con người, động vật và thực vật cũng như các loại vật liệu khác, khi tầng Ôzôn tiếp tục bị suy thoái, các tác động này càng trở nên tồi tệ. Ví dụ, mức cạn kiệt tầng Ôzôn là 10% thì mức bức xạ tia cực tím ở các bước sóng gây phá huỷ tăng 20%. Bức xạ tia cực tím có thể gây huỷ hoại mắt, làm đục thuỷ tinh thể và phá hoại võng mạc, gây ung thư da, làm tăng các bệnh về đường hô hấp. Đồng thời, bức xạ tia cực tím tăng lên được coi là nguyên nhân làm suy yếu các hệ miễn dịch của con người và động vật, đe doạ tới đời sống của động và thực vật nổi trong môi trường nước sống nhờ quá trình chuyển hoá năng lượng qua quang hợp để tạo ra thức ăn trong môi trường thuỷ sinh.

Ôzôn là loại khí hiếm trong không khí nằm trong tầng bình lưu khí quyển gần bề mặt Trái Đất và tập trung thành một lớp dày ở độ cao từ 16 - 40 km phụ thuộc vào vĩ độ. Việc giao thông đường bộ do các phương tiện có động cơ thải ra khoảng 30 - 50% lượng NOx ở các nước phát triển và nhiều chất hữu cơ bay hơi (VOC) tạo ra Ôzôn mặt đất. Nếu không khí có nồng độ Ôzôn lớn hơn nồng độ tự nhiên thì môi trường bị ô nhiễm và gây tác hại đối với sức khoẻ con người.

Ví dụ: Nồng độ Ôzôn = 0,2ppm: Không gây bệnh.

Nồng độ O3 = 0,3ppm: Mũi, họng bị kích thích và bị tấy.

Nồng độ O3 = 1 - 3ppm: Gây mệt mỏi, bải hoải sau 2 giờ tiếp xúc.

Nồng độ O3 = 8ppm: Nguy hiểm đối với phổi.

Nồng độ O3 cao cũng gây tác động có hại đối với thực vật (bảng 3).

Bảng 3. Tác động của O3 đối với thực vật.



Loại cây

Nồng độ O3 (ppm)

Thời gian tác động

Biểu hiện gây hại

- Củ cải

- Thuốc lá

-Đậu tương

- Yến mạch



0,050

0,100


0,050

0,075


20 ngày

(8h/ngày)

- 5,5 h

- 19 h


50% lá chuyển sang màu vàng

Giảm 50% phát triển phấn hoa

Giảm sinh trưởng từ 14,4 - 17%

Giảm cường độ quang hợp



Các chất làm cạn kiệt tầng Ôzôn (ODS - Ozon Depletion Substances) bao gồm: Cloruafluorocacbon (CFC); mêtan (CH4); các khí nitơ ôxit (NO2, NO, NOx) có khả năng hoá hợp với O3 và biến đổi nó thành ôxy. Các chất làm suy giảm tầng Ôzôn trong tầng bình lưu đạt ở mức cao nhất vào năm 1994 và hiện đang giảm dần. Theo Nghị định thư Montreal và các văn bản sửa đổi của Nghị định thư dự đoán rằng, tầng Ôzôn sẽ được phục hồi so với trước những năm 1980 vào năm 2050.

1.4.3. Tài nguyên bị suy thoái

Rừng, đất rừng và đồng cỏ hiện vẫn đang bị suy thoái hoặc bị triệt phá mạnh mẽ, đất hoang bị biến thành sa mạc. Sa mạc Sa - ha - ra có diện tích rộng 8 triệu km2, mỗi năm bành trướng thêm từ 5 - 7km2. Một bằng chứng mới cho thấy, sự biến đổi khí hậu cũng là nguyên nhân gây thêm tình trạng xói mòn đất ở nhiều khu vực. Gần đây, 250 nhà Thổ nhưỡng học được Trung tâm Thông tin và Tư vấn Quốc tế Hà Lan tham khảo lấy ý kiến đã cho rằng, khoảng 305 triệu ha đất màu mỡ (gần bằng diện tích của Tây Âu) đã bị suy thoái do bàn tay của con người, làm mất đi tính năng sản xuất nông nghiệp. Khoảng 910 triệu ha đất tốt (tương đương với diện tích nước Úc) sẽ bị suy thoái ở mức trung bình, giảm tính năng sản xuất và nếu không có biện pháp cải tạo thì quỹ đất này sẽ bị suy thoái ở mức độ mạnh trong tương lai gần. Theo Tổ chức Lương thực Thực phẩm Thế giới (FAO) thì trong vòng 20 năm tới, hơn 140 triệu ha đất (tương đương với diện tích của Alaska) sẽ bị mất đi giá trị trồng trọt và chăn nuôi. Đất đai ở hơn 100 nước trên Thế giới đang chuyển chậm sang dạng hoang mạc, có nghĩa là 900 triệu người đang bị đe doạ. Trên phạm vi Toàn cầu, khoảng 25 tỷ tấn đất đang bị cuốn trôi hàng năm vào các sông ngòi và biển cả. Theo tài liệu thống kê của Liên Hợp Quốc, diện tích đất canh tác bình quân đầu người trên Thế giới năm 1983 là 0,31ha/người thì đến năm 1993 chỉ còn 0,26 ha/người và còn tiếp tục giảm trong tương lai.

- Sự phá huỷ rừng vẫn đang diễn ra với mức độ cao, trên Thế giới diện tích rừng có khoảng 40 triệu km2, song cho đến nay diện tích này đã bị mất đi một nửa, trong số đó, rừng ôn đới chiếm khoảng 1/3 và rừng nhiệt đới chiếm 2/3. Sự phá huỷ rừng xảy ra mạnh, đặc biệt ở những nước đang phát triển. Chủ yếu do nhu cầu khai thác gỗ củi và nhu cầu lấy đất làm nông nghiệp và cho nhiều mục đích khác, gần 65 triệu ha rừng bị mất vào những năm 1990 - 1995.

Ở các nước phát triển, diện tích rừng tăng 9 triệu ha, con số này còn quá nhỏ so với diện tích rừng đã bị mất đi. Chất lượng của những khu rừng còn lại đang bị đe doạ bởi nhiều sức ép do tình trạng gia tăng dân số, mưa axit, nhu cầu khai thác gỗ củi và cháy rừng. Nơi cư trú của các loài sinh vật bị thu hẹp, bị tàn phá, đe doạ tính đa dạng sinh học ở các mức độ về gen, các giống loài và các HST.

- Với tổng lượng nước là 1386.106 km3, bao phủ gần 3/4 diện tích bề mặt Trái Đất, và như vậy Trái Đất của chúng ta có thể gọi là "Trái Nước", nhưng loài người vẫn "khát" giữa đại dương mênh mông, bởi vì với tổng lượng nước đó thì nước ngọt chỉ chiếm 2,5% tổng lượng nước, mà hầu hết tồn tại ở dạng đóng băng và tập trung ở hai cực (chiếm 2,24%), còn lượng nước ngọt mà con người có thể tiếp cận để sử dụng trực tiếp thì lại càng ít ỏi (chỉ chiếm 0,26%). Sự gia tăng dân số nhanh cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, thâm canh nông nghiệp và các thói quen tiêu thụ nước quá mức đang gây ra sự khủng hoảng nước trên phạm vi Toàn cầu. Gần 20% dân số Thế giới không được dùng nước sạch và 50% thiếu các hệ thống vệ sinh an toàn. Sự suy giảm nước ngọt ngày càng lan rộng hơn và gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, đó là nạn thiếu nước ở nhiều nơi và đối với các khu vực ven biển đó là sự xâm nhập mặn. Ô nhiễm nước uống là phổ biến ở các siêu đô thị, ô nhiễm nitrat (NO3 -) và sự tăng khối lượng các kim loại nặng gây tác động đến chất lượng nước hầu như ở khắp mọi nơi. Nguồn cung cấp nước sạch trên Thế giới không thể tăng lên được nữa; ngày càng có nhiều người phụ thuộc vào nguồn cung cấp cố định này và ngày càng có nhiều người bị ô nhiễm hơn. Mất đất, mất rừng, cạn kiệt nguồn nước làm cho hàng chục triệu người buộc phải di cư, tị nạn môi trường,... gây xuống cấp các điều kiện sức khoẻ, nhà ở, môi trường. Có khoảng 1 tỷ người không có đủ chỗ để che thân và hàng chục triệu người khác phải sống trên các hè phố. Thật không thể tin được rằng, Thế giới ngày nay cứ mỗi năm có 20 triệu người dân chết vì nguyên nhân môi trường, trong khi đó, số người chết trong các cuộc xung đột vũ trang của hơn nửa thế kỷ tính từ sau năm 1945 tới nay cũng chỉ là 20 triệu người. Bài toán tăng 75% lượng lương thực từ nay tới năm 2030 do FAO đề ra là bài toán khó vẫn chưa có lời giải vì dân số liên tục gia tăng trong khi diện tích đất nông nghiệp không tăng mà còn có xu hướng giảm, độ màu mỡ của đất ngày càng suy giảm.

1.4.4. Ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở quy mô rộng.

Sự phát triển đô thị, khu công nghiệp, du lịch và việc đổ bỏ các loại chất thải vào đất, biển, các thuỷ vực đã gây ô nhiễm môi trường ở quy mô ngày càng rộng, đặc biệt là các khu đô thị. Nhiều vấn đề môi trường tác động tương tác với nhau ở các khu vực nhỏ, mật độ dân số cao. Ô nhiễm không khí, rác thải, chất thải nguy hại, ô nhiễm tiếng ồn và nước đang biến những khu vực này thành các điểm nóng về môi trường. Khoảng 30 - 60% dân số đô thị ở các nước có thu nhập thấp vẫn còn thiếu nhà ở và các điều kiện vệ sinh. Sự tăng nhanh dân số Thế giới có phần đóng góp do sự phát triển đô thị. Bước sang thế kỷ XX, dân số Thế giới chủ yếu sống ở nông thôn, số người sống tại các đô thị chiếm 1/7 dân số Thế giới. Nhưng đến cuối thế kỷ XX, dân số sống ở đô thị đã tăng lên nhiều và chiếm tới 1/2 dân số Thế giới. Ở nhiều quốc gia đang phát triển, đô thị phát triển nhanh hơn mức tăng dân số. Châu Phi là vùng có mức độ đô thị hoá kém nhất, nay đã có mức đô thị hoá tăng hơn 4%/năm so với mức tăng dân số là 3%, số đô thị lớn ngày càng tăng hơn. Đầu thế kỷ XX chỉ có 11 đô thị loại 1 triệu dân và phần lớn tập trung ở Châu Âu và Bắc Mỹ, nhưng đến cuối thế kỷ đã có khoảng 24 siêu đô thị với số dân trên 24 triệu người.

Năm 1950, có 3 trong số 10 thành phố lớn nhất trên Thế giới là ở các nước đang phát triển như: Thượng Hải (Trung Quốc); Buenos Aires (Achentina) và Calcuta (Ấn Độ). Năm 1990, 7 thành phố lớn nhất là ở các nước đang phát triển. Năm 1995 và năm 2000 đã tăng lên 17 siêu đô thị

Ở Việt Nam hiện nay, trong 500 thành phố và thị trấn chỉ có 2 thành phố trên 1 triệu dân (Hà Nội khoảng 2,2 triệu người, kể cả ngoại thành; Thành phố Hồ Chí Minh khoảng hơn 4 triệu người với 1/4 là ngoại thành) và 2 thành phố với số dân từ 350.000 đến 1 triệu người. Trong vòng 15 năm tới, nếu không có sự quy hoạch đô thị hợp lý, có khả năng TPHCM và cả Hà Nội sẽ trở thành siêu đô thị với tất cả những vấn đề môi trường phức tạp về mật độ dân cư.

Đặc biệt, lượng nước ngọt đang khan hiếm trên hành tinh cũng bị chính con người làm tổn thương, một số nguồn nước bị nhiễm bẩn nặng đến mức không còn khả năng hoàn nguyên. Hiện nay, Đại Dương đang bị biến thành nơi chứa rác khổng lồ của con người, nơi chứa đựng đủ loại chất thải của nền văn minh kỹ thuật, kể cả chất thải hạt nhân. Việc đổ các chất thải xuống biển đang làm xuống cấp các khu vực ven biển trên toàn Thế giới, gây huỷ hoại các hệ sinh thái như đất ngập nước, rừng ngập mặn và các dải san hô.

Hiện nay, trên Thế giới, nhiều vùng đất đã được xác định là bị ô nhiễm. Ví dụ, ở Anh đã chính thức xác nhận 300 vùng với diện tích 10.000 ha bị ô nhiễm, tuy nhiên trên thực tế có tới 50.000 - 100.000 vùng với diện tích khoảng 100.000ha (Bridges, 1991). Còn ở Mỹ có khoảng 25.000 vùng, ở Hà Lan là 6.000 vùng đất bị ô nhiễm cần phải xử lý.

1.4.5. Gia tăng dân số

Con người là chủ của Trái Đất, là động lực chính làm tăng thêm giá trị của các điều kiện kinh tế - xã hội và chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, xung lượng gia tăng dân số hiện nay ở một số nước đi đôi với đói nghèo, suy thoái môi trường và tình hình kinh tế bất lợi đã gây ra xu hướng làm mất cân bằng nghiêm trọng giữa dân số và môi trường.

Đầu thế kỷ XIX, dân số Thế giới mới có 1 tỷ người nhưng đến năm 1927 tăng lên 2 tỷ người; năm 1960: 3 tỷ; năm 1974: 4 tỷ; năm 1987: 5 tỷ và năm 1999 là 6 tỷ người, trong đó trên 1 tỷ người trong độ tuổi từ 15 - 24 tuổi. Mỗi năm dân số Thế giới tăng thêm khoảng 78 triệu người. Theo dự tính đến năm 2015, dân số Thế giới sẽ ở mức từ 6,9 - 7,4 tỷ người và đến 2025 dân số sẽ là 8 tỷ người và năm 2050 sẽ là 10,3 tỷ người. 95% dân số tăng thêm nằm ở các nước đang phát triển do đó các nước này sẽ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng cả về kinh tế, xã hội đặc biệt là môi trường, sinh thái. Việc giải quyết những hậu quả do dân số tăng của những nước này có lẽ còn khó khăn hơn gấp nhiều lần những xung đột về chính trị trên Thế giới.

Nhận thức được tầm quan trọng của sự gia tăng dân số trên Thế giới, nhiều Quốc gia đã phát triển chương trình kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ), mức tăng trưởng dân số Toàn cầu đã giảm từ 2% mỗi năm vào những năm trước 1980 xuống còn 1,7% và xu hướng này ngày càng thấp hơn.

Theo dự tính, sau năm 2050, dân số Thế giới sẽ ngừng tăng và ổn định ở mức 10,3 tỷ. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa đủ để tạo cân bằng giữa dân số và khả năng của môi trường. Các nước chưa liên kết được KHHGĐ với quy hoạch phát triển, thì cũng chưa thể gắn vấn đề dân số với hành động về môi trường. Một câu hỏi được đặt ra là liệu tài nguyên thiên nhiên và các HST của Trái Đất có thể chịu đựng được sự tác động thêm bởi những thành viên cuối cùng của loài người chúng ta hay không? Hơn nữa, điều gì sẽ xảy ra vào năm 2025, khi người thứ 8 tỷ của Trái Đất sẽ ra đời? Nếu người thứ 6 tỷ sinh ra tại một nước phát triển, ví dụ như ở Mỹ thì người đó đương nhiên thuộc vào dân số tầng lớp trên, ít nhất theo nghĩa là có nhà tốt, có nước sạch, có điều kiện vệ sinh và được hưởng giáo dục, chăm sóc y tế thích đáng, có việc làm, có thời gian giải trí. Song người thứ 6 tỷ cũng góp phần tiêu thụ những tài nguyên kỷ lục. Hàng năm, 270 triệu người Mỹ sử dụng khoảng 10 tỷ tấn nguyên liệu, chiếm 30% trữ lượng của toàn hành tinh; 1 tỷ người giàu nhất Thế giới, kể cả người Châu Âu và người Nhật tiêu thụ 80% tài nguyên Trái Đất. Nếu người thứ 6 tỷ được sinh ra tại một nước đang phát triển, nơi tập trung 3/4 dân số của Thế giới thì người đó chỉ có lâm vào cơ hội nghèo đói và thiếu thốn; 1/3 dân số Thế giới (2 tỷ người) đang sống với khoảng 2 USD/ngày; một nửa số người trên Trái Đất có điều kiện vệ sinh kém; 1/4 không được dùng nước sạch, 1/3 sống trong những khu nhà ở không đủ tiện nghi; 1/6 không biết chữ và 30% những người lao động không có được cơ hội có việc làm phù hợp; 5 tỷ người còn lại trên Trái Đất chỉ tiêu dùng vẻn vẹn 20% tài nguyên Trái Đất. Việc tăng những kỳ vọng và nhu cầu thiết yếu để cải thiện điều kiện sống trong những nước đang phát triển càng làm trầm trọng thêm sự tổn hại về môi trường. Một người Mỹ trung bình hàng năm tiêu thụ 37 tấn nhiên liệu, kim loại, khoáng chất, thực phẩm và lâm sản. Ngược lại, 1 người Ấn Độ trung bình tiêu thụ hàng năm ít hơn 1 tấn. Theo Liên Hợp Quốc, nếu toàn bộ dân số của Trái Đất có cùng mức tiêu thụ trung bình như người Mỹ hoặc Tây Âu, thì cần phải có 3 Trái Đất để đáp ứng tài nguyên cần thiết. Rõ ràng, cần phải quan tâm hơn nữa tới sự tiến bộ của con người và công bằng xã hội và phải coi đây là những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nguồn nhân lực và cải thiện môi trường. Mỗi Quốc gia phải đảm bảo sự hài hoà giữa: Dân số, hoàn cảnh môi trường, tài nguyên, trình độ phát triển, kinh tế - xã hội.

1.4.6. Suy giảm tính đa dạng sinh học (ĐDSH) trên Trái Đất

Các loài động và thực vật qua quá trình tiến hoá trên Trái Đất hàng trăm triệu năm đã và đang góp phần quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng môi trường sống trên Trái Đất, ổn định khí hậu, làm sạch các nguồn nước, hạn chế xói mòn đất, làm tăng độ phì nhiêu đất. Sự đa dạng của tự nhiên cũng là nguồn vật liệu quý giá cho các ngành công nghiệp, dược phẩm, du lịch, là nguồn thực phẩm lâu dài của con người, và là nguồn gen phong phú để tạo ra các giống loài mới. ĐDSH được chia thành 3 dạng: Đa dạng di truyền; đa dạng loài và đa dạng sinh thái.

- Đa dạng di truyền: Vật liệu di truyền của vi sinh vật, thực vật và động vật chứa đựng nhiều thông tin xác định các tính chất của tất cả các loài và các cá thể tạo nên sự đa dạng của Thế giới hữu sinh. Theo định nghĩa, thì những cá thể cùng loài có những đặc điểm giống nhau, những biến đổi di truyền lại xác định những đặc điểm riêng biệt của những cá thể trong cùng loài.

- Đa dạng loài: Được thể hiện đối với từng khu vực, đa dạng loài được tính bằng số lượng loài và những đơn vị dưới loài trong 1 vùng.

- Đa dạng HST: Sự phong phú về môi trường trên cạn và môi trường dưới nước của Trái Đất đã tạo nên một số lượng lớn HST. Những sinh cảnh rộng lớn bao gồm rừng mưa nhiệt đới, đồng cỏ, đất ngập nước, san hô và rừng ngập mặn chứa đựng nhiều HST khác nhau và cũng rất giàu có về ĐDSH. Những HST riêng biệt chứa đựng các loài đặc hữu cũng góp phần quan trọng cho ĐDSH Toàn cầu. Các sinh cảnh giàu có nhất của Thế giới là rừng ẩm nhiệt đới, mặc dù chúng chỉ chiếm 70% tổng diện tích của bề mặt Trái Đất, nhưng chúng chiếm ít nhất 50%, thậm chí đến 90% số loài của động và thực vật.

Sự đa dạng về các giống loài động thực vật trên hành tinh có vị trí vô cùng quan trọng. Việc bảo vệ ĐDSH còn có ý nghĩa đạo đức, thẩm mỹ và loài người phải có trách nhiệm tuyệt đối về mặt luân lý trong cộng đồng sinh vật sống. ĐDSH lại là nguồn tài nguyên nuôi sống con người. Chúng ta đã sử dụng sinh vật làm thức ăn, thuốc chữa bệnh, hoá chất, vật liệu xây dựng, năng lượng,... và cho nhiều mục đích khác, khoảng 100 loài cây cung cấp phần lớn lượng thức ăn cho Toàn cầu, chúng vô cùng quý giá và cần phải được bảo tồn và phát triển. Hơn 10.000 cây khác, nhất là ở các vùng nhiệt đới có thể dùng làm thực phẩm nếu chúng ta biết sử dụng chúng tốt hơn. Cây cối và các sinh vật khác còn là một "xí nghiệp" hoá - sinh tự nhiên. Sức khoẻ của hơn 60% dân số Thế giới phụ thuộc vào các loài cây làm thuốc. Ví dụ, Trung Quốc đã sử dụng 5.000 trong số 30.000 loài cây để làm thuốc. Mất ĐDSH chúng ta cũng mất đi các dịch vụ tự nhiên của các HST tự nhiên, đó là: Bảo vệ các lưu vực sông ngòi, điều hoà khí hậu, duy trì chất lượng không khí, hấp thụ ô nhiễm, sản sinh và duy trì đất đai. Tuy nhiên, nhân loại đang phải đối mặt với một thời kỳ tuyệt chủng lớn nhất của các loài động và thực vật. Thảm hoạ này tiến triển nhanh nhất và có hậu quả rất nghiêm trọng. Theo tính toán, trên Thế giới có 492 chủng quần thực vật có tính chất di truyền độc đáo đang bị đe doạ tuyệt chủng. Sự đe doạ không chỉ riêng đối với động và thực vật hoang dại mà trong nhiều thập kỷ gần đây với cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp, công nghiệp hoá đã làm biến mất nhiều giống loài địa phương quý hiếm, 1.500 giống lúa địa phương đã bị tuyệt chủng trong 20 năm qua ở Inđônêxia. Ở Việt Nam, việc áp dụng rộng rãi các giống lúa mới trong nông nghiệp,... đã dẫn tới sự thu hẹp hoặc mất đi các HST dẫn tới nguy cơ tuyệt diệt 28% các loài thú, 10% các loài chim, 21% loài bò sát và lưỡng cư (Lê Quý An, 2000). Hiện tượng này cũng xảy ra tương tự đối với vật nuôi trên Toàn cầu, đã có 474 giống vật nuôi được coi là quý hiếm và tổng cộng đã có 617 giống vật nuôi đã tuyệt chủng. Nguyên nhân chính của sự mất ĐDSH là:

- Mất nơi sinh sống do chặt phá rừng và phát triển kinh tế.

- Săn bắt quá mức để buôn bán.

- Ô nhiễm đất, nước và không khí.

- Việc du nhập nhiều loài ngoại lai cũng là nguyên nhân gây mất ĐDSH.

CHƯƠNG 2. CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN CỦA MÔI TRƯỜNG


2.1. Thạch quyển

2.1.1. Sự hình thành và cấu trúc của Trái Đất

Theo các tư liệu về thiên văn học, Trái Đất là một hành tinh nằm trong Hệ Mặt Trời. Hệ Mặt Trời của Trái Đất - Thái Dương hệ, là một trong hàng triệu hệ thống tương tự thuộc một thiên hà có tên là Ngân hà. Trong Vũ trụ bao la và không có biên giới, có hàng triệu triệu các thiên hà như vậy. Vũ trụ luôn tồn tại và luôn biến động, ở nơi này có các thiên hà hoặc một hệ Mặt Trời mới được hình thành, thì ở nơi khác có thể có một hệ Mặt Trời hoặc một thiên hà đang đi tới diệt vong. Cho tới bây giờ, các nhà khoa học trên Trái Đất chưa trả lời được rõ ràng câu hỏi: Vũ trụ bắt đầu như thế nào và kết thúc ra sao? Một lý thuyết giải thích sự hình thành Vũ trụ được nhiều người ủng hộ nhất là Lý thuyết Vụ nổ lớn (Bigbang Theory). Để giải thích sự hình thành và cấu trúc Trái Đất, chúng ta sẽ bắt đầu từ sự kiện có thể tìm thấy bằng chứng chứng minh là đám mây bụi Thái Dương hệ. Từ đám mây bụi tồn tại vào thời điểm cách đây 4,6 tỷ năm, đã hình thành nên Hệ Mặt Trời và các hành tinh, trong đó có Trái Đất.



Vào thời điểm sau khi hình thành (cách đây khoảng 4,5 tỷ năm), Trái Đất là một quả cầu lạnh, không có khí quyển, tự quay xung quanh Mặt Trời. Sự phân huỷ của các chất phóng xạ làm cho quả cầu Trái Đất nóng dần lên, dẫn đến sự phân dị của vật chất bên trong và thoát khí và hơi nước, tạo nên khí quyển nguyên sinh gồm CH4, NH3 và hơi nước. Các chất rắn trong lòng Trái Đất bị phân dị, phần nặng nhất gồm Fe - Ni tập trung tạo thành Nhân Trái Đất. Các phần nhẹ hơn gồm các hợp chất MgO, FeO, SiO2, v.v tạo nên Mantia. Phần nhẹ nhất gồm các kim loại Al, Si tập trung ở lớp ngoài. Dần dần, lớp ngoài Trái Đất nguội dần trở nên đông cứng và tạo nên vỏ Trái Đất. Những lớp đất đá cổ nhất có tuổi theo phân tích đồng vị phóng xạ là 3,5 tỷ năm, đã được tìm thấy ở bán đảo Scandinavia, Nam Phi và nhiều nơi khác trên Trái Đất. Sau đó ít lâu (khoảng 4,4 tỷ năm trước), xuất hiện các đại dương nguyên thuỷ. Thành phần và cấu trúc của khí quyển, thuỷ quyển thay đổi theo thời gian hình thành cho đến ngày nay. Các sinh vật trên Trái Đất xuất hiện muộn hơn vào khoảng 2 - 3 tỷ năm, tiến hoá không ngừng tạo ra sự phong phú và đa dạng của các loài trong sinh quyển. Cấu tạo bên trong của Trái Đất được trình bày trong hình 2.




Hình 2. Cấu tạo bên trong của Trái Đất

Vỏ Trái Đất là một lớp vỏ cứng rất mỏng có cấu tạo hình thái rất phức tạp, có thành phần không đồng nhất, có độ dày thay đổi theo vị trí địa lý khác nhau. Theo các nhà địa chất, vỏ Trái Đất được chia làm hai kiểu: vỏ lục địa và vỏ đại dương. Vỏ đại dương có thành phần chủ yếu là các đá giàu CaO, FeO, MgO, SiO2 (đá bazan) trải dài trên tất cả các đáy của các đại dương với chiều dày trung bình 8 km. Thực ra, vỏ đại dương có thể chia ra làm các phụ kiểu:

- Vỏ miền nền đại dương đặc trưng cho phần lớn diện tích đáy đại dương và là loại vỏ đại dương điển hình, có chiều dày từ 3 - 17 km.

- Vỏ đại dương miền tạo núi, phát triển trên các cung đảo và núi ở giữa đáy đại dương, có chiều dày từ 10 - 25 km

- Vỏ đại dương vùng địa máng đặc trưng cho các biển ven rìa có cung đảo chắn (biển Nhật bản, biển Java, v.v.) với bề dày của lớp bazan từ 5 - 20 km, đôi chỗ còn thấy di tích lớp đá granit

- Vỏ đại dương trong các vực thẳm với bề dày trung bình 8 - 10 km.

- Vỏ đại dương ở các biển nội địa có chiều dày lớp đá trầm tích khá dày, đạt 10 - 12 km ở biển Hắc Hải, 20 - 40 km ở biển Caxpiên.

Vỏ lục địa, gồm hai lớp vật liệu chính là đá bazan dày từ 10 - 20 km ở dưới và các loại đá khác: granit, sienit giàu SiO2, Al2O3 và đá trầm tích ở bên trên. Vỏ lục địa thường rất dày, trung bình 35 km, có nơi 70 - 80 km như ở vùng núi cao Himalaya. Ở vùng thềm lục địa, nơi tiếp xúc giữa đại dương và lục địa, lớp vỏ lục địa giảm còn 15 - 20 km. Vỏ lục địa thường phân ra thành ba phụ kiểu:

- Vỏ lục địa miền nền, thường gặp trên các miền đại lục, phần trên của sườn lục địa và đáy biển nội địa với lớp granit có chiều dày thay đổi.

- Vỏ lục địa miền tạo núi đại lục, thường gặp tại các phần cao của lục địa (vùng núi có độ cao dưới 4000 m) và trên các đảo (Mađâgasca, Kalimantan, Tân Ghinê, v.v.). Ở loại này, chiều dày lớp granit và bazan đều lớn hơn phụ kiểu trên.

- Vỏ lục địa miền tạo núi trẻ và mạnh (Hymalaya), đặc trưng cho vùng núi cao trên 4000 m trên các đại lục, với bề dày của Vỏ trên 60 km cho tới 80 km.

Có nhiều lý thuyết đề cập tới quá trình phát triển có định hướng của vỏ Trái Đất như Thuyết địa máng và Thuyết kiến tạo mảng. Theo lý thuyết địa máng thì khuynh hướng chủ yếu trong lịch sử phát triển của vỏ Trái Đất là sự quá độ chuyển hoá từ cấu trúc vỏ nền đại dương thành các đai địa máng hoạt động mạnh, và cuối cùng thành các địa máng nội địa. Khi các đai địa máng này khép lại thì diện tích lục địa mở rộng, còn diện tích đại dương thu hẹp. Trong quá trình biến chất và uốn nếp, sẩy ra hiện tượng "granit hoá" lớp vỏ bazan vốn có của vỏ đại dương thành lớp granit của vỏ lục địa. Khi chế độ địa máng kết thúc thành các miền nền thì quá trình granit hoá cũng kết thúc.

Theo Lý thuyết kiến tạo mảng, thạch quyển gồm Vỏ và tầng mantia trên, bị vỡ ra thành 12 mảng di chuyển chậm theo phương nằm ngang trên bề mặt Trái Đất. Sự di chuyển của các mảng thực hiện trên nền một quyển mềm (Asthenosphere) nằm ngay dưới thạch quyển. Ranh giới của các mảng này có thể là phân kỳ, hội tụ hoặc biến đổi. Tại ranh giới phân kỳ, ví dụ tại sống núi giữa Đại Tây Dương, nơi hai mảng tiếp có xu hướng tách giãn xa nhau thạch quyển mới sẽ được hình thành bằng dung nham của hoạt động núi lửa. Tại ranh giới hội tụ, ví dụ vùng núi Hymalaya, hai mảng chuyển động ngược chiều nhau làm cho một trong hai mảng chúi xuống dưới. Tại ranh giới biển đổi, các mảng trượt qua nhau dọc theo ranh giới.

Thành phần hoá học của Trái Đất bao gồm các nguyên tố hoá học có số thứ tự từ 1 - 92 trong bảng hệ thống tuần hoàn Menđeleep. Theo các giả thuyết, nhân Trái Đất gồm hai phần: nhân cứng là hỗn hợp cacbua và hidrát Fe và Ni; còn nhân lỏng là hỗn hợp nóng chảy có thành phần 90% Fe và 10% Ni. Mantia và vỏ Trái Đất là hỗn hợp silicát và alumosilicát của kim loại kiềm, kiềm thổ và một ít Fe, Ni. Hàm lượng của 8 nguyên tố hoá học phổ biến nhất trong vỏ Trái Đất được trình bày trong bảng 4.

Bảng 4. Các nguyên tố hoá học phổ biến trong vỏ Trái Đất.



Nguyên tố

% trọng lượng toàn vỏ

% thể tích so với toàn vỏ

O

46,60

93,77

Si

27,72

0,86

Al

8,13

0,47

Fe

5,0

0,43

Mg

2,09

0,29

Ca

3,63

1,03

Na

2,83

1,32

K

2,59

1,83

Như vậy, 8 nguyên tố hoá học phổ biến trên chiếm 99% trọng lượng vỏ Trái Đất.. Nếu cộng thêm với 4 nguyên tố nữa là H, Ti, C, Cl thì dãy 12 nguyên tố đó chiếm 99.67% trọng lượng vỏ Trái Đất. 80 nguyên tố hoá học tự nhiên còn lại của bảng tuần hoàn, chỉ chiếm 0.33% trọng lượng vỏ Trái Đất. Nói cách khác, con người hiện đang sống trong một phần rất mỏng manh, có thành phần phức tạp và rất linh động của Trái Đất là vỏ Trái Đất. Cấu trúc Trái Đất và các quá trình hoá lý phức tạp xảy ra trong lòng Trái Đất vẫn đang chứa đựng nhiều điều bí ẩn với con người.

2.1.2. Sự hình thành đá, cấu trúc địa chất và khoáng sản



Đất đá và các khoáng vật tự nhiên, được thành tạo trên Trái Đất nhờ ba quá trình địa chất chính: mắc ma, trầm tích và biến chất. Các loại đá hình thành do sự nguội đi của dung thể mắc ma hoặc tác động trực tiếp của dung thể đó gọi là đá mắc ma. Các loại đá được hình thành trên bề mặt Trái Đất hoặc lắng đọng trong đáy biển, đại dương, các bồn nước, v.v, được gọi là đá trầm tích. Đá mắc ma hoặc đá trầm tích bị biến đổi dưới áp suất và nhiệt độ cao thành đá biến chất. Ba loại đá mắc ma, biến chất, trầm tích có quan hệ nhân quả chặt chẽ với nhau trong vỏ Trái Đất theo hình 3.





Hình 3. Chu trình biến đổi các loại đá chính trong vỏ Trái Đất

Каталог: file -> downloadfile8 -> 200
200 -> Bài 1: ( 5 điểm) A=24,4872 1\ Tính a = 2\ Tính giá trị của biểu thức: B=7,708220309 B= tại X =; z = 4 Bài 2
downloadfile8 -> CHƯƠng I: TỔng quan về audio- video số TỔng quan về audio số
downloadfile8 -> Lời ngỏ của giáo sư Nguyễn Lân Dũng Cùng bạn đọc
downloadfile8 -> NGƯỜi coi thi đ ĐỀ chính thứC
downloadfile8 -> Đề Tài Liên hệ thực tiễn việc áp dụng các học thuyết Phương Đông ở doanh nghiệp Toyota tại Việt Nam hiện nay
downloadfile8 -> Phát triển các hình thức liên doanh với nước ngoài trong sản xuất hàng xuất khẩu ở Nghệ An MỞ ĐẦU
downloadfile8 -> Luận văn TÌnh hình thưƠng mại giữa việt nam và CÁc nưỚc khối nam mỹ
downloadfile8 -> Đề tài Thái độ của người hâm mộ sau khi kết thúc giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam năm 2012
200 -> SỞ gd&Đt quảng ngãi kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp trưỜng trưỜng thpt chuyên năm họC 2011-2012

tải về 2.15 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương